Chuỗi Mân Côi

KINH MÂN CÔI TUYỆT DIỆU,

CHUỖI MÂN CÔI KHÍ CỤ HÒA HÒA BÌNH

 

Mân Côi trong tiếng Latinh là “Rosarium” nghĩa là “Vườn hoa hồng“. Bằng Kinh Mân côi, Giáo hội Công giáo làm chuỗi liên kết nhau, trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp tiến dâng Mẹ hiền.

Chuỗi Mân côi là một hành trang “bỏ túi”, “đeo tay” “đeo cổ” gọn nhẹ.

Chuỗi Mân côi không khác gì điện thoại di động, hòa đời người vào mạng lưới sự sống thiêng liêng với Chúa Giêsu và Mẹ Maria.

Lời kinh Mân côi kỳ diệu này giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội.

  1. Nguồn gốc – Lịch sử

– Thời xưa, các tu sĩ và giáo dân thường có thói quen đọc kinh Phụng vụ mỗi ngày, gồm 150 Thánh Vịnh của Vua Đavit để ca ngợi, cảm tạ Chúa. Các TV chia làm 3 nhóm, mỗi nhóm 50, đọc sáng, trưa, chiều.

– Sau này Hội thánh cho phép đọc 150 kinh Lạy Cha.

– Từ đó người ta liên tưởng đến việc suy ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Kết quả là 150 Thánh vịnh Đức Mẹ ra đời: “Kính mừng Maria…”

– Đến thế kỷ 15, Đgh Pio V cho thêm vào “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời..” là kinh Kính mừng ngày nay.

– Đức Mẹ truyền cho Thánh Đaminh truyền bá Kinh Mân Côi.

  1. Kinh Mân côi, một kho tàng quý giá của Giáo hội.

Đgh Gioan Phaolô II: “Chuỗi Mân côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy“.

Kinh Mân côi là quyển Thánh Kinh rút gọn, lần lượt diễn tả:

Mầu nhiệm Vui: đồng hành với mầu nhiệm Nhập thể và đời sống âm thầm của Chúa Giêsu.

Mầu nhiệm Sáng: đồng hành với những mốc thời gian hoạt động đặc biệt có ý nghĩa trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu.

Mầu nhiệm Thương: đồng hành với những đau khổ của cuộc khổ nạn Chúa Giêsu.

Mầu nhiệm Mừng: đồng hành với vinh quang phục sinh của Đức Kitô.

Các Đức Thánh Cha đều khẳng định về sự tuyệt diệu của Kinh Mân côi và mong muốn mọi tín hữu hãy siêng năng lần chuỗi.

  1. Kinh Mân côi, lời kinh gần gũi cuộc sống

Đgh Gioan Phaolô II xác tín:

Kinh Mân côi là lời kinh kỳ diệu, đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung.

“Kinh Mân côi là kinh hạt phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào”.

-Lần hạt ở đâu cũng được.

-Đọc bao nhiêu tuỳ vào thời gian ta có.

-Ta cũng có thể vừa làm việc vừa đọc

-Ta cũng có thể thì thầm bất cứ lúc nào

-Dù bận bịu đến đâu ta cũng có thể lần hạt.

Đó là cách cầu nguyện “chiêm niệm bên vệ đường“.

 

  1. Chuỗi Mân côi đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng

Chuỗi Mân côi thật cao quí, ai biết siêng năng lần hạt sẽ nhận được hiệu quả phi thường.

– Vào thế kỷ 13, thánh Đaminh đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo Hội.

– Năm 1511, Đgh Piô V kêu gọi mọi người siêng năng lần chuỗi Mân côi, lập Đạo Binh Thánh giá, chống lại Hồi Giáo. Ngày 07 tháng 10. Đgh đã thiết lập lễ Mân côi để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ ngày lịch sử này.

– Năm 1917, Đức Mẹ hiện ra tại Fatima cho 3 trẻ Lucia, Giaxinta và Phanxicô, dạy siêng năng lần chuỗi Mân côi.

