SỨ ĐIỆP NGÀY GIỚI TRẺ THẾ GIỚI NĂM 2021

Ngày 21 tháng 11 năm 2021

“Đứng lên. Ta chỉ định ngươi là chứng nhân cho những gì ngươi đã thấy. (xem TĐCV 26: 16)”

Các bạn trẻ thân mến,

Một lần nữa, cha muốn nắm tay các con và cùng các con bước đi trong cuộc hành hương tinh thần dẫn đến Ngày Giới trẻ Thế giới 2023 tại Lisbon.

Thông điệp năm ngoái, mà cha đã ký ngay trước khi đại dịch bùng phát, có chủ đề là: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!” (x. Lc 7:14). Trong sự quan phòng của Người, Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta trước thử thách nghiêm trọng mà chúng ta sắp trải qua.

Ở khắp mọi nơi trên thế giới, chúng ta đã phải chịu đựng sự mất mát của rất nhiều người thân yêu của chúng ta và trải qua sự cô lập của xã hội. Tình trạng khẩn cấp về sức khỏe là một trở ngại đặc biệt đối với các bạn trẻ, vì cuộc sống của các con có khuynh hướng tự nhiên là hướng ngoại: hướng đến trường học hay trường đại học, hướng đến nơi làm việc và các cuộc gặp gỡ xã hội. Các con thấy mình trong những tình huống khó khăn mà các con không quen đối mặt. Những người cảm thấy khó khăn hơn, hoặc thiếu sự hỗ trợ, dễ cảm thấy mất phương hướng. Chúng ta đã chứng kiến sự gia tăng các vấn đề gia đình, thất nghiệp, trầm cảm, cô đơn và các hành vi nghiện nghiệp, đó là chưa nói đến sự gia tăng áp lực, căng thẳng, bùng phát tức giận và bạo lực gia tăng.

Tuy nhiên, cảm ơn Chúa, đây chỉ là một mặt của đồng tiền. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy sự mong manh của chúng ta, nhưng nó cũng tiết lộ các đức tính của chúng ta, bao gồm cả khuynh hướng đoàn kết của chúng ta. Trên khắp thế giới, chúng ta đã thấy rất nhiều cá nhân, trong đó có nhiều người trẻ, giúp cứu sống, gieo mầm hy vọng, duy trì tự do và công lý, đồng thời đóng vai trò là những người kiến tạo hòa bình và xây dựng cầu nối.

Bất cứ khi nào một người trẻ sa ngã, theo một nghĩa nào đó, tất cả nhân loại đều gục ngã. Tuy nhiên, cũng đúng khi một người trẻ trỗi dậy, thì cũng giống như cả thế giới cũng trỗi dậy theo. Hỡi các bạn trẻ, các con có trong tay những tiềm năng thật lớn lao! Các con có sức mạnh to lớn trong trái tim mình!

Hôm nay cũng vậy, Thiên Chúa đang nói với mỗi người trong các con: “Hãy trỗi dậy!” Cha tha thiết hy vọng rằng Thông điệp này có thể giúp chúng ta chuẩn bị cho thời đại mới và một trang mới trong lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, chúng ta không thể bắt đầu lại nếu không có các con, các bạn trẻ thân mến. Nếu thế giới của chúng ta muốn trỗi dậy, nó cần sức mạnh của các con, cần nhiệt tình của các con, và cần niềm đam mê của các con. Do đó, cha muốn cùng các con suy gẫm đoạn sách Công vụ Tông đồ trong đó Chúa Giêsu nói với Thánh Phaolô: “Đứng lên. Ta chỉ định ngươi là chứng nhân cho những gì ngươi đã thấy” (Cv 26:16).

Chứng tá của Phaolô trước nhà vua

Câu Kinh thánh gợi lên chủ đề của Ngày Giới trẻ Thế giới năm 2021 được trích từ lời chứng của Phaolô trước Vua Agrippa sau khi thánh nhân bị cầm tù. Phaolô, trước đây là kẻ thù và là kẻ bắt bớ các tín hữu của Chúa Kitô, hiện đang bị xét xử chính vì đức tin của ông nơi Chúa Giêsu Kitô. Vị Tông đồ đã kể lại trước nhà vua câu chuyện về cuộc gặp gỡ định mệnh của mình với Chúa Kitô khoảng 25 năm về trước.

