Fratelli Tutti -Tất cả là Anh Chị Em- Của Đức Thánh Cha Phanxico- Chương I&II

THÔNG ĐIỆP

FRATELLI TUTTI (TẤT CẢ LÀ ANH CHỊ EM) của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô

về TÌNH MẾN ĐỆ HUYNH và TÌNH HỮU NGHỊ XÃ HỘI

  1. Tất cả là Anh chị em” (Fratelli Tutti) [1]. Thánh Phan-xi-cô Át-si-zi nói những lời này với anh chị em của ngài, cũng như đề xuất cho họ một lối sống đầy hương vị Phúc Âm. Nhờ lời khuyên răn của thánh nhân, tôi muốn chọn lời ngài mời gọi cho tình bác ái mà nó vượt lên các giới hạn địa lý cũng như khoảng cách, và khẳng khái công bố ơn lành cho những ai yêu mến anh chị em mình “nhiều đến nỗi khi cách xa mà vẫn cảm thấy như đang kề bên” [2]. Với lối nói đơn sơ nhưng trực diện này, Thánh Phan-xi-cô đã lột tả bản chất của sự cởi mở huynh đệ mà nó cho phép chúng ta thừa nhận, cảm kích và yêu thương mỗi người, bất luận tương đồng về thể lý, hay nơi chào đời hoặc sinh sống.
  1. Chính tình mến huynh đệ, lòng đơn sơ cũng như niềm vui của thánh nhân đã tạo nguồn cảm hứng cho tôi biên soạn Thông điệp Laudato Si’, và một lần nữa gợi hứng cho tôi hiến trọn Thông điệp mới này cho tình mến đệ huynh và tình hữu nghị xã hội. Thánh Phan-xi-cô cảm nhận mình là anh em của mặt trời, biển cả và gió, nhưng ngài cũng biết rõ mình gần gũi hơn với chúng như thể xác thịt mình. Bất kể đến đâu, thánh nhân luôn gieo những hạt giống bình an, và đồng hành với người nghèo, với ai bị bỏ rơi, với người yếu đau, người bị loại ra ngoài, những người mọn hèn nhất trong số anh chị em của ngài.

KHÔNG BIÊN GIỚI

 

  1. Có một tình tiết trong đời của Thánh Phan-xi-cô cho thấy sự cởi mở tâm hồn của ngài, mà nó được biết tới như vô hạn và vượt lên những khác biệt về nguồn gốc, quốc tịch, màu da hay tôn giáo. Đó là lần ngài viếng thăm Sultan Malik-el-Kamil, tại Ai Cập. Cuộc thăm viếng này đã đẩy ngài vào nguy khó, nghèo khổ, nguồn sống cạn kiệt, chặng đường hành trình quá xa xôi, phải đối diện với sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hoá và tôn giáo. Nhưng chuyến đi vào thời Thánh chiến ấy tỏ lộ tình yêu của ngài ngày càng sâu rộng lớn lao và luôn tìm kiếm để ôm trọn mọi người. Lòng tín trung đối với Chúa của Thánh Phan-xi-cô cũng ngang tầm với tình mến mà ngài dành cho anh chị em. Chẳng bận tâm đến những nỗi gian nan, hiểm nguy, thánh nhân đến gặp gỡ Sultan với cùng một thái độ mà ngài hằng truyền lại cho môn đệ mình: nếu như họ tự nhận là những người “thuộc nhóm Saracen hay vô thần khác”, thì họ không nên “tham dự vào các cuộc tranh biện hay tranh chấp”, cũng chẳng cần chối bỏ căn tính riêng, “nhưng vì ý Chúa, họ phải lệ thuộc vào mọi loài thọ tạo” [3]. Trong bối cảnh thời đại, đây là một đề xuất lạ thường. Chúng ta ấn tượng rằng kể từ khoảng 800 năm, Thánh Phan-xi-cô thúc giục nên tránh xa mọi hình thức thù nghịch hay mâu thuẫn, và sống “lời đề xuất” khiêm hạ, yêu thương trong tình đệ huynh với những ai không chia sẻ cùng đức tin.
  1. Thánh nhân không phát động khẩu chiến nhắm tới áp đặt những tín lý, mà chỉ truyền bá tình yêu Thiên Chúa, bởi lẽ ngài hiểu rõ “Thiên Chúa là tình yêu, và những ai sống trong tình yêu thì sẽ sống trong Người” (1Ga 4, 16). Nhờ vậy, ngài trở thành người cha hiền của mọi người, và mang lại nguồn cảm hứng cho tầm nhìn của xã hội đệ huynh. Quả thật, “chỉ ai đến gần với tha nhân, chứ không xa lánh họ trong đời, mới giúp họ trở nên chính mình trọn vẹn hơn, và sẽ thực sự được gọi là người cha” [4]. Trong thế giới thời ấy, đầy dẫy tháp canh và tường thành phòng ngự được dựng lên, còn thành thị là rạp chiếu phim của những trận chiến tàn bạo giữa các gia đình quyền lực, ngay cả sự đói nghèo trải rộng khắp vùng quê. Tuy nhiên, thánh Phan-xi-cô vẫn ân cần tiếp nhận bình an nơi tâm hồn, và tự giải thoát bản thân khỏi tham vọng nắm giữ uy quyền cai trị người khác. Ngài đã trở thành người nghèo trong số họ, và luôn nỗ lực tìm cách sống hoà nhã với tất cả. Thật vậy, chính Thánh Phan-xi-cô đã gợi hứng cho tôi viết lên những trang này.
  1. Các vấn đề về tình huynh đệ giữa con người cũng như tình hữu nghị xã hội luôn luôn là mối quan tâm của tôi. Gần đây nhất, tôi đã lặp đi lặp lại, và trình bày ở nhiều khung cảnh khác nhau. Tuy nhiên, trong Thông điệp này, tôi muốn tập hợp và đưa chúng vào một bối cảnh suy tư rộng lớn hơn. Khi chuẩn bị viết Thông điệp Laudato Si’, tôi đã lấy nguồn cảm hứng từ người hiền huynh của tôi, Đức Thượng Phụ Chính Thống giáo Bar-tô-lô-mê-ô, người đã mạnh mẽ đề cập đến nhu cầu chăm sóc mọi loài thọ tạo. Hơn nữa, lúc ấy, tôi được Vị Imam Đáng kính Ahmad Al-Tayyeb khích lệ đặc biệt, người mà tôi đã gặp tại Abu Dhabi, nơi đó chúng tôi cùng tuyên bố “Thiên Chúa đã tạo dựng mọi người bình đẳng về nghĩa vụ, trách nhiệm, phẩm giá, và kêu mời họ sống với nhau như anh chị em” [5]. Đây không đơn thuần là cử chỉ ngoại giao, mà là một suy tư được ra đời từ tinh thần đối thoại và cam kết chung. Vì vậy, Thông điệp hiện tại này sẽ đề cập và triển khai một số chủ đề lớn lao mà đã được nêu ra trong Tài liệu chúng tôi cùng nhau ký kết. Với tư tưởng cá nhân, tôi cũng sẽ kết hợp nhiều tông thư, văn kiện cũng như những đánh giá mà tôi nhận được từ không ít cá nhân và các nhóm trên toàn thế giới.
  1. Phần trình bày sau đây không nhằm đưa ra một giáo thuyết toàn vẹn về tình huynh đệ, nhưng đúng hơn cân nhắc phạm vi phổ quát, và tính rộng mở của nó dành cho mọi người, nam cũng như nữ. Tôi xin mến tặng Thông điệp xã hội này như một sự đóng góp nhỏ bé cho những suy tư tiếp diễn, với hy vọng rằng khi đối mặt với mọi nỗ lực loại bỏ hay phớt lờ người khác thời nay, chúng ta có thể chứng tỏ khả năng đáp ứng dựa trên tầm nhìn mới mẻ của tình hữu nghị xã hội và lòng mến đệ huynh mà không chỉ ở mãi cấp độ ngôn từ. Tuy tôi viết từ niềm xác tín Ki-tô giáo mà đã linh hứng và dưỡng nuôi tôi, nhưng tôi xin dành suy tư này như một lời mời gọi đối thoại giữa toàn thể mọi người đầy thiện chí.
  1. Khi tôi đặt bút viết tâm thư này, đại dịch Cô-vi-19 bất ngờ bùng phát, khiến chúng ta bất an. Tuy vậy, ngoài những giải pháp khác nhau mà các quốc gia ứng phó với cuộc khủng hoảng này, thì tính bất lực trong việc chung tay hành động lại trở nên khá rõ rệt. Do mọi kết nối vượt ranh giới quá mức, mà chúng ta chứng kiến sự rạn nứt chia rẽ, lại càng khó giải quyết những vấn đề này đang tác động đến chúng ta hơn. Nếu ai cũng chỉ nghĩ rằng đây là bài học kinh nghiệm cần phải cải thiện việc chúng ta đang làm, hoặc tinh luyện các hệ thống và quy định hiện tại, thì chính họ đang phủ nhận thực tế.
  1. Trong thời đại chúng ta, tôi ước mong rằng chúng ta có thể đóng góp vào việc tái sinh lòng khát khao phổ quát về tình đệ huynh bằng cách thừa nhận phẩm giá của mỗi con người. Tình mến giữa tất cả đàn ông cũng như phụ nữ. “Nay chúng ta có một bí quyết huy hoàng tiết lộ cho chúng ta biết ước mơ thế nào, cũng như biến đời mình thành cuộc hành trình khám phá tuyệt vời. Chẳng ai có thể đối mặt với cuộc sống trong sự cô lập cả…Chúng ta cần đến một cộng đồng luôn hỗ trợ và giúp đỡ chúng ta, và ngược lại, chúng ta cũng có thể giúp đỡ nhau mãi hướng nhìn về phía trước. Thật hệ trọng biết bao khi cùng nhau mơ ước…Tự bản thân, chúng ta liều mình nhận ra ảo vọng, cũng như mọi thứ không hiện hữu ở đó. Nhưng ước mơ được chung xây” [6]. Vì thế, chúng ta hãy cùng nhau mơ ước như một gia đình nhân loại đơn nhất, như những người bạn đồng hành cùng xác phàm, như những đứa con cùng chung địa cầu, là ngôi nhà chung của chúng ta, để mỗi chúng ta chia sẻ tính phong phú đa dạng của niềm tin cũng như tín ngưỡng riêng, với ngôn từ giọng nói của mình, vì tất cả đều là anh chị em với nhau.

CHƯƠNG I

MÂY ĐEN BAO TRÙM THẾ GIỚI KHÉP KÍN

 

  1. Không nhằm thực hiện một phân tích toàn diện hay nghiên cứu mọi khía cạnh của cảm nghiệm thời nay, mà đơn giản, tôi chỉ muốn xem xét một số xu thế trong thế giới chúng ta mà nó đang cản trở sự tiến triển của tình huynh đệ phổ quát.

NHỮNG GIẤC MƠ VỠ TAN

 

  1. Qua bao thập niên, tưởng chừng thế giới chúng ta đã học được biết bao bài học kinh nghiệm từ nhiều cuộc chiến tranh cũng như thảm hoạ, và đang dần tiến tới các loại hình hoà nhập khác nhau. Thí dụ, đã từng có một ước mơ Âu Châu hợp chủng, có khả năng thừa nhận nguồn gốc chung và hân hoan tận tưởng trước tính đa dạng phong phú của nó. Chúng ta nghĩ đến “niềm xác tín vững chắc của những vị sáng lập Liên hiệp Châu Âu, hình dung một tương lai dựa trên năng lực cộng tác hàn gắn chia rẽ, cổ vũ hoà bình và hiệp thông giữa mọi dân tộc thuộc châu lục này” [7]. Tương tự, cũng có một mong ước hoà nhập ngày một tăng tại Châu Mỹ Latinh, và vô vàn biện pháp đã được thực hiện theo hướng này. Ở vài quốc gia và khu vực, các nỗ lực hoà giải và nối lại tình hữu nghị được minh chứng hiệu quả, trong khi nhiều nỗ lực khác cho thấy đầy hứa hẹn triển vọng.
  1. Tuy nhiên, thời đại chúng ta ngày nay dường như đang cho thấy nhiều dấu hiệu của một sự thoái trào nào đó. Các xung đột xa xưa mà đã bị chôn vùi bấy lâu đang bùng phát trở lại, trong lúc trường hợp điển hình của chủ nghĩa dân tộc hiếu chiến, phẫn uất, thiển cận, cực đoan đang trên đà gia tăng. Tại một số đất nước, khái niệm thống nhất quốc gia phổ biến bị các ý thức hệ khác nhau chi phối, đang tạo ra nhiều hình thái của thói ích kỷ và đánh mất cảm thức xã hội do chiêu bài đội lốt bảo vệ lợi ích quốc gia. Một lần nữa, chúng ta được nhắc nhở rằng “mỗi thế hệ sau phải gánh vác mọi tranh đấu và thành tựu của thế hệ trước, trong khi đặt tầm nhìn của mình cao hơn. Đó chính là chặng đường. Lòng tốt, cùng với tình yêu, công bình và liên đới, không chỉ đạt được một lần và cho tất cả mãi mãi, mà là phải nhận ra nó mỗi ngày. Chẳng thể nào an phận với những gì đã đạt được trong quá khứ, và tự mãn tận hưởng nó như thể bằng cách nào đó, chúng ta không đếm xỉa gì đến thực tại mà nhiều người anh chị em vẫn đang chịu đựng những tình cảnh cần chúng ta lưu tâm” [8].
  1. “Mở rộng toàn cầu” là kiểu nói mà các nhà kinh tế-tài chính kết nạp, và nay chỉ được sử dụng độc quyền cho lợi ích nước ngoài hay mở cửa tự do cho những cường quốc kinh tế đầu tư mà không cần phải đối mặt với ngăn trở hoặc điều kiện phức tạp tại mọi quốc gia. Các xung đột địa phương và thói xem thường lợi ích chung bị nền kinh tế toàn cầu lợi dụng nhằm áp đặt một mô hình văn hoá đơn nhất. Nền văn hoá này thống nhất thế giới, nhưng chia rẽ các dân tộc và quốc gia, bởi vì “xã hội ngày càng trở nên toàn cầu hoá, nó biến chúng ta thành hàng xóm láng giềng với nhau, nhưng không làm chúng ta trở thành anh chị em của nhau” [9]. Chúng ta cô đơn hơn bao giờ hết trong một thế giới đang bùng nổ chóng mặt, nó thúc đẩy tư lợi, nhưng làm suy yếu tính cộng đồng của đời sống. Thật vậy, quá nhiều thị trường mà nơi ấy các cá nhân chỉ là giới tiêu thụ đơn thuần hoặc những kẻ bàng quan. Như một quy luật, sự tiến bộ của loại hình toàn cầu hoá này củng cố căn tính của kẻ mạnh thêm, là những người chỉ bảo vệ bản thân, nhưng lại có xu hướng hạ thấp căn tính của người yếu thế và các khu vực nghèo hơn, khiến họ càng tổn thương và bị lệ thuộc. Theo cách này, đời sống chính trị trở nên mong manh trước các cường quốc kinh tế xuyên quốc gia hoạt động dựa trên nguyên tắc “chia để trị”.