  1. Chuỗi Mân côi là một vũ khí Hòa bình

Thánh Piô Năm Dấu Thánh chia sẻ: “Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân côi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu, hãy lần chuỗi Mân côi“.

– Cha Stefano Gobbi viết: “Chuỗi Mân côi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mân côi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân“.

Chuỗi Mân côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực.

-Ai yếu đuối, kinh Mân côi đem cho sức mạnh;

-Ai tội lỗi, Kinh Mân côi dắt về ơn thánh;

-Ai bất hạnh, Kinh Mân côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên;

-Ai khô khan, Kinh Mân côi giúp khám phá ra những ánh lửa ấm.

  1. Đức Hồng y Phanxicô Xaviê THUẬN nói về chuỗi Mân côi:

Chuỗi Mân Côi là dây ràng buộc con với Mẹ, là cuốn phim kỷ niệm con đường hy vọng của Mẹ: Âu yếm như Bê Lem, khắc khoải như Ai Cập, trầm lặng như Nazareth, lao động như xưởng mộc, sốt sắng như đền thờ, cảm động lúc Chúa giảng, đau khổ bên thánh giá, vui mừng lúc Phục Sinh, tông đồ bên thánh Gioan.

Tóm tắt lại, Chúa sống trong Mẹ, Mẹ trong Chúa, hai cuộc đời chỉ là một. Đừng bỏ chuỗi Mân Côi Mẹ đã trao và nhắn nhủ con sống như Mẹ, với Mẹ, nhờ Mẹ, trong Mẹ”. (Đường Hy Vọng, số 922)

Quyết tâm: Luôn có vũ khí Chuỗi Mân côi, siêng đọc kinh Kính Mừng.

Cầu nguyện: Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết yêu mến Mẹ, nhờ Mẹ dẫn con đến Chúa Giêsu, qua Chuỗi Mân côi, siêng năng Lần hạt trong mỗi ngày sống. Xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa, khi này và trong giờ lâm tử. Amen.

Sứ Điệp Đức Thánh Cha

SỨ ĐIỆP ĐỨC THÁNH CHA

NHÂN NGÀY KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO

Anh chị em thân mến,

Khánh Nhật Truyền Giáo 2015 diễn ra trong bối cảnh của Năm Đời Sống Thánh Hiến, mang lại một động lực mạnh hơn nữa để cầu nguyện và suy tư. Vì, nếu như mỗi người đã được rửa tội đều được mời gọi làm chứng cho Chúa Giêsu bằng cách rao giảng đức tin họ đã được lãnh nhận như một ân sủng; thì điều này còn đúng đặc biệt hơn nữa đối với mỗi người nam nữ thánh hiến. Có một mối liên hệ rõ ràng giữa đời sống thánh hiến và sứ vụ truyền giáo. Ước muốn được theo Chúa Giêsu cận kề đã dẫn đến sự xuất hiện của đời sống thánh hiến trong Giáo Hội. Ước muốn ấy đáp lại lời mời gọi của Chúa là vác thánh giá và theo Ngài, để bắt chước sự tận hiến của Ngài cho Chúa Cha, bắt chước sự phục vụ và tình yêu của Ngài, để đánh mất cuộc sống này cho sự sống mai hậu. Toàn bộ cuộc sống dương thế của Chúa Kitô đã có một đặc tính truyền giáo, cho nên, tất cả những ai theo Ngài một cách gần gũi cũng phải có phẩm chất truyền giáo này.

Chiều kích truyền giáo, là điều thuộc về bản chất của Giáo Hội, cũng là tính chất nội tại của mọi dạng thức đời sống thánh hiến, và không thể bỏ qua mà không làm mất đi hay làm biến dạng đặc sủng của đời thánh hiến. Là một nhà truyền giáo không phải là chuyện chiêu mộ tín đồ hay đơn thuần là chuyện chiến lược; truyền giáo là một phần trong “ngữ pháp” của đức tin, là một cái gì đó rất thiết yếu đối với những ai lắng nghe tiếng nói của Thánh Linh đang thì thầm “Đến đây” và “Hãy đi”. Những người theo Chúa Kitô không thể không là các nhà truyền giáo, vì họ biết rằng Chúa Giêsu “đồng hành với họ, nói với họ, và cùng thở với họ. Họ cảm nhận được Chúa Giêsu sống động với họ ở giữa công cuộc truyền giáo “(Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, 266).