Phaolô nói rằng ông đã bắt bớ các Kitô hữu, cho đến một ngày khi đang trên đường đến Đamát để bắt giữ một số Kitô Hữu, một ánh sáng còn “sáng hơn mặt trời” chiếu xung quanh ông và những người bạn đồng hành của ông (xem Công vụ 26:13). Tuy nhiên, chỉ một mình ông nghe thấy “một tiếng nói”: đó là tiếng của Chúa Giêsu, Đấng đã nói với ông, và gọi đích danh ông.

Saolô! Saolô!

Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn sự kiện này. Bằng cách gọi tên Saolô, Chúa đã khiến ông nhận ra rằng Ngài đã biết rõ về ông. Cứ như thể Chúa đang nói: “Ta biết ngươi là ai và ngươi đang làm gì; dù thế, Ta đang nói chuyện trực tiếp với ngươi”. Hai lần, Chúa gọi tên Phaolô như dấu chỉ của một ơn gọi đặc biệt quan trọng; như trước đó Chúa đã làm với Môisê (Xh 3: 4) và Samuel (x. 1 Sam 3:10). Ngã xuống đất, Saolô nhận ra rằng ông đang chứng kiến một thần linh, một sự mặc khải thần thánh mạnh mẽ khiến ông bối rối, nhưng vị thần ấy không hủy diệt ông. Thay vào đó, ông thấy mình được gọi đích danh.

Chỉ một cuộc gặp gỡ cá nhân và không ẩn danh với Chúa Kitô mới thay đổi cuộc đời. Chúa Giêsu cho thấy Ngài biết Saolô rất rõ, “từ trong ra ngoài”. Cho dù Saolô là người hay bắt bớ, và lòng đầy căm thù các Kitô hữu, Chúa Giêsu nhận ra rằng điều này là do sự thiếu hiểu biết. Chúa muốn thể hiện cho Saolô thấy lòng nhân từ của Người. Ân sủng này, là tình yêu nhưng không và vô điều kiện, sẽ là ánh sáng biến đổi hoàn toàn cuộc đời của Saolô.

Thưa Ngài, Ngài là ai?

Trước sự hiện diện mầu nhiệm đang gọi tên mình, Saolô hỏi: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” (Công-vụ 26:15) Câu hỏi này mang tính quyết định, và sớm hay muộn tất cả chúng ta phải hỏi câu đó. Nghe người khác nói về Chúa Giêsu thôi là chưa đủ; chúng ta cần phải tự mình nói chuyện với Người, một cách cá vị. Trong sâu thẳm, đây là tất cả ý nghĩa của việc cầu nguyện. Cầu nguyện có nghĩa là nói chuyện trực tiếp với Chúa Giêsu, mặc dù lòng chúng ta có thể vẫn còn bối rối và tâm trí chúng ta đầy nghi ngờ hoặc thậm chí xem thường Chúa Giêsu và các Kitô hữu. Cha cầu nguyện rằng mỗi người trẻ, trong sâu thẳm trái tim của mình, cuối cùng sẽ đặt ra câu hỏi: “Lạy Chúa, Ngài là ai?”

Chúng ta không còn có thể giả định rằng mọi người đều biết Chúa Giêsu, ngay cả trong thời đại internet. Câu hỏi mà nhiều người đang hỏi về Chúa Giêsu và Giáo hội của Người chính là câu hỏi này: “Ngài là ai?” Trong toàn bộ câu chuyện Thánh Phaolô được kêu gọi, đây là lần duy nhất Phaolô nói. Và Chúa trả lời ngay lập tức: “Ta là Chúa Giêsu mà ngươi đang bắt bớ” (sđd).

“Ta là Giêsu, Đấng mà ngươi đang bắt bớ!”