Kết cuộc của ý thức lịch sử

 

  1. Vì vậy, ngày càng đánh mất cảm thức lịch sử, dẫn tới tình trạng chia rẽ thậm chí còn sâu xa hơn. Một loại “chủ nghĩa phá hoại” đang tồn tại và dần hình thành trong văn hoá ngày nay, theo đó, tự do của con người cho là mình có thể tạo ra mọi thứ từ con số không. Khi trỗi dậy, một thứ nó để lại phía sau đó là động lực tiêu thụ vô hạn và các biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân rỗng tuếch. Bận tâm về điều này đã khiến tôi đưa ra vài lời khuyên cho người trẻ. “Nếu như ai đó bảo các bạn trẻ làm ngơ lịch sử của họ, bác bỏ những kinh nghiệm của bậc cao niên, xem thường quá khứ và hướng tới một tương lai mà chính họ nắm giữ, thì lúc đó há chẳng dễ dàng lôi kéo họ để họ chỉ làm theo những gì người này nói với họ thôi sao? Người này muốn các bạn trẻ nông nổi, quên đi nguồn cội và bất tín, để chỉ biết tin tưởng vào lời hứa hẹn suông, rồi làm theo kế hoạch của kẻ ấy. Đây là phương cách mà các ý thức hệ khác nhau được vận hành: chúng huỷ hoại (hoặc phá hoại) tất cả đặc tính khác biệt, để rồi dễ dàng cai trị mà chẳng lo bị phản đối. Tuy nhiên, để làm điều đó, chúng cần các bạn trẻ mù mờ về lịch sử, khinh thường những giá trị tâm linh và nhân bản phong phú, mà được thừa hưởng từ các thế hệ đi trước, cũng như vô tri mọi thứ diễn ra trước họ” [10].
  1. Đây là những hình thức thực dân kiểu mới về văn hoá. Chúng ta đừng quên rằng “dân tộc nào từ bỏ truyền thống của mình, kể cả do loạn trí bắt chước kẻ khác, hay vì bạo lực xúi giục, lẫn do tính phóng túng không thể dung thứ hoặc vì thói ác cảm, đều cho phép kẻ khác cướp lấy chính linh hồn họ, dẫn đến kết cuộc đánh mất không chỉ bản sắc tinh thần, mà còn cả sự nhất quán đạo đức của họ, và sau cùng, là tính độc lập về trí tuệ, kinh tế lẫn chính trị nữa” [11]. Một cách hữu hiệu nhằm làm suy yếu ý thức lịch sử, tư duy biện chứng, tranh đấu cho công lý và mọi diễn trình hoà nhập, đó là biến những hạn từ tuyệt vời nơi dân tộc ấy thành sáo rỗng, hoặc thao túng họ. Ngày nay, các cụm từ như dân chủ, tự do, công bằng hay hiệp nhất thật sự có nghĩa gì? Chúng đã bị bẻ cong, và bị bóp méo, chỉ được xem như những công cụ thống trị, như các cụm từ vô nghĩa, ngõ hầu biện minh cho bất cứ hành động nào.

THIẾU KẾ HOẠCH CHO MỌI NGƯỜI

 

  1. Cách tốt nhất để thống trị và kiểm soát mọi người là truyền bá nỗi tuyệt vọng và sự nhát đảm, ngay cả bằng hình thức đội lốt bảo vệ các giá trị nào đó. Ngày nay, tại nhiều quốc gia, lối nói cường điệu, chủ nghĩa cực đoan và tính phân cực trở thành những công cụ chính trị. Vận dụng chiến lược chế nhạo, đa nghi và chỉ trích tàn nhẫn, cũng như bằng mọi cách khước từ quyền con người được sinh tồn và được nêu ý kiến. Các giá trị và chân lý cùng sẻ chia của họ bị từ chối, và do đó, đời sống xã hội trở nên nghèo nàn và chịu cảnh tùng phục trước sự xấc xược của kẻ nắm quyền. Đời sống chính trị thì không còn phải tranh biện lành mạnh về các kế hoạch lâu dài, nhằm thúc đẩy cuộc sống của người dân, và phát triển công ích nữa, ngược lại, chỉ toàn là những kỹ thuật quảng bá đánh bóng chủ yếu nhắm tới việc hạ bệ uy tín người khác. Trong bối cảnh kết tội hèn nhát cũng như buộc tội này, tranh luận chỉ khiến suy thoái, rơi vào tình trạng bất hoà và đối đầu vĩnh viễn mà thôi.
  1. Giữa bao xung đột lợi ích tranh chấp, nơi bao hàm cả chiến thắng phải loại bỏ đối thủ, thì làm sao chúng ta có thể nâng tầm mắt để nhận ra người lân cận của ta, hay giúp những ai ngã quỵ giữa đường được? Một kế hoạch đưa ra với các mục tiêu lớn lao để phát triển toàn bộ gia đình nhân loại ngày nay trông như chứng mất trí ngớ ngẩn. Chúng ta ngày càng xa cách nhau, trong khi chặng đường đòi hỏi tiến chậm về một thế giới dần dần thống nhất và công bằng, thì nó đang chịu cảnh thoái trào kiểu mới ghê gớm.
  1. Quan tâm đến thế giới mà chúng ta đang sống nghĩa là phải quan tâm đến chính mình. Song, chúng ta cần ngẫm nghĩ về bản thân nhiều hơn như một gia đình đơn nhất đang chung sống trong ngôi nhà chung. Mối quan tâm này không gây hứng thú gì cho những cường quốc kinh tế mà nó đang đòi hỏi lợi nhuận nhanh chóng. Đôi khi tiếng nói cất lên để bảo vệ môi trường bị buộc câm lặng hay bị chế giễu, sử dụng những lập luận bề ngoài hợp lý chỉ để làm bình phong cho tư lợi đặc biệt. Trong nền văn hoá nông cạn thiển cận mà chúng ta tạo ra cướp đi viễn kiến chung này, “có thể tiên liệu rằng một khi nguồn tài nguyên cạn kiệt, thì cuộc chiến tranh mới sẽ được dàn xếp xảy ra, cho dù dưới chiêu bài các yêu sách cao thượng nào chăng nữa” [12].

Một thế giới “vứt bỏ”

 

  1. Dường như, một số thành phần trong gia đình nhân loại chúng ta có lẽ sẵn sàng hy sinh cho lợi ích của người khác, mà họ được xem là đáng được hưởng một cuộc sống vô tư hơn. Nói cho cùng, “con người không còn được coi là giá trị tối thượng cần được chăm sóc và tôn trọng nữa, đặc biệt khi họ nghèo nàn và tàn tật, ‘chưa hữu dụng” – như những trẻ thơ chưa chào đời, hay ‘không còn cần nữa’ – như người già nua. Chúng ta trở nên thờ ơ với mọi hoang phí, khởi đi từ việc lãng phí thức ăn, mà hành vi này đáng trách vô cùng” [13].
  1. Tỉ lệ sinh giảm dẫn tới hiện trạng dân số già, cùng với chuyện đẩy người già vào cuộc sống buồn bã và cô đơn, chính là cách thức tinh vi, lột tả mọi điều về chúng ta rằng chỉ những thứ mà cá nhân mình quan tâm mới quan trọng. Như vậy, “không chỉ thức ăn và vật dụng thừa thải bị vứt bỏ, mà đôi khi con người cũng chịu như vậy” [14]. Chúng ta chứng kiến mọi điều xảy ra với người lớn tuổi ở nơi nào đó trên thế giới này như là một hệ luỵ của vi-rút cô-rô-na. Họ không đáng phải chết như thế; nhưng vài sự việc tương tự đã diễn ra khá lâu suốt thời gian nóng bức, cũng như trong nhiều tình cảnh khác: người già nhận thấy mình bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn. Chúng ta không nhận ra rằng chính chúng ta đang làm gia đình mình biến dạng và trở nên nghèo nàn, mỗi khi cô lập người già, để họ bơ vơ một mình mà chẳng có thành viên nào mảy mảy đến chăm sóc, gần gũi, quan tâm, vỗ về. Kết cuộc, chúng ta cũng cướp đi tình thân nối kết thiết thực của người trẻ với cội nguồn và sự khôn ngoan mà họ không thể tự mình có được.
  1. Cách loại bỏ người khác có lẽ diễn ra dưới vô vàn dạng thức khác nhau như: nỗi ám ảnh của việc giảm giá thành lao động mà chẳng cần bận tâm đến hậu quả khôn lường, kể từ lúc nạn thất nghiệp trực tiếp nổ ra, khiến sự nghèo khổ càng lan rộng [15]. Hơn nữa, chẳng chút do dự loại bỏ người khác thường được biểu lộ qua những thái độ xấu xa mà chúng ta đã ấp ủ trong tư tưởng từ lâu như: chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, nó được chôn dấu sâu dưới lòng đất, chỉ chờ thời bùng phát trở lại. Nhiều vụ việc do chủ nghĩa này gây ra vẫn đang tiếp diễn, khiến chúng ta xấu hổ tủi nhục, vì nó cho thấy rằng sự tiến triển cần phải có của xã hội này cũng chẳng thật hoặc chắc chắn như chúng ta nghĩ.
  1. Một số quy luật kinh tế đã chứng tỏ hữu hiệu cho tính tăng trưởng, nhưng không nhằm phát triển nhân bản toàn diện [16]. Tài sản tăng, nhưng sự bất bình đẳng lại giảm, và hệ quả, “nhiều loại hình khó nghèo nảy sinh” [17]. Tuyên bố cho rằng thế giới hiện đại sẽ giảm đói nghèo bằng cách đo mức độ nghèo dựa trên các tiêu chuẩn xa xưa, mà không đáp ứng với những thực tế hiện nay. Thí dụ ở thời đại khác, nhà nhà thiếu điện, nhưng không ai xem đây là dấu hiệu của tình trạng nghèo đói, cũng chẳng phải là gốc rễ của gian truân. Sự nghèo khổ phải luôn luôn được thấu hiểu và được đánh giá đúng đắn trong bối cảnh của những cơ hội thật sự có sẵn tại mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể.

Thiếu nhân quyền phổ quát

  1. Trên thực tế, chẳng phải lúc nào cũng rõ ràng, nhưng nhân quyền không bình đẳng cho tất cả mọi người. Tôn trọng những quyền ấy “là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của một quốc gia về mặt xã hội lẫn kinh tế. Khi phẩm giá con người được tôn trọng, thì quyền của họ được nhìn nhận và được đảm bảo, sự sáng tạo và tính phụ thuộc lẫn nhau đâm chồi nẩy lộc, và sáng kiến nơi phẩm hạnh con người được bộc lộ qua các hành động làm gia tăng công ích” [18]. Tuy nhiên, “quan sát kỹ lưỡng xã hội đương đại ngày nay, khi chứng kiến vô số tương phản, chúng ta không khỏi ngạc nhiên tự hỏi rằng liệu nhân phẩm bình đẳng đã được trân trọng công bố cách đây 70 năm, nay thật sự được nhìn nhận, tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy trong mọi hoàn cảnh chưa! Thế giới hôm nay còn tồn tại quá nhiều hình thức bất công, mà nó được bổ béo bằng những lối nhìn mang tính nhân chủng học giảm thiểu, và mô thức kinh tế chủ yếu dựa vào lợi nhuận không chút do dự bóc lột, trừ khử, thậm chí sát hại con người. Trong lúc một phần nhân loại sống trên nhung lụa sa hoa, thì phần khác nhận thấy phẩm giá của họ bị khước từ, bị nguyền rủa hay bị chà đạp, và những quyền căn bản của họ bị tước đoạt hoặc bị xâm phạm” [19]. Điều này nói cho chúng ta biết gì về bình đẳng quyền lợi vốn được gắn liền với phẩm giá bẩm sinh của con người?
  1. Tương tự, tổ chức xã hội toàn cầu vẫn còn xa vời với tư tưởng rõ ràng cho rằng phụ nữ sở hữu cùng một phẩm giá và quyền lợi căn tính như người nam. Chúng ta tiêu tốn nhiều lời về một sự việc, nhưng thực tế và các quyết định của ta lại là câu chuyện khác. Thật vậy, “những người phụ nữ ấy chịu khổ cực song đôi, vừa phải cam chịu tình cảnh bị loại trừ, bị ngược đãi và bạo hành, vừa không thể biện hộ quyền lợi cho bản thân” [20].
  1. Chúng ta cũng nên nhận ra rằng “ngay cả cộng đồng quốc tế có chấp nhận vô số hiệp ước nhắm tới việc chấm dứt tình trạng nô lệ dưới mọi hình thức, và phát động vô vàn chiến lược nhằm chống chọi với hiện tượng này chăng nữa, thì hàng triệu người ngày nay – trẻ em, phụ nữ và đàn ông với mọi lứa tuổi – đã bị tước đoạt tự do và buộc phải sống trong những điều kiện gần như nô lệ…Giống như trước kia, tình trạng nô lệ ngày nay bắt nguồn từ quan niệm của những người cho phép kẻ khác đối xử với bản thân mình như một món đồ…Cho dẫu bị cưỡng bách hoặc bị lừa dối, bị câu thúc về thể lý hay tâm lý đi nữa, thì con người vốn đã được dựng nên theo hình ảnh giống Thiên Chúa, nay bị cướp mất tự do, bị bán buôn và bị giảm thiểu hoá thành vật sở hữu của người khác. Họ bị đối xử như chỉ là phương tiện cho một mục đích…[các mạng lưới tội phạm] lợi dụng kỹ năng dùng hết mọi phương tiện truyền thông hiện đại để chiêu dụ đàn ông cũng như phụ nữ trên toàn thế giới” [21]. Một sự xuyên tạc vượt quá giới hạn khi nó bắt phụ nữ làm nô dịch, rồi ép buộc họ phá thai. Điều càng kinh tởm hơn là nạn bắt cóc con người nhằm buôn bán các bộ phận cơ thể họ. Mua bán con người và mọi hình thức nô lệ đương thời khác trở nên vấn đề toàn cầu, cần được hết thảy nhân loại nói chung nghiêm túc xem xét: “kể từ khi các tổ chức tội phạm sử dụng mạng lưới toàn cầu để đạt được những mục tiêu của chúng, thì mọi cố gắng xoá bỏ hiện tượng này cũng thật sự đòi hỏi một nỗ lực chung mang tính toàn cầu từ tất cả các bộ phận xã hội khác nhau” [22].