Truyền giảng Tin Mừng là một niềm đam mê đối với Chúa Giêsu và đồng thời cũng là một niềm đam mê đối với dân Ngài. Khi chúng ta cầu nguyện trước Chúa Giêsu chịu đóng đinh, chúng ta thấy chiều sâu thẳm của tình yêu Ngài, là điều mang đến cho chúng ta nhân phẩm và nâng đỡ chúng ta. Đồng thời, chúng ta nhận ra rằng tình yêu tuôn chảy từ trái tim bị lưỡi đòng đâm thâu qua của Chúa Giêsu đang mở ra để ôm lấy Dân Chúa và toàn thể nhân loại. Chúng ta nhận ra lần nữa rằng Ngài muốn dùng chúng ta để lôi kéo đến gần hơn dân Ngài yêu dấu (x. thượng dẫn. 268) và tất cả những ai thành tâm tìm kiếm Ngài. Trong lệnh truyền của Chúa Giêsu “hãy đi”, chúng ta thấy các tình huống và những thách thức mới luôn hiện diện trong sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội. Tất cả các thành viên của Giáo Hội được mời gọi để rao giảng Tin Mừng bằng chứng tá là mạng sống của họ. Cách riêng, những người nam nữ thánh hiến được yêu cầu lắng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần, Đấng kêu gọi họ ra đi đến các vùng ngoại vi, đến những ai mà Tin Mừng chưa hề được công bố.

Kỷ niệm lần thứ năm mươi sắc lệnh Ad Gentes (“Đến với Muôn dân”) của Công đồng Vatican II là một lời mời gọi tất cả chúng ta phải đọc lại tài liệu này và suy tư trên nội dung của sắc lệnh ấy. Sắc lệnh kêu gọi một động lực truyền giáo mạnh mẽ trong các định chế Đời Sống Thánh Hiến. Đối với các cộng đoàn chiêm niệm, Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, Bổn Mạng của các nhà truyền giáo, xuất hiện trong một ánh sáng mới; Thánh Nữ nói với một sự hùng hồn thật mới mẻ và truyền cảm hứng cho sự suy tư trên các mối liên kết sâu sắc giữa đời sống chiêm niệm và sứ vụ truyền giáo. Đối với những cộng đoàn tích cực truyền giáo, động lực truyền giáo phát sinh từ Công Đồng đã được đáp lại với một sự cởi mở ngoại thường dành cho sứ vụ đến với muôn dân, và thường được đi kèm với một sự cởi mở với các anh chị em từ các vùng đất và các nền văn hóa mà chúng ta gặp gỡ trên bước đường truyền giáo, đến mức mà ngày hôm nay chúng ta có thể nói về một hiện trạng “Liên Văn Hóa” rộng rãi trong đời sống thánh hiến. Do đó, có một nhu cầu cấp thiết phải tái khẳng định rằng lý tưởng trung tâm của sứ vụ truyền giáo là Chúa Giêsu Kitô, và lý tưởng này đòi hỏi sự dâng hiến trọn bản thân cho việc loan báo Tin Mừng. Về điểm này không thể có sự thỏa hiệp nào, đó là, những người nhờ ân sủng của Thiên Chúa đã chấp nhận sứ vụ, thì được mời gọi để sống sứ vụ ấy. Đối với họ, việc công bố của Chúa Kitô trong nhiều vùng ngoại vi của thế giới trở thành con đường để theo Chúa Kitô, Đấng cao trọng hơn mọi hồi đáp vì bao nhiêu những gian truân và hy sinh của họ. Bất kỳ xu hướng nào đi chệch khỏi ơn gọi này, ngay cả khi bị thúc đẩy bởi vô số những lý do cao cả về mục vụ, hay bởi những nhu cầu của Giáo Hội hay nhân loại, đều không phù hợp với lời mời gọi của Chúa là phải hết mình trong sứ vụ Tin Mừng. Trong các cơ cấu truyền giáo, các nhà đào tạo được mời gọi chỉ ra rõ ràng và thẳng thắn kế hoạch sống và hành động này, cũng như để phân định ơn gọi truyền giáo đích thực. Tôi kêu gọi đặc biệt giới trẻ, những người có khả năng đưa ra những chứng tá dũng cảm và những hành động quảng đại, ngay cả khi những điều này đi ngược lại văn hóa đương đại: Các con đừng để ai cướp mất lý tưởng truyền giáo thật sự, và lý tưởng theo Chúa Giêsu qua việc trao ban toàn thể chính mình. Trong sâu thẳm của lương tâm các con, hãy tự hỏi tại sao các con đã chọn cuộc sống truyền giáo và sẵn sàng để chấp nhận cuộc sống ấy vì đó là một ân sủng của tình yêu dành cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Hãy nhớ rằng việc loan báo Tin Mừng là một điều cần thiết cho những ai yêu mến Thầy, trước khi đó là điều cần thiết cho những người chưa nghe biết đến Tin Mừng.