Với câu trả lời này, Chúa Giêsu tiết lộ cho Saolô một bí ẩn lớn: Ngài đồng hóa mình với Hội thánh, với các Kitô hữu. Cho đến thời điểm đó, Saolô không thấy gì về Chúa Kitô, mà chỉ thấy những tín hữu mà ông đã tống vào tù (xem Công-vụ 26:10) và việc giết người mà ông đã tán thành (sđd). Ông đã thấy cách các Kitô hữu đáp trả điều ác bằng sự tốt lành, lòng căm thù bằng tình yêu thương, chịu đựng sự bất công, bạo lực, những tai họa và sự bắt bớ vì danh của Chúa Kitô. Một cách nào đó, mà không hề hay biết, Saolô đã gặp được Chúa Kitô. Ông đã gặp Chúa nơi các Kitô hữu!

Đã bao nhiêu lần chúng ta nghe người ta nói “Tôi tin Chúa Giêsu, nhưng không tin Giáo hội!” như thể điều này có thể là sự thay thế cho điều kia. Người ta không thể biết Chúa Giêsu nếu người ta không biết Giáo hội. Người ta không thể biết Chúa Giêsu ngoài những anh chị em trong cộng đồng của Người. Chúng ta không thể tự gọi mình là Kitô hữu hoàn toàn trừ khi chúng ta kinh nghiệm về chiều kích giáo hội của đức tin.

“Đá lại mũi nhọn thì khốn cho ngươi”

Chúa đã nói với Saolô những lời này sau khi ông ngã xuống đất. Tuy nhiên, chắc chắn có lúc Ngài đã lặp lại những lời đó với Saolô một cách bí ẩn, nhằm lôi kéo ông về với chính mình. Tuy nhiên, Saolô đã chống lại. Chúa của chúng ta cũng nói lời “khiển trách” nhẹ nhàng đó đối với mọi người trẻ quay lưng lại với Ngài: “Các con trốn khỏi Ta được bao lâu? Tại sao các con không nghe thấy Ta gọi các con? Ta đang đợi con quay về bên Ta”. Có những lúc chúng ta cũng nói như tiên tri Giêrêmia: “Tôi sẽ không còn nghĩ đến Người nữa” (xem Gr 20: 9). Vậy mà trong lòng mỗi người lại có một ngọn lửa bùng cháy: dù cố gắng kìm nén cũng không thành công, vì nó mạnh hơn chúng ta.

Chúa đã chọn một người đang bắt bớ Ngài, hoàn toàn thù địch với Ngài và những người theo Ngài. Chúng ta thấy rằng, trong mắt Chúa, không ai bị hư mất. Nhờ một cuộc gặp gỡ cá nhân với Chúa, chúng ta luôn có thể bắt đầu lại từ đầu. Không một người trẻ nào nằm ngoài tầm với của ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa. Không ai có thể nói rằng: Hắn đã đi quá xa… Đã quá muộn… Có bao nhiêu người trẻ tuổi cuồng nhiệt nổi loạn và lập dị, trong khi sâu thẳm trái tim họ cảm thấy cần phải dấn thân, cần phải yêu hết lòng, cần phải có một sứ mệnh trong cuộc sống! Trong người trẻ Saolô, Chúa Giêsu đã thấy chính xác điều đó.

Nhận ra sự mù quáng của chúng ta

Chúng ta có thể tưởng tượng rằng, trước khi gặp gỡ Chúa Giêsu, Saolô ở một mức độ nào đó đã “hết mình”, nghĩ rằng mình “vĩ đại” dựa trên sự chính trực về đạo đức, lòng nhiệt thành, lý lịch và trình độ học vấn của mình. Chắc chắn, ông đã bị thuyết phục rằng mình đang làm đúng. Một khi Chúa tỏ mình ra, Saolô “ngã xuống đất”, và bị mù. Đột nhiên, ông không thể nhìn thấy, cả về thể chất lẫn tinh thần. Xác tín của ông đang bị lung lay. Trong thâm tâm, ông nhận ra rằng lòng nhiệt thành cuồng nhiệt của mình trong việc giết hại các tín hữu Kitô là hoàn toàn sai lầm. Ông nhận ra rằng ông không nắm bắt được sự thật tuyệt đối, và thực sự còn rất xa vời với sự thật ấy. Xác tín và niềm kiêu hãnh của ông tan biến; đột nhiên ông thấy mình mất phương hướng, yếu ớt và “nhỏ bé”.