Mâu thuẫn và sợ hãi

 

  1. Các cuộc chiến tranh, khủng bố, bách hại chủng tộc hoặc tôn giáo, và nhiều kiểu lăng mạ nhân phẩm tuy bị lên án bằng mọi cách khác nhau, nhưng còn phải lệ thuộc vào một điều chủ yếu là chúng thực sự thuận lợi cho nền kinh tế và lợi tức ra sao. Mọi thứ sẽ đúng đắn, miễn là nó tiện lợi cho ai đó nắm quyền, nhưng sẽ bị chấm dứt một khi không còn thuận lợi nữa. Cụ thể, những tình trạng bạo lực này “trở nên quá bình thường như thể tạo ra một ‘cuộc chiến tranh thế giới thứ ba’, mà trong đó đang phải vật lộn cho từng miếng ăn” [23].
  1. Điều này không quá đỗi ngạc nhiên, nếu chúng ta nhận ra rằng mình đã không chung tầm nhìn mà thống nhất ta nữa; quả vậy, nạn nhân đầu tiên của mọi cuộc chiến chính là “ơn gọi bẩm sinh cho tình mến huynh đệ của gia đình nhân loại”. Vì thế, “mọi tình cảnh đe hoạ sẽ sinh ra lòng bất tín và khiến con người chui rút về nơi an toàn của họ” [24]. Thế giới chúng ta bị mắc kẹt trong một mâu thuẫn lạ thường: chúng ta tin rằng mình có thể “đảm bảo tính an định và hoà bình bằng cảm thức sai lầm về sự an toàn mà được duy trì bởi một thứ não trạng sợ hãi và bất tín” [25].
  1. Nghịch lý thay, chúng ta đầy nỗi lo sợ di căn rằng sự phát triển công nghệ sẽ bị lụi tàn, không được nối vị; nhưng thật ra, những nỗi hãi hùng ấy đã và đang được che giấu cũng như được khuếch trương dưới dạng công nghệ tiên tiến. Tương tự, ngày nay, bên ngoài tường thành thị trấn cổ xưa thì đầy dẫy vực thẳm, địa hạt vô danh, và hoang mạc. Bất kể thứ gì đến từ đó đều chẳng thể tin được, bởi lẽ nó khuyết danh, xa lạ, không thuộc về bản sắc làng quê. Nó là địa hạt của “những kẻ man rợ”, mà chúng ta phải tự vệ chống lại chúng bằng mọi giá. Do đó, tường thành mới được dựng lên để tự bảo tồn, nhưng thế giới bên ngoài sẽ ngừng hiện hữu và chỉ còn lại thế giới “riêng tôi” đến độ người khác không còn được xem là con người vốn sở hữu một phẩm giá bất khả chuyển nhượng, giờ đây trở thành “bọn chúng/bọn họ”. Một lần nữa, chúng ta bắt gặp “cám dỗ xúi giục xây thành đắp luỹ văn hoá, dựng lên đồn lớn, thành cao trong tâm hồn, tường luỹ trên mặt đất, nhằm ngăn chặn giao lưu với các văn hoá khác, và gặp gỡ tha nhân. Cũng nên biết rằng những kẻ xây thành đắp luỹ sẽ kết thúc như những nô lệ trong chính bốn bức tường mà họ dựng lên. Họ chỉ còn lại một mình trong nỗi vô vọng bất định, bởi lẽ họ thiếu tương tác với người khác” [26].
  1. Những ai cảm thấy bị bỏ rơi vì hệ thống xã hội tạo ra đất đai mầu mỡ cho các nhóm “băng đảng mafia” khác nhau, thì lại trải nghiệm nỗi cô đơn, sợ hãi và bất an ray rứt. Chúng sinh sôi nẩy nở vì tự cho rằng họ sẽ bảo vệ những ai bị quên lãng, và giúp đỡ họ bằng mọi hình thức hỗ trợ khác nhau, nhưng thật chất họ chỉ đeo đuổi những lợi tức tội phạm thôi. Trong thực tế cũng đang tồn tại một khoa đào luyện được mệnh danh là thành viên băng đảng “mafia” điển hình, bằng cách kêu gọi tham gia vào một nền huyền bí cộng đồng giả tạo, tạo ra những ràng buộc lệ thuộc và dạ trung thành rất khó mà thoát ra được.

TOÀN CẦU HOÁ VÀ TIẾN BỘ MÀ THIẾU BẢN ĐỒ DẪN LỐI CHUNG

  1. Cùng với vị Imam Đáng kính Ahmad Al-Tayyeb, chúng tôi không thể phớt lờ những tiến bộ tích cực trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, y tế, công nghiệp và phúc lợi, mọi sự tại những quốc gia phát triển. Nhưng “chúng tôi ước muốn nhấn mạnh rằng với tiến bộ lịch sử, vĩ đại và giá trị như chúng vốn có này, thì cũng tồn tại một sự sa đoạ luân lý mà nó chi phối đến hành động mang tính quốc tế, và làm suy yếu các giá trị tâm linh cũng như tinh thần trách nhiệm. Điều này thêm vào cảm giác thất vọng, cô lập và tuyệt vọng”. Chúng tôi chứng kiến “căng thẳng nổ ra và chạy đua vũ trang đạn dược trong một bối cảnh toàn cầu hoàn toàn bị chiếm lĩnh bởi sự phù vân, ảo tưởng tan vỡ, nỗi lo sợ tương lai, và bị những lợi ích kinh tế hạn hẹp kiểm soát”. Chúng tôi cũng chỉ ra rằng “nhiều cuộc khủng hoảng chính trị lớn, tình trạng bất công và thiếu sự phân bổ đồng đều về tài nguyên thiên nhiên…Khi đối mặt với những cuộc khủng hoảng như thế kéo theo hệ luỵ hàng triệu trẻ em thiệt mạng – gầy hao vì nghèo khổ và đói ăn – một sự câm lặng không thể chấp nhận được ở cấp độ quốc tế” [27]. Với tất cả những tiến bộ không thể phủ nhận trên, thì bối cảnh toàn cục này dường như không thể nào hướng tới một tương lai đầy nhân ái hơn được.
  1. Trong thế giới hôm nay, cảm thức thuộc về một gia đình nhân loại đơn nhất đang phai nhạt mờ dần, và giấc mơ chung tay hành động vì công lý và hoà bình dường như chỉ còn là một hệ thức cổ xưa không tưởng. Thay vào đó, những gì đang chiếm lĩnh, chính là sự thờ ơ nguội lạnh, tiện nghi mang tính toàn cầu, được ra đời từ ảo tưởng tan vỡ sâu sắc mà bị che dấu dưới ảo giác dối trá: nghĩ tưởng rằng chúng ta toàn năng, trong khi chẳng thể nào nhận ra mình cũng đang chơi vơi trên cùng một chiếc thuyền đời. Ảo tưởng này không màng đến các giá trị huynh đệ lớn lao, dẫn đến “một thứ triết thuyết yếm thế. Vì chúng ta phải đối mặt với cơn cám dỗ ấy, nên chúng ta rơi vào con đường của sự giải mê và nỗi thất vọng…Cô lập và thu mình vào tư lợi sẽ chẳng bao giờ là cách thức để khôi phục lại niềm hy vọng, cũng như dẫn đưa tới sự canh tân đâu. Đúng hơn, đó là sự gần gũi; văn hoá của gặp gỡ. Hãy nói ‘không’ với thái độ cô lập, thưa ‘vâng’ với sự gần gũi. Nói ‘không’ với xung đột văn hoá; nhưng thưa ‘vâng’ với văn hoá gặp gỡ” [28].
  1. Trong thế giới này, các cuộc chạy đua phía trước, song thiếu bản đồ dẫn lối chung, khiến chúng ta ngày càng cảm thấy “khoảng cách giữa sự quan tâm đến thiện ích cá nhân với sự phồn vinh của cả gia đình nhân loại rộng lớn hơn dường như đang giãn xa đến nỗi tình trạng chia rẽ hoàn toàn giữa những cá thể và cộng đồng nhân loại…Một mặt, cảm nhận bị thôi thúc phải sống chung với nhau, nhưng có gì đó khác hẳn trong cách đánh giá sự đa dạng và vẻ đẹp của những hạt giống nơi cuộc sống chung, mà nó cần phải được tìm thấy và được vun trồng” [29]. Kỹ thuật không ngừng tiến bộ, nhưng “sẽ tuyệt vời biết bao, nếu sự tăng trưởng của sáng kiến khoa học kỹ thuật đồng hành với sự bình đẳng và tính liên hệ xã hội bao hàm. Tuyệt vời biết bao, ngay cả khi chúng ta khám phá các hành tinh xa xôi kia thì cũng tái khám phá nhu cầu của anh chị em, mà họ đang trong quỹ đạo quanh chúng ta” [30].