Hôm nay, sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội đang phải đối mặt với những thách thức trong việc đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi dân tộc là trở lại với cội nguồn của họ và bảo vệ các giá trị của nền văn hóa. Điều này có nghĩa là chúng ta cần hiểu biết và tôn trọng các truyền thống và các hệ triết học khác, và nhận ra rằng tất cả các dân tộc và các nền văn hóa có quyền được giúp đỡ từ bên trong truyền thống riêng của họ để bước vào mầu nhiệm sự khôn ngoan của Thiên Chúa và đón nhận Tin Mừng của Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng và là sức mạnh biến đổi cho tất cả các nền văn hóa.

Trong sự phức tạp năng động này, chúng ta tự hỏi: “Người đầu tiên mà sứ điệp Tin Mừng phải được rao giảng là ai?”. Câu trả lời được tìm thấy rất nhiều trong Phúc Âm là rõ ràng: đó là những người nghèo, những người bé nhỏ và đau yếu, những người bị khinh rẻ hay quên lãng, những người không thể hồi đáp chúng ta (x Lc 14: 13-14). Việc Truyền Giảng Tin Mừng hướng ưu tiên đến những người chót nhất giữa chúng ta là một dấu chỉ của Vương quốc mà Chúa Giêsu đã mang lại: “Có một mối giây không thể tách rời giữa đức tin của chúng ta và người nghèo. Xin cho chúng ta đừng bao giờ bỏ rơi họ” (Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, 48). Điều này phải được rõ ràng trước hết với tất cả những ai đón nhận cuộc sống thánh hiến. Với các lời khấn khó nghèo, họ chọn đi theo Đức Kitô với ưu tiên dành cho người nghèo của Ngài, không phải chuyện ý thức hệ, nhưng là trong cùng một cách mà Ngài đã đồng hóa mình với những người nghèo. Với cuộc sống giữa những người nghèo trong bối cảnh bất định của cuộc sống hàng ngày và với việc từ bỏ mọi thứ quyền lực, họ trở thành anh chị em của người nghèo, trong khi mang đến cho họ niềm vui của Tin Mừng và một dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa.