Sự khiêm tốn như vậy – ý thức về những hạn chế của chúng ta – là điều cần thiết! Những ai tin chắc rằng họ biết mọi thứ về bản thân, về người khác và thậm chí về chân lý tôn giáo, sẽ khó gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô. Sau khi bị mù, Saolô đã mất điểm tham chiếu của mình. Một mình trong bóng tối, những thứ rõ ràng duy nhất là ánh sáng mờ mờ ông nhìn thấy và giọng nói ông nghe thấy. Thật là nghịch lý! Chỉ khi chúng ta bị mù, chúng ta mới bắt đầu nhìn thấy!

Sau kinh nghiệm vượt qua của mình trên đường đến Đamát, Saolô muốn được gọi là Phaolô, một cái tên có nghĩa là “nhỏ bé”. Điều này không giống như những biệt danh hoặc những tên bịa đặt ra quá phổ biến ngày nay. Cuộc gặp gỡ của Saolô với Chúa Kitô đã thay đổi cuộc đời ông; cuộc gặp gỡ này khiến ông cảm thấy mình thật sự nhỏ bé và xé nát mọi thứ ngăn cản ông thực sự nhận ra bản thân mình. Như Phaolô nói với chúng ta: “Tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa” (1Cr 15, 9).

Thánh Têrêxa thành Lisieux, cũng như bao vị thánh khác, rất thích nói rằng khiêm nhường là chân lý. Ngày nay, chúng ta lấp đầy thời gian của mình, đặc biệt là trên mạng xã hội, với bất kỳ “câu chuyện” nào, thường được xây dựng cẩn thận với phông nền, máy ảnh web và các hiệu ứng đặc biệt. Chúng ta muốn trở thành tâm điểm chú ý, ngày càng nhiều, được đóng khung hoàn hảo, sẵn sàng cho “bạn bè” và “những người theo dõi” thấy một hình ảnh về bản thân không phản ánh con người thật của chúng ta. Chúa Kitô, mặt trời của ban ngày, đến để soi sáng chúng ta và khôi phục tính xác thực của chúng ta, giải phóng chúng ta khỏi tất cả các mặt nạ của chúng ta. Chúa cho chúng ta thấy rõ ràng chúng ta là ai, vì đó chính xác là cách Chúa yêu chúng ta.

Thay đổi quan điểm

Sự hoán cải của Phaolô không liên quan đến việc quay lưng lại, mà là mở ra một cách nhìn hoàn toàn mới. Phaolô tiếp tục cuộc hành trình đến Đamát, nhưng có điều gì đó đã thay đổi; bây giờ ông đã là một người khác (xem Công vụ 22:10). Sự chuyển đổi có thể đổi mới cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Chúng ta tiếp tục làm những gì chúng ta đã làm trước đây, nhưng trái tim và động cơ của chúng ta bây giờ đã thay đổi. Trong trường hợp của Phaolô, Chúa Giêsu bảo ông tiếp tục đi đến Đamát, nơi ông định đi ban đầu. Phaolô vâng lời, nhưng mục tiêu và mục đích của cuộc hành trình của ông đã bị thay đổi hoàn toàn. Kể từ thời điểm này, Phaolô sẽ nhìn mọi thứ với con mắt mới, không còn là kẻ bắt bớ và hành hạ các Kitô Hữu nữa, mà là một môn đệ và một chứng nhân. Tại Đamát, Anania sẽ làm lễ rửa tội cho ông và trình diện ông với cộng đồng Kitô. Trong im lặng và cầu nguyện, Phaolô sẽ đào sâu kinh nghiệm của mình và căn tính mới được Chúa Giêsu ban cho ông.