NHỮNG TRẬN ĐẠI DỊCH VÀ TAI ƯƠNG KHÁC TRONG LỊCH SỬ

  1. Quả thật, bi kịch toàn cầu như trận đại dịch cô-vi-19 này tức khắc thay đổi cảm thức rằng chúng ta là một cộng đồng thế giới, tất cả đang trên một chiếc thuyền đời, nơi mà mọi vấn đề của một người cũng là của chung. Lần nữa, chúng ta nhận ra rằng không ai được cứu rỗi một mình cả; chúng ta chỉ có thể được cứu độ cùng nhau. Như tôi đã từng nói trong thời gian đó, “bão tố sẽ giật tung, phơi bày các thương tổn của chúng ta, và mở toang vô số những tất định sai lầm thừa thải ấy, mà xoay quanh nó, chúng ta đưa ra chương trình hằng ngày, đề án, thói quen và những điều ưu tiên…Giữa trận bão cuồng phong này, vẻ bề ngoài rập khuôn mẫu mà chúng ta dùng để nguỵ trang cái tôi bản thân, và nỗi bận tâm lo lắng về diện mạo ấy sẽ vỡ tan tành, lộ ra lần nữa nhận thức diễm phúc, song chẳng thể nào lãng tránh được một sự thật rằng chúng ta là bộ phận của nhau, và chúng ta là anh chị em với nhau” [31].
  1. Thế giới không hề nao núng thẳng tiến tới một nền kinh tế, mà nhờ kỹ thuật phát triển, nó tìm cách giảm thiểu “giá trị nhân bản”; chắc hẳn, có nhiều kẻ muốn chúng ta tin rằng tự do thương mại đủ để giữ mọi thứ an toàn. Thế nhưng cú đấm tàn ác mà chẳng thể tiên liệu của trận đại dịch ngoài tầm kiểm soát này đã buộc chúng ta phải khôi phục lại mối quan tâm đến con người, cho mọi người, hơn là lợi ích riêng của một vài thiểu số. Ngày nay, có lẽ chúng ta nhận ra rằng “mình nuôi dưỡng ước mơ rực rỡ và huy hoàng, nhưng lại kết thúc lãng phí trong sự rối bời, cô độc và đơn côi. Chúng ta ngấu nghiến nhồi nhét trên mạng xã hội, nhưng lại đánh mất mùi vị của tình mến huynh đệ. Chúng ta đi tìm kết quả nhanh chóng và an toàn chỉ để nhận ra mình bị choáng ngợp do tính nóng vội và khắc khoải âu lo. Là những tù nhân của thực tế ảo, chúng ta đánh mất khẩu vị và hương vị của thực tại đích thật” [32]. Nỗi đau, vô thường và sợ hãi, cũng như việc nhận ra những giới hạn bản thân, nhờ cơn đại dịch này mà khiến chúng ta phải quyết định cấp bách hơn là ngẫm nghĩ lại cung cách sống, các mối tương quan, tổ chức xã hội, và trên hết ý nghĩa của sự hiện hữu bản thân.
  1. Giả như mọi sự được kết nối, thì khó lòng hình dung ra một cơn đại hoạ toàn cầu mà chẳng liên can đến cách chúng ta tiếp cận thực tế, cũng như tự cho rằng chúng ta là những chủ nhân tuyệt đối của đời mình và tất cả mọi thứ tồn tại. Tôi không muốn nói tới sự trừng phạt thánh thiêng, cũng không thể nói rằng nguy hại mà chúng ta gây ra cho thiên nhiên tự nó đã là án phạt cho sự xúc phạm của chúng ta rồi. Chính thế giới đang phải rên siết trong cảnh nỗi loạn cáu xé. Chúng ta được nhắc nhớ một câu thơ nổi tiếng của thi sĩ Virgil đã gợi lên “những giọt lệ tạo vật”, sự rủi ro của cuộc đời và lịch sử [33].
  1. Tuy nhiên, tất cả chúng ta đều quá vội vã, quên mất những bài học lịch sử, mà là “bậc thầy của cuộc đời” [34]. Một khi cuộc khủng hoảng sức khoẻ này qua đi, thì chắc hẳn phản ứng tệ hại hơn của chúng ta ngày càng lún sâu vào chủ nghĩa thực dụng tựa như cơn sốt, và những loại hình mới mẻ của chủ trương ôm ấp cái tôi. Sau tất cả, nếu Chúa muốn, chúng ta sẽ không còn nghĩ về “chúng” hay “của chúng” nữa, mà chỉ là “chúng ta”. Điều này có thể minh chứng chỉ khi không còn một thảm kịch lịch sử nào khác, mà từ đó chúng ta vốn chẳng rút ra được bài học nào. Chỉ khi chúng ta nhớ tới những cụ già đã thiệt mạng vì thiếu máy trợ thở, một phần cũng do triệt phá các hệ thống y tế từ năm này sang năm khác. Chỉ khi nỗi đau hằn sâu này không trở thành vô ích, nhưng giúp chúng ta tiến về phía trước, bước tới một lối sống tươi mới hơn. Chỉ khi chúng ta tái khám phá một lần nữa cho tất cả nhũng gì chúng ta cần cho nhau, và như vậy, gia đình nhân loại mới có thể cảm nghiệm được sự tái sinh trên mọi khuôn mặt, đôi tay và trong mọi giọng nói, vượt mọi tường luỹ mà chúng ta đã dựng lên.
  1. Trừ phi chúng ta khôi phục lại lòng hăng say chung tay kiến tạo một cộng đồng gắn bó và đoàn kết xứng đáng với thời đại, với nguồn năng lượng, tài nguyên của mình, thì ảo tượng toàn cầu sai lầm sẽ vẫn đạp đổ và bỏ lại người người bơ vơ trong cảnh tượng khốn cùng và trống rỗng. Chúng ta đừng quá ngây ngô phớt lờ đi, mà không chịu nhận ra rằng “thói mê mụi với lối sống thực dụng, và trên hết, một ít người vẫn khư khư giữ nó, thì chỉ dẫn tới bạo lực và huỷ hoại nhau mà thôi” [35]. Khái niệm “mọi người vì mình” sẽ nhanh chóng suy thoái, rơi vào tình trạng miễn phí-cho-tất cả, mà nó cho thấy còn tệ hại hơn bất kỳ đại dịch nào.

NHÂN PHẨM VẮNG BÓNG GIỮA BIÊN GIỚI CÁC QUỐC GIA

  1. Các thể chế độc tài chính trị thường hô hào vì nhân dân, như những lối tiếp cận kinh tế cấp tiến, vẫn duy trì chính sách cấm làn sóng di dân nhập cảnh bằng mọi giá. Những luận cứ thường được đưa ra nhằm thực thi quy định phép tắc của việc hạn chế cứu trợ đối với các quốc gia nghèo, ngõ hầu họ có thể bới tận đất đá mà nhận ra mình cần phải áp dụng những khuôn khổ luật lệ hà khắc. Ai đó sẽ không nhận ra đằng sau lời tuyên bố ấy, chỉ toàn là trừu tượng và khó lòng hậu thuẫn, đã khiến vô số mạng sống rơi vào cảnh lâm nguy. Nhiều di dân chạy trốn khỏi chiến tranh, khỏi thiên tai và bách hại. Nhưng thực tế, hầu hết “đi tìm cơ hội cho bản thân và gia đình. Họ mơ ước một tương lai tốt đẹp hơn và họ muốn tạo ra điều kiện để đạt được nó” [36].
  1. Đáng buồn thay, một số người “bị văn hoá Tây phương lôi cuốn, đôi khi vì những kỳ vọng hão huyền khiến họ thất vọng ê chề. Bọn buôn người vô lương tâm thường cấu kết với kẻ buôn ma tuý hoặc vũ khí, uy hiếp di dân, là những người đã trải qua quá nhiều cảnh đời bao lực, nạn buôn người, lạm dụng tâm thể lý và mọi gian truân chẳng thể nào kể hết trên suốt chặng đường di tản” [37]. Những người nhập cư ấy “cảm nghiệm tình cảnh rời xa quê hương, cội nguồn, và thông thường cũng dễ mất gốc cả về mặt văn hoá lẫn tôn giáo. Các cộng đồng mà họ bỏ lại đằng sau cảm nhận được sự rạn nứt, mà nó đã lấy mất đi những nhân tố đầy khí chất, dám làm dám chịu của họ, và các gia đình cũng trải nghiệm tương tự, đặc biệt khi một hoặc cả hai bố mẹ đều di cư, bỏ lại con thơ tại quê nhà” [38]. Vì lí do này, “cần phải tái khẳng định quyền không được nhập cư, nghĩa là vẫn bám trụ ở quê cha đất tổ của mình” [39].
  1. Tiếp đến, tương tự “tại một số nước chủ nhà, nạn di trú gây ra nỗi hoảng sợ và dóng lên lời cảnh báo, nhưng thường bị xúi giục và lợi dụng vì mục đích chính trị. Điều này có thể dẫn đến não trạng bài ngoại, như thể mọi người khép kín, thu mình lại, và nó cần được nêu ra một cách dứt khoát” [40]. Người di dân không được xem như những công dân đáng có quyền tham gia vào đời sống xã hội, và quên rằng họ cũng sở hữu cùng một phẩm giá nội tại như bất cứ ai. Hơn nữa, họ cần phải là “tác nhân tự giải thoát bản thân” [41]. Chẳng ai công khai phủ nhận họ là con người, nhưng trên thực tế, vì những quyết định và cách đối xử của chúng ta đối với họ cho thấy họ bị coi là thua kém giá trị, kém quan trọng và kém nhân bản. Đối với Ki-tô hữu, đây là lối suy nghĩ và hành động không thể nào chấp nhận được, bởi lẽ nó ưu tiên đặt phương diện chính trị trên cả những niềm xác tín sâu xa của đức tin chúng ta: phẩm giá bất khả chuyển nhượng của mỗi con người, bất luận cội nguồn, sắc tộc hay tôn giáo, và là luật tối thượng của tình mến đệ huynh.
  1. “Hơn bao giờ hết, tình trạng di dân sẽ đóng vai trò then chốt trong tương lai của thế giới này” [42]. Tuy nhiên, hiện tại, nạn di dân bị tác động do “hành vi đánh mất cảm thức chịu trách nhiệm cho anh chị em, mà đây chính là nền tảng của mọi xã hội dân sự” [43]. Thí dụ, Châu Âu đã quá liều mạng bước theo lối mòn này. Nhưng “được thừa kế di sản văn hoá vĩ đại và tôn giáo trợ giúp, mà nó sở hữu các phương thế bảo vệ điều cốt lõi của con người, và tìm ra giải pháp cân bằng đúng đắn giữa trách nhiệm luân lý kép nhằm bảo vệ quyền lợi công dân, đồng thời bảo đảm việc trợ giúp và chấp nhận di dân” [44].
  1. Tôi nhận thấy rằng một số người rất do dự và e ngại khi nói đến vấn đề di dân. Tôi xem đây là một phần của bản năng tự vệ tự nhiên của họ. Tuy nhiên, cũng đúng khi một cá thể hoặc một dân tộc chỉ đạt kết quả và hiệu suất nếu họ có khả năng phát huy sự cởi mở với người khác một cách sáng tạo. Tôi thỉnh cầu mọi người vượt lên những phản ứng căn bản đó, bởi vì “vấn nạn sẽ tồn tại khi mọi nghi ngờ, sợ hãi ra điều kiện cho chúng ta phải suy nghĩ và hành động đến mức khiến bản thân mình trở nên cố chấp, khép kín, thậm chí có thể thành kẻ phân biệt chủng tộc nếu không nhận ra nó. Do đó, nỗi hoảng sợ cướp đi cơn khát vọng và khả năng kết nối gặp gỡ tha nhân của chúng ta” [45].

ẢO TƯỞNG TRUYỀN THÔNG

 

  1. Trong lúc thái độ khép kín và cố chấp đối với người khác gia tăng, thì ngược lại, khoảng cách đang thu hẹp dần hoặc biến mất tới mức quyền riêng tư tồn tại chẳng bao nhiêu. Mọi sự đã trở thành cảnh tượng ngoạn mục cần được giám định và xem xét, còn đời sống người dân hiện nay thì luôn bị thám thính. Truyền thông kỹ thuật số muốn đưa mọi sự ra thanh thiên bạch nhật; còn cuộc sống con người bị bắt bớ, bỏ bê, bàn tán nhưng thường là nặc danh. Lòng tôn trọng tha nhân bị nghiền nát, và thậm chí chúng ta còn gạt bỏ, phớt lờ hoặc giữ khoảng cách với người khác, chúng ta chẳng thấy nhục nhã chút nào khi soi mói từng chi tiết của cuộc đời họ.
  1. Về phần mình, những cuộc vận động trực tuyến đầy rẫy hận thù và huỷ diệt, không phải là hình thức hậu thuẫn tích cực – như một số người vẫn muốn chúng ta tin – nhưng chúng đơn giản chỉ là một liên hiệp các cá thể hợp nhất chống lại kẻ thù chung theo quan niệm riêng. “Truyền thông kỹ thuật số cũng có thể đẩy người dân vào nguy cơ nghiện ngập, cô lập và mất dần kết nối với thực tại cụ thể, ngăn trở sự thăng tiến của các mối tương quan chân chính giữa con người với nhau” [46]. Chúng thiếu cử chỉ thể lý, biểu cảm khuôn mặt, thời khắc thinh lặng, ngôn ngữ cơ thể và ngay cả chẳng có mùi vị gì, chỉ có đôi tay run run, vòm má ửng hồng hay những giọt mồ hôi mới trực tiếp nói chuyện với chúng ta, và đây là một phần của nền truyền thông nhân bản. Các mối liên hệ trong lĩnh vực kỹ thuật số không đòi hỏi vun xới tiệm tiến tình hữu nghị, cũng chẳng buộc phải tương tác bền lâu, hoặc tạo ra đồng tâm nhất trí chín chắn theo thời gian, hay mang diện mạo xã giao. Song, chúng không thật sự xây dựng cộng đồng; thay vào đó, chúng thường nguỵ tạo và khuếch trương chính chủ nghĩa duy cá nhân vốn được biểu hiện qua thái độ bài ngoại, cũng như xem thường những ai dễ bị tổn thương. Tính liên thông kỹ thuật số không đủ sức bắt cầu kết nối. Nó chẳng thể nào hợp nhất nhân loại được.

Công kích vô liêm sỉ

 

  1. Ngay cả những cá nhân duy trì sự cô lập tiện nghi của chủ nghĩa thực dụng, thì họ vẫn có thể chọn cách cấu kết cuồng nhiệt nhằm kích động lòng hận thù cực độ, hành vi lăng mạ, lạm dụng, phỉ báng và các kiểu bạo hành ngôn từ đến mức huỷ hoại thanh danh người khác do thiếu kiềm chế, trong một diễn biến không thể có trong tiếp xúc thể lý mà kết cuộc lại không xé nát chúng ta ra từng trăm mảnh. Tính công kích xã hội đã tìm được chỗ đứng vô song phát triển qua các phương tiện vi tính và thiết bị di động.
  1. Điều này hiện đang cho phép các ý thức hệ được hoàn toàn tự do hành động. Mọi thứ cách đây vài năm không ai có thể nói ra nếu không liều đánh mất lòng tự trọng phổ quát, thì giờ đây có thể nói mà chẳng sợ bị trừng phạt, thậm chí với những từ ngữ thô thiển nhất từ một số nhân vật chính trị. Chúng ta phải ghi nhớ rằng “nhiều lợi nhuận kinh tế khổng lồ đang vận hành trong thế giới kỹ thuật số, có khả năng kiểm soát một cách tinh vi ví như xâm chiếm, đồng thời tạo ra những cơ chế thao túng lương tâm và tiến trình dân chủ. Cách thức hoạt động của nhiều nguyên lý làm cơ sở cho các hệ điều hành này thường nhận kết cuộc bằng việc chiếu cố gặp gỡ những ai suy nghĩ giống nhau, và bảo bọc họ khỏi cuộc tranh biện. Chu trình khép kín này tạo điều kiện phát tán tin tức giả mạo và thông tin sai lạc, cũng như xúi giục thành kiến và hận thù” [47].
  1. Chúng ta phải nhìn nhận rằng các hình thức cuồng tín mang tính huỷ hoại đôi khi tìm thấy trong các tín nhân, kể cả Ki-tô hữu; có lẽ họ cũng “bị cuốn vào những mạng lưới bạo hành ngôn ngữ qua internet và các diễn đàn khác của truyền thông kỹ thuật số. Ngay cả trên kênh truyền thông Công giáo, họ cũng vượt rào giới hạn, hành vi phỉ báng và vu khống lại trở nên bình thường như chợ phiên; mặc khác, tất cả tiêu chuẩn đạo đức và tôn trọng thanh danh người khác cũng bị bỏ qua” [48]. Vậy, làm sao có thể góp phần vào việc xây dựng tình huynh đệ mà vị Cha chung đang yêu cầu nơi chúng ta được?