Khi sống như những chứng nhân Kitô giáo và như dấu chỉ của tình yêu Chúa Cha giữa những người nghèo và bị thiệt thòi, người sống đời thánh hiến được mời gọi để thúc đẩy sự hiện diện của các tín hữu giáo dân trong sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội. Như Công Đồng Vatican II đã khẳng định: “Hàng giáo dân nên hợp tác trong công việc truyền giáo của Giáo Hội; như những chứng nhân và đồng thời như những khí cụ sống động, họ thông phần trong sứ vụ cứu độ của Giáo Hội” (Sắc Lệnh Đến với Muôn Dân, 41). Những nhà truyền giáo được thánh hiến cần phải quảng đại đón nhận những người sẵn sàng làm việc với họ, thậm chí khi họ chỉ có thể làm việc trong một thời gian hạn chế, để cho họ có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Họ đều là những anh chị em muốn chia sẻ ơn gọi truyền giáo nhận được từ bí tích Rửa Tội. Những tu hội và cơ cấu thừa sai đương nhiên phải là những nơi chào đón họ và cung cấp cho họ những hỗ trợ nhân bản, thiêng liêng và tông đồ.

Các hội dòng và cộng đoàn Truyền Giáo của Giáo Hội phải toàn tâm trong sứ vụ rao giảng cho những ai chưa biết đến Tin Mừng của Chúa Giêsu. Điều này nghĩa là các tổ chức này cần phải dựa vào các đặc sủng và sự dấn thân truyền giáo của các thành viên thánh hiến của mình. Nhưng những người nam nữ thánh hiến cũng cần một cấu trúc dịch vụ, một biểu hiện của sự quan tâm của Đức Giám Mục Roma, để đảm bảo sự hiệp thông, sự hợp tác và sức mạnh tổng hợp là một phần không thể thiếu của chứng tá truyền giáo. Chúa Giêsu coi sự hiệp nhất của các môn đệ của Ngài như một dấu chỉ để thế gian tin (xem Ga 17:21). Sự hội tụ này là không giống như chủ nghĩa pháp quy hay chủ nghĩa định chế hóa, ít nhiều bóp nghẹt sự sáng tạo của Thánh Linh, là Đấng linh hứng cho sự đa dạng. Nó là nhằm đem lại thành quả lớn hơn cho sứ điệp Tin Mừng và đề cao chính nghĩa hiệp nhất cũng là hoa trái của Chúa Thánh Thần.

Các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo có một chiều kích hoạt động tông đồ phổ quát. Đó là lý do tại sao các Hội truyền giáo này cũng cần nhiều đoàn sủng của đời sống thánh hiến, để hướng đến những chân trời bao la của việc loan báo Tin Mừng và để có thể bảo đảm một sự hiện diện thích đáng trong bất cứ vùng đất nào họ được sai đến.

Anh chị em thân mến, một nhà truyền giáo đích thực phải say mê Tin Mừng. Thánh Phaolô đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16). Tin Mừng là nguồn mạch của niềm vui, sự giải thoát và ơn cứu độ cho tất cả mọi người nam nữ. Giáo Hội nhận thức ân sủng này, và vì thế Giáo Hội không ngừng loan báo cho mọi người về “điều đã có ngay từ đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt” (1 Ga 1: 1). Sứ vụ của những tôi tớ của Lời – tức là các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân – là làm cho mọi người không trừ một ai được đi vào một mối liên hệ cá vị với Chúa Kitô. Trong toàn bộ các hoạt động truyền giáo đa dạng của Giáo Hội, tất cả các tín hữu đều được mời gọi sống cam kết khi chịu phép rửa đến mức viên mãn nhất, theo hoàn cảnh cá nhân mỗi người. Một lời đáp trả quảng đại cho ơn gọi phổ quát này có thể được đưa ra bởi những người nam nữ sống đời thánh hiến qua một đời sống cầu nguyện mãnh liệt và hiệp nhất với Chúa và hy tế cứu độ của Ngài.

Tôi xin phó thác cho Đức Maria – Mẹ của Giáo Hội và là mẫu gương của nhà truyền giáo – tất cả những người nam nữ trong mọi trạng huống của cuộc sống đang hoạt động để loan báo Tin Mừng, cho muôn dân hay ngay trên chính quê hương của họ. Tôi rộng ban Phép lành Tòa Thánh cho tất cả các nhà truyền giảng Tin Mừng.

Vatican, 24 tháng 5, 2015
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
+ Đức Giáo Hoàng Phanxicô