Đừng làm tiêu tan sức lực và đam mê của tuổi trẻ

Thái độ của Phaolô trước cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Phục sinh không quá xa lạ đối với chúng ta. Bao nhiêu sức mạnh và đam mê cũng trào dâng trong chính trái tim các con, các bạn trẻ thân mến! Tuy nhiên, bóng tối xung quanh và bên trong các con có thể ngăn cản các con nhìn mọi thứ một cách chính xác. Các con có thể có nguy cơ bị lạc trong trận chiến vô nghĩa và thậm chí bạo lực. Đáng buồn thay, những nạn nhân đầu tiên sẽ là chính các con và những người thân thiết nhất với các con. Ngoài ra còn có nguy cơ đấu tranh vì những nguyên nhân được bắt đầu bằng việc đề cao những giá trị chính nghĩa, nhưng một khi đã quá khích, sẽ biến thành những ý thức hệ hủy diệt. Có bao nhiêu người trẻ ngày nay được truyền cảm hứng, có lẽ bị thúc đẩy, bởi niềm tin chính trị hoặc tôn giáo, cuối cùng trở thành công cụ bạo lực và hủy hoại cuộc sống của nhiều người khác! Một số, di chuyển dễ dàng trong thế giới kỹ thuật số, sử dụng thực tế ảo và mạng xã hội như một chiến trường mới, sử dụng vũ khí tin giả một cách vô đạo đức để phát tán nọc độc và quét sạch kẻ thù của họ.

Khi Chúa bước vào cuộc đời của Phaolô, Chúa đã không kìm nén cá tính hay lòng nhiệt thành cuồng nhiệt của ông. Thay vào đó, Chúa đã trao ban cho ông những ân sủng dư dật để biến ông thành một sứ giả vĩ đại của Tin Mừng đến tận cùng trái đất.

Tông đồ của các dân nước

Do đó, Phaolô sẽ được gọi là “Tông đồ của các dân nước”. Trước đó Phaolô đã từng là một người Pharisêu, một tín đồ cẩn trọng tuân giữ Lề Luật! Ở đây chúng ta thấy một nghịch lý khác: Chúa đặt niềm tin vào chính kẻ đã bắt bớ Ngài. Giống như Phaolô, mỗi người chúng ta đều có thể nghe thấy tiếng nói trong trái tim mình rằng: “Ta tin tưởng con. Ta biết câu chuyện của con và Ta đã thấu hiểu nó, cùng với con. Ngay cả khi con đã thường xuyên chống lại Ta, Ta chọn con và làm cho con trở thành chứng nhân của Ta”. Cách suy nghĩ của Thiên Chúa có thể biến kẻ bắt bớ tồi tệ nhất thành một chứng nhân vĩ đại.

Các môn đệ của Chúa Kitô được mời gọi trở thành “ánh sáng thế gian” (Mt 5,14). Bây giờ Phaolô phải làm chứng cho những gì ông đã thấy, nhưng hiện tại thì ông bị mù. Một nghịch lý khác! Tuy nhiên, nhờ kinh nghiệm bản thân, Phaolô hoàn toàn có thể xác định được những người mà Chúa sẽ sai ông đến. Đó là lý do tại sao ông được làm chứng nhân: “mở mắt cho họ, để họ từ bóng tối bước ra ánh sáng” (Công vụ 26:18).

“Hãy trỗi dậy và làm chứng!”

Khi chúng ta đón nhận sự sống mới được ban tặng cho chúng ta trong phép rửa tội, Chúa giao cho chúng ta một sứ mệnh quan trọng có tính đổi đời: “Các con phải là chứng nhân của Ta!”

Hôm nay Chúa Kitô nói với các con những lời giống như lời Ngài đã nói với Phaolô: Hãy chỗi dậy! Đừng chán nản hoặc bị cuốn vào bản thân: một sứ mệnh đang chờ các con! Các con cũng có thể làm chứng cho những gì Chúa Giêsu đã bắt đầu hoàn thành trong cuộc sống của các con. Nhân danh Chúa Giêsu, cha yêu cầu các con:

– Hãy trỗi dậy! Hãy chứng minh rằng các con cũng đã bị mù và đã gặp ánh sáng. Các con cũng đã nhìn thấy sự tốt lành và vẻ đẹp của Thiên Chúa nơi chính các con, nơi người khác và trong sự hiệp thông của Giáo hội, trong đó mọi sự cô đơn được vượt qua.

– Hãy trỗi dậy! Hãy làm chứng cho tình yêu và sự tôn trọng có thể thấm nhuần trong các mối quan hệ của con người, trong cuộc sống của gia đình chúng ta, trong cuộc đối thoại giữa cha mẹ và con cái, giữa người trẻ và người già.