Thông tin thiếu khôn ngoan

  1. Sự khôn ngoan đích thật đòi hỏi một cuộc gặp gỡ với thực tại. Tuy nhiên, ngày nay, mọi thứ được tạo ra, trá hình và sửa đổi. Ngay cả gặp gỡ trực tiếp dù ở ven rìa của thực tại thôi vẫn bị coi là không thể dung thứ. Lúc ấy, một cơ chế lựa chọn bắt đầu vào cuộc, theo đó, tôi có thể lập tức tách biệt người thích khỏi người không ưa, thứ tôi cho là hấp dẫn khỏi thứ mình cho là ghê tởm. Tương tự, chúng ta có thể chọn những người mà mình muốn chia sẻ thế giới riêng của bản thân. Còn tình huống hay người nào mà chúng ta cảm thấy khó chịu hoặc bất đồng đơn giản bị bôi xoá trong các mạng lưới ảo ngày nay; rồi một thế giới ảo được tạo ra, cô lập chúng ta với thế giới thật vốn dĩ chúng ta đang sống trong đó.
  1. Khả năng ngồi xuống và lắng nghe người khác, điển hình của những cuộc gặp gỡ giữa người với người, là kiểu mẫu của thái độ chào đón, mà nó được thể hiện qua những ai vượt lên trên tính tự yêu thái quá và chấp nhận tha nhân, quan tâm đến họ, cũng như niềm nở đón chào họ vào cuộc đời mình. Tuy nhiên, “thế giới ngày nay nhìn chung là một thế giới điếc lác…Đôi lúc, bước tiến điên cuồng của thế giới hiện đại ngăn cản chúng ta chăm chú lắng nghe điều người khác đang nói. Giữa chừng, chúng ta đã ngắt lời và muốn nói ngược lại điều họ chưa trình bày xong. Chắc hẳn, chúng ta đánh mất khả năng lắng nghe rồi”. Thánh Phan-xi-cô “đã nghe tiếng Chúa, ngài nghe tiếng người nghèo, tiếng của những ai ốm đau và tiếng của thiên nhiên. Ngài đã đón nhận họ như một lối sống. Tôi mong muốn rằng hạt giống mà Thánh Phan-xi-cô đã gieo trồng sẽ trổ sinh nơi tâm hồn nhiều người” [49].
  1. Khi thinh lặng và thận trọng lắng nghe khuất dạng, thay thế bằng sự mê mẫn nhắn tin, thì cấu trúc căn bản này của truyền thông nhân bản khôn ngoan gặp rủi ro. Một lối sống mới nổi lên, trong đó chúng ta chỉ tạo ra những thứ mình muốn và loại tất cả những gì chúng ta chẳng thể nào kiểm soát hoặc biết được ngay tức khắc và hời hợt. Theo luận lý nội tại của nó, quá trình này ngăn chặn một kiểu suy tư thanh thản mà nó có thể đưa chúng ta đến sự khôn ngoan đã được sẻ chia.
  1. Cùng nhau, chúng ta có thể tìm kiếm sự thật qua đối thoại, trong cuộc trò chuyện thoải mái và tranh luận sôi nổi. Làm được vậy đòi hỏi tính kiên trì; nó bao hàm những khoảnh khắc im lặng và khổ đau, nhưng có thể nhẫn nại đón nhận cảm nghiệm rộng lớn hơn của từng cá thể và các dân tộc. Thực trạng thông tin tràn ngập trong tầm tay chúng ta chẳng làm nên sự khôn ngoan vĩ đại hơn. Khôn ngoan không phát sinh từ những tìm kiếm nhanh chóng trên mạng internet hay từ một khối dữ liệu chưa được kiểm chứng. Nó chưa đủ chin mùi để biến thành cuộc gặp gỡ với chân lý. Các cuộc trò chuyện chỉ xoay quanh dữ kiện mới nhất; thì chỉ có tính ngang tầm và chất chồng đơn thuần mà thôi. Chúng ta mất tập trung chú tâm, không đi sâu vào cốt lõi vấn đề, và chẳng nhận ra điều gì thiết yếu mang lại ý nghĩa cho cuộc đời chúng ta. Vì thế, tự do biến thành ảo tưởng mà người ta đang rao bán cho chúng ta, một thứ ảo tưởng dễ bị nhầm lẫn với khả năng lục lọi trên internet. Diễn trình xây dựng tình huynh đệ, dù ở địa phương hay phổ quát, cũng chỉ được bảo đảm nhờ tinh thần tự do và cởi mở với mọi cuộc gặp gỡ chân chính.

HÌNH THỨC LỆ THUỘC VÀ XEM THƯỜNG BẢN THÂN

 

  1. Những quốc gia có nền kinh tế thịnh vượng thường được đề cử làm mẫu hình văn hoá cho các nước kém phát triển; thay vào đấy, mỗi quốc gia đó cần được giúp đỡ để tiến triển theo cách riêng biệt, và phát triển năng lực đổi mới trong khi vẫn tôn trọng các giá trị của văn hoá riêng của họ. Ước muốn bắt chước người khác một cách nông cạn và thảm bại dẫn tới việc sao chép và tiêu thụ thay vì sáng tạo, và cổ vũ lòng tự tôn dân tộc thấp kém. Trong các thành phần dư giả tại nhiều nước nghèo, và đôi khi ở những nước vừa mới thoát nghèo, thì tồn tại một đề kháng đối ngược với lối suy nghĩ và hành động bản địa, đồng thời có xu hướng xem thường chính căn tính văn hoá của mình, như thể nó là nguyên nhân chủ yếu cho mọi bất trắc/xấu xa.
  1. Huỷ hoại lòng tự trọng là cách dễ dàng để thống trị người khác. Đằng sau những xu thế mang khuynh hướng sang bằng thế giới này, chúng ta thấy chất chứa quá nhiều tư lợi uy lực lợi dụng lòng tự trọng thấp hèn ấy, trong lúc tạo ra một loại văn hoá mới hầu phục vụ cho giới thượng lưu nhờ phương tiện truyền thông cũng như mạng xã hội. Điều này rập khuôn chủ nghĩa cơ hội của những kẻ đầu cơ tích trữ và cướp phá tài chính, còn người nghèo thì luôn nhận kết cục là kẻ thua cuộc. Cũng vậy, tình trạng phớt lờ văn hoá của dân tộc mình đã đẩy nhiều nhà lãnh đạo chính trị đến chỗ bất lực khi phải đưa ra một kế hoạch phát triển hữu hiệu có thể được tự do chấp nhận và duy trì theo thời gian.
  1. Chúng ta đã quên rằng “không hình thức tha hoá nào tồi tệ hơn là cảm thấy bản thân bị mất gốc, không thuộc về ai cả. Một lãnh thổ sẽ sinh sổi nảy nở, và dân tộc ấy đơm hoa kết trái, đem lại tương lai, chỉ trong chừng mực họ có thể phát huy cảm thức thuộc về nơi các thành viên của họ, tạo gắn kết hoà nhập giữa các thế hệ, cũng như những cộng đồng khác nhau, và tránh tất cả điều gì khiến chúng ta vô cảm đối với tha nhân, đồng thời dẫn tới việc tha hoá hơn nữa” [50].

NIỀM HY VỌNG

  1. Dù chẳng thể nào phớt lờ đi những đám mây tăm tối này, nhưng tôi mong muốn tiếp nhận và bàn luận nhiều nẻo đường mới của hy vọng qua những trang viết tiếp theo. Vì Thiên Chúa tiếp tục gieo vô vàn hạt giống thiện lành nơi gia đình nhân loại chúng ta. Trận đại dịch gần đây giúp chúng ta nhận ra và đánh giá cao một lần nữa tất cả những ai đang hiện hữu giữa chúng ta, tuy giữa cơn sợ hãi, vẫn đã đối ứng bằng cách đặt mạng sống của họ lên tuyến đầu. Chúng ta đã bắt đầu nhận biết đời sống của mình được đan xen và duy trì nhờ những con người bình thường, nhưng dám can đảm tạo ra các biến cố mang tính quyết định trong lịch sử chung của chúng ta: các bác sĩ, y tá, dược sĩ, thủ kho và nhân viên siêu thị, công nhân giặt ủi, điều dưỡng viên, công nhân vận chuyển, nam giới cũng như nữ giới lao động nhằm cung cấp các dịch vụ thiết yếu và an toàn công cộng, các tình nguyện viên, linh mục và tu sĩ…Họ hiểu rằng không ai được cứu vớt một mình cả [51].
  1. Tôi mời gọi mọi người bước vào niềm hy vọng đổi mới, vì hy vọng “truyền đạt cho chúng ta về điều được bén rễ sâu thẳm trong tâm hồn mỗi con người, không lệ thuộc vào các hoàn cảnh và điều kiện lịch sử của chúng ta. Hy vọng nói cho chúng ta về sự khát khao, nguyện vọng, mong mỏi một cuộc sống viên mãn, ước muốn đạt được những điều lớn lao, chất chứa nơi tâm hồn chúng ta, và chúng nâng cao tinh thần ta lên các thực tại cao cả như chân, thiện, mỹ, công bình và bác ái…Hy vọng rất táo bạo; có lẽ nó nhìn vượt xa tiện lợi cá nhân, tính an toàn và tưởng thưởng nhỏ mọn mà chúng hạn chế tầm hiểu biết của chúng ta, đồng thời nó có thể mở lòng chúng ta ra đón nhận các lý tưởng cao quý vốn làm cho cuộc sống trở nên tươi đẹp và đáng giá hơn” [52]. Vậy, chúng ta hãy tiếp tục cùng nhau tiến bước trên các nẻo đường hy vọng.

CHƯƠNG II

NGƯỜI XA LẠ DỌC ĐƯỜNG

  1. Chúng ta không nên đọc chương trước như các vấn đề ngày nay được mô tả theo kiểu lạnh lùng và vô tư, vì “vui mừng và hy vọng, sầu khổ và đớn đau của con người thời đại này, đặc biệt của những người nghèo hay ưu phiền, cũng là vui mừng và hy vọng, âu sầu và đau đớn của các môn đệ Đức Ki-tô. Hơn nữa, chẳng gì thật sự của con người mà lại không gieo âm hưởng nơi lòng họ” [53]. Trong nỗ lực tìm kiếm một tia sáng giữa những gì chúng ta đang trải qua, và trước khi đề xuất hướng hành động, ngay lúc này đây, tôi muốn dành một chương nói về dụ ngôn mà Đức Giê-su Ki-tô đã kể cách đây hai ngàn năm. Mặc dù Thông điệp này được gửi đến toàn thể những ai có thiện chí, bất luận niềm tin tôn giáo của họ, nhưng đây là một dụ ngôn mà bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể liên tưởng và nhận thấy đầy thách đố.

“Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: ‘Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?’ Người đáp: ‘Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?’ Ông ấy thưa: ‘Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình’. Đức Giê-su bảo ông ta: ‘Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống’. Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng: ‘Nhưng ai là người thân cận của tôi?’ Đức Giê-su đáp: ‘Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lêvi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Sa-ma-ri-a kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: ‘Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.’ Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?’ Người thông luật trả lời: ‘Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy’. Đức Giê-su bảo ông ta: ‘Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy’” (Lc 10, 25-37).

Bối cảnh

  1. Dụ ngôn này liên quan đến một vấn đề xa xưa. Ngay sau trình thuật sáng tạo muôn loài và con người, Kinh Thánh đề cập đến mối liên hệ giữa con người với nhau. Ca-in giết em mình A-bel, rồi nghe Thiên Chúa luận hỏi: “A-bel em ngươi đâu?” (St 4, 9). Lời đáp của Ca-in cũng là câu trả lời mà tất cả chúng ta thường đưa ra: “Con là người giữ em con hay sao?” (nt). Do chính nghi vấn Thiên Chúa đặt ra, nên Người không dành chỗ để nại tới thuyết tiền định hay thuyết định mệnh, hòng biện minh cho sự thờ ơ của chúng ta. Thay vào đó, Người khích lệ chúng ta kiến tạo một nền văn hóa khác, mà trong đó chúng ta giải quyết các xung đột của mình và quan tâm đến nhau.58. Sách Gióp xem nguồn gốc của chúng ta từ Đấng Tạo Hóa duy nhất là nền tảng của một số quyền lợi chung: “Đấng đã tạo ra tôi trong dạ mẹ không phải là Đấng tạo ra nó hay sao? Và chẳng phải cùng một Thiên Chúa đã tạo ra hết thảy chúng ta trong dạ mẹ đó sao?” (G31, 15). Nhiều thế kỷ sau, Thánh I-rê-nê đã dùng hình ảnh giai điệu du dương để diễn tả tương tự: “Người kiếm tìm chân lý không nên tập trung vào các dị biệt giữa nốt nhạc này và nốt nhạc kia, cứ ngẫm nghĩ như thể mỗi nốt nhạc được tạo riêng biệt và tách rời nhau; nhưng thay vào đó, nên nhận ra rằng cũng một người và cùng người đó đã sáng tác ra toàn bộ giai điệu” [54].59. Trong các truyền thống Do Thái trước đây, mệnh lệnh yêu thương và chăm sóc người khác dường như chỉ giới hạn vào những mối liên hệ giữa các thành viên của cùng một quốc gia. Giới răn cổ xưa dạy phải “yêu người lân cận như chính mình” (Lv 19, 18) thường được hiểu như nói đến đồng bào của họ; tuy nhiên, ranh giới dần dần được mở rộng, nhất là trong Do Thái giáo phát triển bên ngoài đất nước Is-ra-el. Chúng ta cũng bắt gặp mệnh lệnh đừng làm cho người khác điều bạn không muốn họ làm cho bạn (x. Tb4, 15). Vào thế kỷ thứ nhất trước công nguyên, Giáo sĩ Do Thái (Rabbi) Hil-lel đã từng tuyên bố: “Đây là toàn bộ Kinh Tô-rah, còn mọi điều khác đều là bình chú” [55]. Khao khát bắt chước cách hành động riêng của Thiên Chúa dần dần thay thế xu hướng chỉ biết nghĩ đến những ai thân cận chúng ta nhất: “Con người thương xót cận thân, còn Thiên Chúa xót thương mọi xác phàm” (Hc 18, 13).60. Trong Tân Ước, giới luật của Hil-lel đã được diễn tả với lối tích cực hơn: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7, 12). Mệnh lệnh này mang tính phổ quát về phạm vi, không loại một ai dựa trên cơ sở nhân loại chung quy của chúng ta, bởi lẽ Cha trên trời “làm cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt” (Mt 5, 45). Vậy, Người mời gọi chúng ta “hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6, 36).

    61. Qua các bản văn Kinh Thánh lâu đời nhất, chúng ta tìm thấy lý do tại sao nên mở rộng tâm hồn đón nhận người ngoại kiều. Vì nó bắt nguồn từ ký ức lâu dài của người Do Thái cho rằng chính họ đã từng sống như những người ngoại kiều tại Ai Cập:

    “Người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập” (Xh 22, 21).

    “Người ngoại kiều, các ngươi không được áp bức; chính các ngươi đã biết thân phận của người ngoại kiều, vì các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập” (Xh 23, 9).

    “Khi có ngoại kiều cư ngụ với (các) ngươi trong xứ các ngươi, các ngươi đừng bức hiếp nó. (Các) ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi như với một người bản xứ, một người trong các ngươi; (các) ngươi phải yêu nó như chính mình, vì các ngươi đã từng là ngoại kiều tại đất Ai-cập. Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi” (Lv 19, 33-34).

    “Khi hái nho, thì anh (em) không được mót lại; những trái còn sót dành cho ngoại kiều và cô nhi quả phụ. Anh em hãy nhớ mình đã làm nô lệ bên đất Ai-cập” (Đnl 24, 21-22).

    Còn lời kêu mời bước vào tình mến huynh đệ vang vọng suốt bộ Tân Ước:

    “Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình ngươi” (Gl 5, 14).

    “Ai yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng, và nơi người ấy không có gì nên cớ vấp phạm. Nhưng ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối và đi trong bóng tối mà chẳng biết mình đi đâu, vì bóng tối đã làm cho mắt người ấy ra mù quáng” (1Ga 2, 10-11).

    “Chúng ta biết rằng: chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết” (1Ga 3, 14).

    “Ai không yêu anh hay chị em mà mình nhìn thấy, thì không thể yêu Thiên Chúa mà mình chưa thấy” (1Ga 4, 20).

    62. Tuy nhiên, lời gọi mời yêu thương này có thể bị hiểu nhầm. Thánh Phao-lô nhận thấy các cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi bị cám dỗ thành lập những nhóm khép kín và cô lập, đã thúc giục môn đệ ngài sống trổi vượt hơn trong tình mến “với nhau và với mọi người” (1Tx 3, 12). Trong cộng đoàn theo Thánh Gio-an, các Ki-tô hữu đồng đạo phải được chào đón, “dù họ là những người xa lạ đối với anh (chị) em” (3Ga 5). Ở bối cảnh này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn ý nghĩa của dụ ngôn người Sa-ma-ri-a Nhân hậu: lòng yêu thương không quan tâm đến nơi xuất phát, nhưng ân cần chăm sóc anh chị em, nếu họ đang gặp khó khăn. Bởi lẽ “tình yêu phá tan xiềng xích mà nó vốn kiềm hãm chúng ta trong cô lập và cách biệt; ở nơi ấy, nó xây chiếc cầu kết nối. Lòng bác ái giúp chúng ta kiến tạo một gia đình vĩ đại, mà trong đó, tất cả chúng ta cảm thấy thoải mái như ở nhà…Bác ái tuôn trào niềm xót thương và phẩm giá” [56].

    Bị bỏ rơi bên vệ đường

  2. Đức Giê-su kể chuyện về một người đàn ông bị tên trộm hành hung và đầy thương tích nằm bên vệ đường. Một số người đi qua thấy, nhưng chẳng buồn dừng lại. Họ là những bậc nắm giữ các vị trí quan trọng trong xã hội, nhưng thiếu quan tâm thực sự đến thiện ích chung. Chắc họ chẳng lãng phí một vài phút nào để chăm sóc người đàn ông bị thương, hoặc thậm chí kêu gọi giúp đỡ đâu. Duy chỉ một người dừng lại, tiến gần đến và đích thân chăm sóc ông ấy, ngay cả chi tiền riêng để cung cấp những gì cần kíp. Người này cũng cho ông ấy một thứ mà chúng ta thường khư khư giữ lấy trong thế giới điên đảo của mình, đó là: thời gian ông dành cho người mắc nạn. Chắc chắn, ông đã có lịch trình cho ngày hôm ấy, cũng như nhu cầu, hẹn ước và mong muốn riêng. Song, ông đã đặt tất cả những điều đó sang một bên khi đối diện với người đang cần đến mình. Dù chẳng hề biết đến người bị thương, nhưng ông vẫn thấy người ấy xứng đáng với thời giờ và sự quan tâm của mình.64. Trong số những người này, anh chị em nhận ra mình giống ai? Câu hỏi này trông có vẻ hết sức thẳng thừng, nhưng đầy tính trực diện và sắc bén. Anh chị em giống ai trong các nhân vật này? Chúng ta cần thừa nhận rằng mình thường xuyên bị cám dỗ phớt lờ người khác, nhất là những ai yếu thế. Chúng ta cùng thú nhận rằng, dù cho mọi tiến bộ đã đạt được đi chăng nữa, chúng ta vẫn còn “mù chữ” khi bước tới đồng hành, chăm sóc và hỗ trợ các thành viên yếu đuối và dễ bị tổn thương nhất trong xã hội phát triển thời nay. Chúng ta quá quen với việc nhìn hướng đi khác, làm ngơ, phớt lờ những tình cảnh thế này, cho đến khi nó trực tiếp ảnh hưởng tới mình.65. Ai đó bị tấn công trên lộ trình chúng ta, nhưng nhiều người lại vội vàng bước qua như không hề thấy. Người ta tông xe vào ai khác, rồi bỏ chạy khỏi hiện trường. Mong muốn duy nhất của họ là tránh lôi thôi; nhưng đó không quan trọng vì người khác có thể mất mạng do lỗi họ. Mọi việc này đều là dấu hiệu của một lối tiếp cận cuộc sống đang lan tràn trong nhiều cách thức tinh vi khác nhau. Hơn thế nữa, do phải bắt kịp với các nhu cầu của chính mình, nên chúng ta cảm thấy phiền phức trước cảnh tượng một người đang đau khổ. Nó khiến chúng ta bực bội, vì lẽ chúng ta không có thời giờ để lãng phí cho các vấn đề của tha nhân. Đây là những triệu chứng của một xã hội bệnh hoạn/ốm đau, một xã hội tìm kiếm sự thịnh vượng nhưng lại quay lưng với khổ đau.66. Chớ gì chúng ta đừng đắm chìm vào những vực sâu ấy, mà hãy noi gương người Sa-ma-ri-a Nhân hậu! Dụ ngôn của Đức Giê-su kêu mời chúng ta tái khám phá ơn gọi bản thân như những công dân của các quốc gia tương ứng và của toàn thế giới, cũng như những người dựng xây tình liên đới xã hội mới. Lời gọi mời này luôn mới mẻ, nhưng nó dựa trên một quy luật căn bản nơi hữu thể con người: chúng ta được kêu mời điều hướng xã hội theo đuổi công ích và ghi nhớ mục đích này mà kiên trì củng cố trật tự chính trị-xã hội, kết cấu liên hệ cũng như các mục tiêu nhân bản của nó. Người Sa-ma-ri-a Nhân hậu đã chứng tỏ qua các hành động của mình rằng “Hiện hữu của mỗi cá nhân và mọi cá thể đều gắn kết sâu đậm với hiện hữu của tha nhân: cuộc sống không đơn giản chỉ là thời gian trôi qua; mà cuộc sống chính là thời gian dành cho những tương tác” [57].

    67. Dụ ngôn trình bày một cách hùng hồn quyết định căn bản mà chúng ta cần thực hiện để xây dựng lại thế giới đang thương tổn của mình. Đối diện với quá nhiều đau đớn và khổ sầu, nên noi gương người Sa-ma-ri-a Nhân hậu là con đường duy nhất của chúng ta. Bất cứ quyết định nào khác đều khiến chúng ta trở thành một kẻ trong bọn trộm cướp hoặc một trong những người băng qua mà không chút thương cảm trước đau khổ của người bị nạn bên vệ đường. Dụ ngôn cho chúng ta thấy một cộng đồng có thể được tái thiết ra sao nhờ mọi người, đàn ông hay phụ nữ, biết hoà mình vào niềm đau, dễ bị tổn thương của tha nhân, biết gạt bỏ sự việc tạo ra một xã hội loại trừ, nhưng thay vào đó, hành động như người lân cận, nâng đỡ và trợ giúp những ai sa ngã hồi phục vì công ích. Đồng thời, chúng ta được cảnh báo về thái độ của người chỉ biết nghĩ đến bản thân và không chung vai gánh vác những trách nhiệm quen thuộc trong cuộc sống đang diễn ra.

    68. Câu chuyện dụ ngôn rõ ràng không nghiêng theo giáo thuyết luân lý trừu tượng, và thông điệp của nó cũng không chỉ mang tính xã hội-đạo đức. Nó nói với chúng ta về một khía cạnh thiết yếu, nhưng thường bị lãng quên của tính nhân loại chung: chúng ta được tạo dựng cho sự viên mãn, mà điều này chỉ có thể tìm thấy nơi tình yêu. Chúng ta chẳng thể nào dửng dưng với khổ đau; cũng không thể để bất cứ ai đi ngang qua cuộc đời mình như một kẻ bị ruồng bỏ. Thay vào đó, chúng ta nên cảm thấy phẫn nộ, tự thách thức bản thân ngõ hầu thoát khỏi tình trạng cô lập tiện nghi và biến đổi mình nhờ liên đới với những đau khổ con người. Đây chính là ý nghĩa của phẩm giá.

    Một câu chuyện được kể lại không ngừng

  3. Dụ ngôn trên rõ ràng và trực diện, nhưng nó cũng gợi lên cuộc tranh đấu nội tâm mà mỗi người đều cảm nghiệm được, khi chúng ta dần dần hiểu chính bản thân qua các mối tương quan với anh chị em mình. Không sớm thì muộn, hết thảy chúng ta đều sẽ gặp một người khổ đau, mà ngày nay, càng ngày họ càng nhiều thêm. Quyết định đón nhận hoặc loại trừ ai bị thương nằm bên vệ đường có thể dùng làm tiêu chuẩn để đánh giá mọi đề án kinh tế, chính trị, xã hội và tôn giáo. Mỗi ngày, chúng ta phải quyết định trở thành người Sa-ma-ri-a Nhân hậu hay kẻ bàng quan hửng hờ. Và nếu chúng ta mở rộng tầm nhìn vào lịch sử của đời mình và của cả thế giới, thì tất cả chúng ta đều đồng dạng, hoặc từng tương đồng, hay giống các nhân vật trong dụ ngôn này. Hết thảy chúng ta đều mang dáng dấp trong mình một điều gì đó của người bị thương, một điều gì đó của kẻ cướp, một điều gì đó của những ai qua đường, và một điều gì đó của người Sa-ma-ri-a Nhân hậu.70. Đáng chú ý là các nhân vật khác nhau trong câu chuyện thay đổi rao sao, khi đã từng đối diện với cảnh tượng đau đớn của người đàn ông khốn khổ bên vệ đường. Những phân biệt giữa người Giu-đê-a và người Sa-ma-ri-a, giữa thầy tư tế và nhà lái buôn, mờ nhạt dần về mặt ý nghĩa. Hiện giờ chỉ còn hai loại người: người chăm sóc một ai đó đang bị thương tích và những người đi ngang qua; những người cúi xuống giúp đỡ và những người nhìn hướng khác mà vội vàng bỏ đi. Lúc này, mọi phân biệt, mọi nhãn mác và mặt nạ của chúng ta đều biến mất: khoảnh khắc sự thật là đây. Liệu chúng ta có cúi xuống để chạm vào và chữa lành vết thương của người khác không? Liệu chúng ta có cúi xuống và giúp người khác trỗi dậy chăng? Đây là thách đố hôm nay, nhưng chúng ta đừng nên lo sợ khi đối diện với nó. Trong những thời điểm khủng hoảng, các quyết định trở nên cấp thiết. Có thể nói ở đây và ngay lúc này rằng bất cứ ai chẳng phải kẻ cướp hay khách bộ hành, đều là người bị thương hoặc đang mang người bị thương trên vai.71. Câu chuyện về người Sa-ma-ri-a Nhân hậu được nhắc đi nhắc lại không ngừng. Chúng ta có thể thấy điều này rõ rệt khi tính trì trệ chính trị và xã hội đang biến nhiều nơi trên thế giới thành một đường phụ hoang vắng, ngay cả những lúc tranh chấp quốc gia và quốc tế, cũng như việc cướp mất cơ hội đang khiến quá nhiều người bị bỏ rơi vất vưởng bên lề đường. Trong dụ ngôn, Đức Giê-su không đưa ra những lựa chọn thay thế; Người không hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu người đàn ông bị thương hoặc người đã giúp ông ta quay sang tức giận hoặc mong muốn trả thù. Đức Giê-su tin tưởng vào sự thiện hảo cao quý nơi tinh thần của con người; qua dụ ngôn này, Người khích lệ chúng ta nhẫn nại trong yêu thương, khôi phục phẩm giá cho những ai đau khổ và dựng xây một xã hội xứng danh hơn.