– Hãy trỗi dậy! Hãy đề cao công bằng xã hội, sự thật và liêm chính, các quyền con người. Bảo vệ những người bị bắt bớ, những người nghèo và những người dễ bị tổn thương, những người không có tiếng nói trong xã hội, những người nhập cư.

– Hãy trỗi dậy! Hãy chứng thực cách nhìn mới về mọi thứ cho phép các con xem tạo vật với đôi mắt tràn ngập sự kinh ngạc, điều đó khiến các con coi Trái đất là ngôi nhà chung của chúng ta và cho các con can đảm để thúc đẩy một hệ sinh thái toàn vẹn.

– Hãy trỗi dậy! Hãy chứng minh rằng những cuộc sống thất bại có thể được xây dựng lại, rằng những người đã chết về mặt tinh thần có thể sống lại, rằng những người bị trói buộc có thể một lần nữa được tự do, rằng những trái tim bị bao trùm bởi nỗi buồn có thể tìm lại hy vọng.

– Hãy trỗi dậy! Hãy vui mừng làm chứng rằng Chúa Kitô đang sống! Hãy truyền bá thông điệp của Người về tình yêu thương và ơn cứu rỗi cho những người cùng thời với các con, ở trường học và trường đại học, nơi làm việc, trong thế giới kỹ thuật số, ở khắp mọi nơi.

Chúa, Giáo hội và Đức Giáo Hoàng tin tưởng các con và chỉ định các con làm chứng trước tất cả những người trẻ khác mà các con sẽ gặp trên “những con đường dẫn đến Đamát” ngày nay. Đừng bao giờ quên rằng “bất cứ ai đã thực sự cảm nghiệm được tình yêu thương cứu độ của Thiên Chúa thì không cần nhiều thời gian hay quá trình huấn luyện lâu dài để có thể ra đi rao truyền tình yêu thương đó. Mỗi Kitô hữu là một nhà truyền giáo nếu họ đã gặp gỡ được tình yêu của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô “(Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, 120).

Hãy trỗi dậy và cử hành Ngày Giới Trẻ Thế Giới trong các Giáo hội địa phương!

Một lần nữa, cha mời tất cả các con, những người trẻ trên khắp thế giới, hãy tham gia vào cuộc hành hương tâm linh hướng tới việc kỷ niệm Ngày Giới trẻ Thế giới 2023 tại Lisbon. Tuy nhiên, sự kiện tiếp theo sẽ diễn ra tại các Giáo hội địa phương của các con, ở các tổng giáo phận và giáo phận khác nhau trên thế giới, nơi sẽ cử hành Ngày Giới trẻ Thế giới 2021 tại địa phương, vào Lễ Trọng Chúa Kitô Vua.

Cha hy vọng rằng tất cả chúng ta có thể trải nghiệm những bước này trên đường đi với tư cách là những người hành hương thực thụ, chứ không chỉ đơn thuần là những “khách du lịch tôn giáo”! Xin cho chúng con ngày càng cởi mở với những điều bất ngờ của Chúa, vì Ngài muốn soi sáng con đường của chúng con. Mong sao chúng ta ngày càng cởi mở hơn để nghe tiếng nói của Người, cũng qua tiếng nói của anh chị em chúng ta. Bằng cách này, chúng ta sẽ giúp nhau cùng phát triển và, vào thời điểm khó khăn này trong lịch sử của chúng ta, chúng ta sẽ trở thành những nhà tiên tri của một tương lai mới và tràn đầy hy vọng! Xin Đức Trinh Nữ Maria đầy ơn phúc chuyển cầu cho tất cả chúng ta.

Rôma, Đền Thờ Thánh Gioan Latêranô, ngày 14 tháng 9 năm 2021,

Lễ Suy tôn Thánh giá

Phanxicô Giáo Hoàng

SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC PHANXICÔ NHÂN NGÀY THẾ GIỚI NGƯỜI NGHÈO LẦN THỨ V

ngày 14 tháng 11 năm 2021

“NGƯỜI NGHÈO, CÁC ÔNG SẼ LUÔN CÓ BÊN MÌNH”

Trong sứ điệp được công bố ngày 14/6/2021 cho Ngày thế giới người nghèo lần thứ V (14/11/2021), Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi các chính phủ trên toàn thế giới xây dựng « một mô hình xã hội hướng đến tương lai, có khả năng đối diện với những hình thức mới của sự đói nghèo ». Mời gọi thay đổi cách nhìn về người nghèo, Đức Thánh Cha nhấn mạnh: « Lối sống chủ nghĩa cá nhân là đồng lõa với sự nghèo đói, và thường trút lên người nghèo mọi trách nhiệm về thân phận của họ. Nhưng sự nghèo đói không phải là kết quả của số phận, nó là một hậu quả của tính ích kỷ ».