Các nhân vật trong câu chuyện

  1. Dụ ngôn khởi đầu với bọn trộm cướp. Đức Giê-su chọn cách bắt đầu câu chuyện khi vụ cướp đã xảy ra, kẻo chúng ta cứ chăm chăm vào chính tội ác hoặc những trên trộm phạm tội. Tuy nhiên, chúng ta biết rõ các tình tiết này. Khi bước vào thế giới của mình, chúng ta nhìn thấy những bóng đen của sự bỏ rơi và bạo lực nhằm phục vụ cho các quyền lợi nhỏ mọn của thế lực, lợi lộc và chia rẽ. Câu hỏi thực sự là: liệu chúng ta sẽ bỏ rơi người bị thương để chạy tìm nơi trú thân thoát khỏi bạo lực, hay sẽ truy đuổi bọn trộm cướp? Liệu kết cuộc người đàn ông bị thương trở thành luận chứng biện minh cho các chia rẽ chẳng thể nào hàn gắn, sự thờ ơ tàn nhẫn và xung đột nội bộ của chúng ta chăng?73. Kế đến, dụ ngôn yêu cầu chúng ta xem xét kỹ hơn những người qua đường. Sự bồn chồn dửng dưng khiến họ băng qua bên kia đường – dù vô tội hay không, do khinh bỉ hay chỉ vì lơ đễnh – đều biến vị tư tế và thầy Lê-vi thành một hình tượng phản ảnh đáng buồn của hố sâu ngăn cách ngày càng lớn giữa chúng ta với thế giới xung quanh. Vô số cách thức bước qua vẫn giữ khoảng cách an toàn: chúng ta có thể thu mình lại, phớt lờ tha nhân, hoặc dửng dưng trước cảnh ngộ của họ. Hoặc chỉ đơn giản ngó lơ, như tại một số quốc gia hay bộ phận nào đó lộ rõ sự khinh miệt đối với người nghèo và văn hóa họ, hơn nữa, người ta nhìn đi chỗ khác như thể một kế hoạch phát triển được du nhập từ bên ngoài sẽ đẩy họ ra. Đây là lối biện minh của một số người về sự thờ ơ bản thân: dù những lời nài xin giúp đỡ của người nghèo có chạm đến trái tim họ chăng nữa, đơn giản, người nghèo không hề tồn tại. Người nghèo nằm ngoài phạm vi lợi ích của họ.
  1. Về những người qua đường, ta thấy một chi tiết nổi bật và không nên bỏ qua: họ đạo đức, tận tâm thờ phượng Chúa như vị tư tế và thầy Lê-vi. Điều này cho thấy niềm tin vào Thiên Chúa và việc thờ phượng Người không đủ để bảo đảm rằng chúng ta đang thực sự sống đẹp lòng Chúa. Một tín hữu có thể không chân thật với mọi điều mà đức tin đòi hỏi nơi mình, nhưng vẫn nghĩ tưởng rằng họ đang gần gũi với Thiên Chúa và tốt lành hơn tha nhân. Mặt khác, thật sự mở rộng tâm hồn với Chúa đảm bảo cho đời sống đức tin, mà nó còn giúp chúng ta cởi mở với anh chị em nữa. Về điều này, Thánh Gio-an Kim Khẩu diễn tả một cách sắc bén, khi thách thức các Kitô hữu lắng nghe ngài dạy: “anh chị em muốn tôn vinh thân thể của Đấng Cứu Độ không? Nếu vậy, đừng khinh chê khi nó trần truồng. Đừng tôn vinh nó trong nhà thờ với lễ phục tơ lụa, trong khi bên ngoài, nó trần truồng và tê cóng vì lạnh” [58]. Nghịch lý thay, ai tự cho mình là người không tin, thì đôi khi thực hành ý Chúa tốt hơn các tín hữu.
  1. “Bọn trộm cướp” thường tìm đồng minh bí mật trong số người “qua đường và nhìn hướng đi khác”. Có tương tác nào đó tồn tại giữa những kẻ thao túng và lừa đảo xã hội, cũng như ai tự cho mình là người chỉ trích khách quan, vô tư, nhưng thực chất đang sống nhờ dựa vào hệ thống đó và các lợi ích của nó. Một đạo đức giả đáng buồn khi quyền đặc miễn tội phạm, lợi dụng các định chế cho lợi lộc cá nhân hoặc tập đoàn, và những tệ nạn khác dường như không thể diệt trừ được, thường lại đi kèm với việc chỉ trích mọi chuyện tàn nhẫn, không ngừng gieo rắc nghi ngờ dẫn đến sự bất tín và rối ren. Khiếu nại cho rằng “mọi thứ đều hư hỏng” được trả lời bằng chủ trương: “không thể sửa chữa” hoặc “tôi có thể làm gì được?” Điều này càng làm gia tăng sự vỡ mộng và tuyệt vọng, đồng thời khó mà khích lệ tinh thần liên đới và quảng đại. Đẩy con người xuống tận tuyệt vọng, đóng sập lại vòng xoay ngoan cố bạo tàn: đây là nghị trình của nền chuyên chính độc tài vô hình chất chứa quyền lợi ẩn tàn, khi giành được quyền làm chủ cả các nguồn tài nguyên lẫn khả thể suy nghĩ và bày tỏ ý kiến.76. Sau hết, chúng ta cùng hướng về người bị thương. Như ông ấy, nhiều lúc chúng ta cảm thấy bị tổn thương nặng nề và bị bỏ rơi bên vệ đường. Cũng vậy, chúng ta cảm thấy bất lực vì các định chế của mình bị bỏ bê và thiếu nguồn liệu, hoặc chỉ đơn giản phục vụ lợi ích cho số ít, bên ngoài lẫn bên trong. Thật vậy, “xã hội toàn cầu hóa thường chuyển dịch lối nhìn một cách tao nhã. Dưới vỏ bọc của nền chính trị đúng đắn hay ý thức hệ hợp thời thượng, chúng ta chỉ đứng nhìn những ai đau khổ mà chẳng hề xoa dịu họ. Chúng ta truyền hình trực tiếp các hình ảnh của họ, thậm chí nói về họ bằng ngôn từ mỹ miều và đầy khoan dung biểu kiến” [59].Bắt đầu lại
  2. Mỗi ngày đều mang đến cho chúng ta một cơ hội mới, một khả thể mới. Chúng ta không nên kỳ vọng mọi thứ từ những người điều hành đất nước, vì hẳn nó quá trẻ con. Chúng ta có không gian cần thiết để cùng chịu trách nhiệm kiến tạo và áp dụng các diễn trình cũng như biến chuyển mới. Chúng ta hãy tham gia tích cực vào việc đổi mới và hỗ trợ mọi xã hội đang hỗn loạn của mình. Hôm nay, chúng ta có cơ hội quý giá để diễn đạt cảm thức bẩm sinh về tình huynh đệ, trở thành những người Sa-ma-ri-a Nhân hậu, mà họ là người gánh nỗi đau trắc trở của tha nhân, thay vì xúi giục lòng căm thù và oán hận lớn hơn. Tựa như vị khách bộ hành tình cờ trong dụ ngôn, chúng ta chỉ cần có lòng khao khát đơn sơ thuần khiết trở nên một dân tộc, một cộng đồng liên lỉ và bền bỉ nỗ lực không loại trừ, biết hòa nhập và nâng đỡ những ai vấp ngã. Có lẽ, chúng ta thường thấy mình rơi vào não trạng của kẻ bạo lực, tham vọng mù quáng, rắc gieo ngờ vực và dối trá. Người khác có thể vẫn tiếp tục nhìn chính trị hoặc kinh tế như một đấu trường cho những cuộc chơi quyền lực của họ. Còn về phần mình, chúng ta hãy cổ vũ điều gì tốt lành và hết lòng phục vụ nó.78. Chúng ta có thể khởi sự từ bên dưới (hạ khởi) và tùy từng trường hợp mà hành động trên bình diện địa phương cụ thể nhất, rồi sau đó mở rộng đến những vùng xa xôi nhất của đất nước cũng như thế giới, bằng sự quan tâm, chăm sóc tương tự mà người Sa-ma-ri-a đã biểu lộ cho mỗi vết đau của người bị thương. Chúng ta hãy tìm kiếm tha nhân và ôm trọn thế giới như chính nó, đừng sợ đau đớn hay cảm thức bất tương xứng, vì nơi đó chúng ta sẽ khám phá ra tất cả những thiện hảo mà Thiên Chúa đã gieo trồng trong tâm hồn con người. Nguy khó tưởng chừng quá sức lại trở thành cơ hội tiến triển, chứ chẳng phải là lý do bào chữa cho nỗi cam chịu rầu rĩ mà có thể chỉ dẫn đến sự tùng phục. Tuy nhiên, chúng ta đừng làm điều này một mình với tư cách cá nhân. Người Sa-ma-ri-a đã tìm ra chủ quán trọ ân cần chăm sóc người mắc nạn; cũng vậy, chúng ta được kêu mời đoàn kết như một gia đình lớn mạnh hơn cả tổng số thành viên cá thể nhỏ bé. Vì “toàn thể to lớn hơn bộ phận, nhưng nó cũng nhiều hơn tổng số bộ phận của nó” [60]. Chúng ta hãy từ bỏ tính nhỏ nhen và nỗi phẫn uất từ cuộc nội chiến vô bổ, cũng như tình trạng đối đầu không ngừng. Chúng ta hãy ngưng việc thương hại bản thân mà hãy thừa nhận tội ác, tính lãnh đạm, dối trá của mình. Việc chuộc lỗi và hòa giải sẽ mang lại cho chúng ta cuộc sống mới và giải thoát chúng ta khỏi nỗi sợ hãi.79. Người Sa-ma-ri-a đã dừng lại dọc đường và ra đi mà chẳng mong đợi bất cứ sự công nhận hay lòng biết ơn nào. Nỗ lực giúp đỡ người khác khiến ông hài lòng khôn tả trong cuộc sống cũng như trước thiên nhan Chúa, và vì vậy nó trở thành một nghĩa vụ. Hết thảy chúng ta đều có trách nhiệm đối với những ai bị thương, đối với đồng hương của mình và mọi dân nước trên mặt đất này. Chúng ta hãy quan tâm đến nhu cầu của tất cả, nam hay nữ, trẻ tuổi hay già nua, với cùng một tinh thần huynh đệ ân cần chăm sóc và gần gũi mà chúng đã khắc hoạ nên người Sa-ma-ri-a Nhân hậu.

Những người thân cận không biên giới

  1. Đức Giê-su kể dụ ngôn người Sa-ma-ri-a Nhân hậu nhằm trả lời cho nghi vấn: Ai là người thân cận của tôi? Trong xã hội thời Đức Giê-su, cụm từ “người thân cận” thường nói tới những ai gần kề chúng ta nhất, và cảm thấy rằng sự giúp đỡ chủ yếu dành cho người cùng nhóm và cùng sắc tộc thôi. Đối với một số người Do Thái thời ấy, người Sa-ma-ri-a bị xem thường và bị cho là ô uế/nhơ bẩn. Họ không thuộc số người phải được giúp đỡ. Bản thân là một người Do Thái, nhưng Đức Giê-su thay đổi hoàn toàn lối tiếp cận này. Người yêu cầu chúng ta không nên quyết định xem ai đủ gần gũi để trở thành người thân cận, mà đúng hơn chính chúng ta phải trở thành người thân cận với hết mọi người.81. Đức Giê-su yêu cầu chúng ta hiện diện với những ai đang cần giúp đỡ, bất luận họ thuộc nhóm xã hội chúng ta hay không. Trong trường hợp này, người Sa-ma-ri-a trở thành hàng xóm của người Giu-đê-a bị thương. Bằng cách tiến lại gần và sẵn sàng có mặt, ông đã vượt qua mọi rào cản về văn hóa-lịch sử. Kết thúc dụ ngôn, Đức Giê-su nói: “Hãy đi và làm như vậy” (Lc10, 37). Nói cách khác, Người thách thức chúng ta gạt bỏ mọi dị biệt và dù đứng trước đau khổ thì cũng dám tiến lại gần tha nhân mà không gạn hỏi điều gì. Tôi không còn nói mình có người thân cận để giúp đỡ, nhưng chính tôi phải là người thân cận đối với người khác.82. Tuy dụ ngôn này có chút rắc rối, bởi vì Đức Giê-su nói rằng người bị thương xuất thân từ Giu-đê-a, trong khi người dừng lại và giúp đỡ ông ấy lại là người Sa-ma-ri-a. Chi tiết này khá quan trọng đối với suy tư về một tình yêu không loại trừ ai nơi chúng ta. Người Sa-ma-ri-a sinh sống tại vùng đất thực hành các lễ nghi ngoại giáo, nên đối với người Do Thái, điều này khiến người Sa-ma-ri-a trở nên ô uế, đáng ghét và nham hiểm. Trên thực thế, một bản văn Do Thái cổ đã đề cập đến các quốc gia bị ghét bỏ, nói về vùng Sa-ma-ri-a “thậm chí không phải là một dân tộc” (Hc50, 25), và cũng thường được nhắc tới như thể “đám dân ngu xuẩn ở vùng Si-khem” (50, 26).83. Điều này giải thích tại sao một phụ nữ Sa-ma-ri-a, khi được Đức Giê-su xin nước uống, lại trả lời cộc lốc: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri-a, cho ông nước uống sao?” (Ga 4, 9). Lời buộc tội xúc phạm nhất mà nếu ai đó muốn tìm cách làm Đức Giê-su mất uy tín thì có thể gán ghép Người là “người Sa-ma-ri-a” và đã “bị quỷ ám” (Ga 8, 48). Vì vậy, cuộc gặp gỡ của lòng nhân từ này giữa một người Sa-ma-ri-a và một người Do Thái mang tính khiêu khích cao; nó không chừa chỗ cho sự thao túng ý thức hệ và thách thức chúng ta mở rộng ranh giới bản thân. Nó vạch ra chiều kích phổ quát cho ơn gọi yêu thương của chúng ta, một chiều kích vượt trên mọi định kiến, mọi rào cản lịch sử-văn hóa, và mọi quyền lợi nhỏ nhen.

    Lời nài xin của người khách lạ

  2. Cuối cùng, tôi xin lưu ý rằng trong một đoạn Tin Mừng khác, Đức Giê-su nói: “Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước” (Mt25, 35). Đức Giê-su có thể nói những lời đó, bởi lẽ Người luôn rộng lòng, nhạy cảm trước mọi khó khăn của tha nhân. Thánh Phao-lô thúc giục chúng ta “hãy vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm12, 15). Một khi trái tim chúng ta làm được điều này, thì chúng có khả năng đồng nhất với người khác mà chẳng cần bận tâm lo lắng về nơi họ chào đời hoặc họ từ đâu tới. Trong tiến trình đó, chúng ta sẽ cảm nhận tha nhân như “chính cốt nhục của mình vậy” (Is 58, 7).85. Đối với Ki-tô hữu, lời giảng dạy của Đức Giê-su mang ý nghĩa thâm thuý hơn. Lời Người buộc chúng ta nhận ra chính Đức Ki-tô nơi mỗi người anh chị em bị bỏ rơi hoặc bị loại trừ (x. Mt 25, 40. 45). Đức tin có năng lực vô hạn, ngõ hầu truyền cảm hứng và duy trì lòng tôn trọng của chúng ta đối với tha nhân, vì những người tín hữu biết rằng Thiên Chúa yêu thương mọi người, nam hay nữ, bằng một tình yêu vô biên và “do đó trao ban phẩm giá vô hạn cho nhân loại” [61]. Tương tự, chúng ta tin rằng Đức Ki-tô đã đổ máu mình vì mỗi người chúng ta và không ai nằm ngoài phạm vi tình yêu phổ quát của Người. Nếu chúng ta tiến đến cội nguồn tận cùng của tình yêu vốn chính là sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi ấy, thì chúng ta sẽ diện kiến nơi cộng đoàn Ba Ngôi Thiên Chúa nguồn gốc và hình mẫu hoàn hảo của mọi cuộc sống xã hội. Như thế, thần học tiếp tục được trở nên phong phú nhờ suy tư về chân lý vĩ đại này.86. Nhờ điều này, đôi khi tôi tự hỏi tại sao phải mất quá lâu để Giáo hội dứt khoát lên án chế độ nô lệ và các hình thức bạo lực khác. Ngày nay, với nền linh đạo và thần học phát triển, thì chẳng có lý do gì để chúng ta bào chữa cả. Tuy nhiên, vẫn có người dường như cảm thấy được khuyến khích hoặc ít nhất được đức tin của họ cho phép ủng hộ hàng loạt chủ nghĩa duy dân tộc hẹp hòi và bạo lực, bài ngoại và khinh miệt, thậm chí cả việc ngược đãi những người khác biệt. Đức tin, và chủ nghĩa nhân bản được đức tin truyền cảm hứng, phải duy trì một cảm thức phê bình khi đối diện với các khuynh hướng này, và phản ứng ngay lập tức, bất cứ lúc nào chúng xuất đầu lộ diện. Vì lý do này, thật quan trọng khi dạy giáo lý và thuyết giảng phải nói trực tiếp và rõ ràng hơn về ý nghĩa xã hội của hiện sinh, chiều kích tình mến huynh đệ trong linh đạo, xác tín bản thân về phẩm giá bất khả chuyển nhượng của mỗi con người, đồng thời trình bày về các lý do khiến chúng ta yêu thương và chấp nhận tất cả là anh chị em mình.

Chuyển ngữ: Lm. Xuân Hy Vọng

 

CHÚ THÍCH:

[1] Huấn dụ, 6, 1. Ấn bản tiếng Anh theo tác phẩm Francis of Assisi: Early Documents [tạm dịch: Phan-xi-cô Át-si-zi: Các Văn Kiện Sơ Khai], tập 1. New York, London, Manila (1999), 131.

 

[2] Như trên (ibid, từ đây viết tắt là nt/Nt), 25: tác phẩm đã trưng dẫn (op.cit., từ đây viết tắt là đtd), 136.

 

[3] Thánh Phan-xi-cô Át-si-zi, Earlier Rule of the Friars Minor (Regula non bullata) [tạm dịch: Luật dòng tiên khởi của Dòng Anh em Hèn mọn], 16:3.6: đtd, 74.

 

[4] Eloi Leclerc, O.F.M., Exil et tendresse [tạm dịch: Cuộc lưu đày và lòng bao dung], do Hội dòng Phansinh biên soạn, Paris, 1962, 205.

 

[5] Văn thư về Tình huynh đệ nhân bản cho Hoà bình Thế giới và Cùng chung sống, Abu Dhabi (4/2/2019): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 4-5/2/2019, tr. 6.

 

[6] Diễn văn tại Hội nghị Đại kết và Đối thoại Liên tôn với Giới trẻ, Skopje, Bắc Ma-cê-đô-ni-a (7/5/2019): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 9/5/2019, tr. 9.

 

[7] Diễn văn tại Quốc hội Âu Châu, Strasbourg (25/11/2014): AAS 106 (2014), 996.

 

[8] Gặp gỡ Chính quyền, Xã hội Dân sự và Đội vệ binh Ngoại giao, Santiago, Chile (16/1/2018): AAS 110 (2018), 256.

 

[9] Giáo Hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29/6/2009), 19: AAS 101 (2009), 655.

 

[10] Tông huấn Hậu thượng Hội đồng Giám mục Christus vivit (25/3/2019), 181.

 

[11] Hồng Y Raúl Silva Henríquez, Bài giảng tại Te Deum, Santiago de Chile (18/9/1974).

 

[12] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 57: AAS 107 (2015), 869.

 

[13] Diễn văn dành cho Phái đoàn Ngoại giao tại Toà Thánh (11/1/2016): AAS 108 (2016), 120.

 

[14] Diễn văn dành cho các Phái bộ Ngoại giao tại Toà Thánh (13/1/2014): AAS 106 (2014), 83-84.

 

[15] x. Diễn văn dành cho Hiệp hội Tổ chức “Kỷ niệm Bách chu niên triều Giáo hoàng” (25/5/2013): Insegnamenti [Giáo huấn] I, 1 (2013), 238.

 

[16] x. Thánh Giáo hoàng Phao-lô VI, Thông điệp Populorum Progressio (26/3/1967): AAS 59 (1967), 264.

 

[17] Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Thông điệp Caristas in Veritate (29/6/2009), 22: AAS 101 (2009), 657.

 

[18] Diễn văn dành cho Giới chính quyền Dân sự, Tirana, Albania (21/9/2014): AAS 106 (2014), 773.

 

[19] Sứ điệp dành cho Tham dự viên Hội nghị Quốc tế “Nhân quyền trong Thế giới Đương đại: Thành quả, Khiếm khuyết bỏ nhỡ, Tiêu cực” (10/12/2018): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 10-11/12/2018, tr. 8.

 

[20] Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013), 212: AAS 105 (2013), 1108.

 

[21] Sứ điệp Ngày Hoà bình Thế giới 2015 (8/12/2014), 3-4: AAS 107 (2015), 69-71.

 

[22] Nt, 5: AAS 107 (2015), 72.

 

[23] Sứ điệp Ngày Hoà bình Thế giới 2016 (8/12/2015), 2: AAS 108 (2016), 49.

 

[24] Sứ điệp Ngày Hoà bình Thế giới 2020 (8/12/2019), 1: Tờ Quan sát viên Rô-ma, 13/12/2019, tr. 8.

 

[25] Diễn văn về Vũ khí Hạt nhân, Na-ga-sa-ki, Nhật Bản (24/11/2019): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 25-26/11/2019, tr. 6.

 

[26] Đối thoại với Sinh viên và Giảng viên thuộc Đại học San Clarlo tại Mi-lan (6/4/2019): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 8-9/4/2019, tr. 6.

 

[27] Văn thư về Tình huynh đệ nhân bản cho Hoà bình Thế giới và Cùng chung sống, Abu Dhabi (4/2/2019): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 4-5/2/2019, tr. 6.

 

[28] Diễn văn nhân dịp Ngày Quốc Tế Văn hoá, Cagliari, Ý (22/9/2013): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 23-24/9/2013, tr. 7.

 

[29] Humana Communitas [Cộng đồng Nhân loại]. Thư gửi Viện trưởng Viện Hàn Lâm Giáo Hoàng về Sự sống nhân dịp kỷ niệm 25 năm Thành lập (6/1/2019), 2.6: Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 16/1/2019, tr. 6-7.

 

[30] Diễn văn Video dành cho Hội nghị TED tại Vancouver (26/4/2017): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 27/4/2017, tr. 7.

 

[31] Thời khắc Cầu nguyện Ngoại thường trong Đại dịch (27/3/2020): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 29/3/2020, tr. 10.

 

[32] Bài giảng tại Skopje, Bắc Ma-cê-đô-ni-a (7/5/2019): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 8/5/2019, tr. 12.

 

[33] x. Aeneid [tạm dịch: Tiếng Chuông] 1, 462: “Sunt lacrimae rerum et mentem mortalia tangunt” [tạm dịch: “Những giọt lệ của tạo vật và từ đau khổ của con người”].

 

[34] “Historia…magistra vitae” [tạm dịch: “Lịch sử…bậc thầy của cuộc đời”] (Cicero, De Oratore [Nhà hùng biện], 2, 6).

 

[35] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 204: AAS 107 (2015), 928.

 

[36] Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Christus Vivit (25/3/2019), 91.

 

[37] Nt, 92.

 

[38] Nt, 93.

 

[39] Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Sứ điệp Ngày Di dân và Tị nạn Thế giới 2013 (12/10/2012): AAS 104 (2012), 908.

 

[40] Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Christus Vivit (25/3/2019), 92.

 

[41] Sứ điệp Ngày Di dân-Tị nạn Thế giới 2020 (13/5/2020): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 16/5/2020, tr. 8.

 

[42] Diễn văn dành cho các Phái bộ Ngoại giao tại Toà Thánh (11/1/2016): AAS 108 (2016), 124.

 

[43] Diễn văn dành cho các Phái bộ Ngoại giao tại Toà Thánh (13/1/2014): AAS 106 (2014), 84.

 

[44] Diễn văn dành cho các Phái bộ Ngoại giao tại Toà Thánh (11/1/2016): AAS 108 (2016), 123.

 

[45] Sứ điệp Ngày Di dân-Tị nạn Thế giới 2019 (27/5/2019): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 27-28/5/2019, tr. 8.

 

[46] Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Christus Vivit (25/3/2019), 88.

 

[47] Nt, 89.

 

[48] Tông huấn Gaudete et Exsultate (19/3/2018), 115.

 

[49] Dựa trên bộ phim Pope Francis: A Man of His Word [tạm dịch: Giáo Hoàng Phan-xi-cô: Người giữ Lời], của tác giả Wim Wenders (2018).

 

[50] Diễn văn dành cho Chính quyền, Xã hội Dân sự và Đội vệ binh Ngoại giao, Tallinn, Es-tô-ni-a (25/9/2018): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 27/9/2018, tr. 7.

 

[51] x. Thời khắc Cầu nguyện Ngoại thường trong Đại dịch (27/3/2020): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 29/3/2020, tr. 10; Sứ điệp Ngày Thế giới dành cho Người nghèo 2020 (13/6/2020), 6: Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 14/6/2020, tr. 8.

 

[52] Diễn văn đón chào Giới trẻ tại Trung tâm Văn hoá Padre Félix Varela, Ha-va-na, Cu-ba (20/9/2015): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 21-22/9/2015, tr. 6.

 

[53] Cộng đồng Va-ti-can II, Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong Thế giới Ngày nay Gaudium et Spes, 1.

 

[54] Thánh I-rê-nê thành Ly-on, Adversus Haereses [Chống Lạc giáo], II, 25, 2; PG 7/1, 798tt.

 

[55] Talmud Bavli (Sách Talmud Ba-by-lon), Shabbat, 31a.

 

[56] Diễn văn dành cho Những ai được Tổ chức Bác ái của Giáo hội Trợ giúp, Tallinn, Es-tô-ni-a (25/9/2018): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 27/9/2018, tr. 8.

 

[57] Diễn văn Video dành cho Hội nghị TED tại Vancouver (26/4/2017): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 27/4/2017, tr. 7.

 

[58] Homiliae in Matthaeum (tạm dịch: Bài giảng về Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu), 50: 3-4: PG 58, 508.

 

[59] Sứ điệp tại Buổi gặp gỡ các Phong trào Giáo dân, Modesto, Ca-li-for-ni-a, Hoa Kỳ (10/2/2017): AAS 109 (2017), 291.

 

[60] Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013), 235: AAS 105 (2013), 1115.

 

[61] Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, Sứ điệp cho người Khuyết tật, Kinh Truyền Tin tại Osnabrück, Đức (16/11/1980): Insegnamenti (Giáo huấn) III, 2 (1980), 1232.