Ngài nhắc nhở các Kitô hữu rằng “những ai không nhìn nhận người nghèo thì phản bội lại giáo huấn của Chúa Giêsu và không thể là môn đệ của Ngài“, và đồng thời mời gọi nhận ra “mối liên hệ bất khả phân ly giữa Chúa Giêsu, người nghèo và việc loan báo Tin Mừng”.

Dưới đây là toàn văn sứ điệp:

  1. « Người nghèo, các ông sẽ luôn có bên mình» (Mc 14, 7). Chúa Giêsu đã nói những lời này trong khuôn khổ một bữa ăn ở Bêtania, tại nhà của một Simon nào đó được gọi là « phong hủi », một vài ngày trước lễ Vượt qua. Như thánh sử kể, một người phụ nữ đi vào với một bình bạch ngọc đựng dầu thơm rất quý giá và đã đổ dầu thơm trên đầu Chúa Giêsu. Cử chỉ này đã gây ra sự ngạc nhiên sửng sốt và dẫn đến hai kiểu giải thích khác nhau.

Lối giải thích đầu tiên là sự phẫn nộ của một số người trong số những người có mặt, bao gồm cả các môn đệ mà, tính toán giá trị của dầu thơm – khoảng 300 quan tiền, tức tương đương với tiền lương hằng năm của một công nhân – , đã nghĩ rằng thà bán nó và bố thí cho người nghèo thì hơn. Theo Tin Mừng Gioan, chính Giuđa là người giải thích lập trường này : « Tại sao không bán dầu thơm này lấy ba trăm quan tiền rồi cho người nghèo ? » Và thánh sử ghi lại : « Anh ta nói như thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì anh ta là một tên trộm : anh ta giữ túi tiền và thường lấy những gì người ta bỏ vào đó » (12, 5-6). Không phải ngẫu nhiên nếu lời phê bình gay gắt này đến từ miệng của kẻ phản bội : đó là bằng chứng cho thấy những ai không nhìn nhận người nghèo thì phản bội lại giáo huấn của Chúa Giêsu và không thể là môn đệ của Ngài. Về điều này, chúng ta hãy nhớ lại những lời rất mạnh mẽ của Origène : « Giuđa có vẻ quan tâm đến người nghèo […]. Cả bây giờ nữa nếu có ai giữ túi tiền của Giáo hội và nói cho người nghèo như Giuđa, nhưng lại lấy những gì người ta bỏ vào đó, thì như thế y có phần của mình với Giuđa » (Chú giải Tin Mừng Matthêu 11, 9).

Lối giải thích thứ hai do chính Chúa Giêsu đưa ra và cho phép nắm bắt ý nghĩa sâu xa của cử chỉ mà người phụ nữ đã làm. Ngài nói : « Cứ để mặc cô ấy ! Tại sao làm khổ cô ấy ? Thật cao đẹp cử chỉ mà cô ấy đã làm cho tôi » (Mc 14, 6). Chúa Giêsu biết rằng cái chết của Ngài đến gần và nhìn thấy nơi cử chỉ này lời tiên báo về việc xức dầu cho thi thể của Ngài trước khi được đặt vào trong mồ. Quan điểm này vượt quá mọi mong đợi của khách dự tiệc. Chúa Giêsu nhắc cho họ rằng người nghèo đầu tiên, chính là Ngài, người nghèo nhất trong số những người nghèo bởi vì Ngài đại diện cho tất cả họ. Và cũng nhân danh những người nghèo, những người cô độc, bị gạt bên lề xã hội và phân biệt kỳ thị mà Con Thiên Chúa chấp nhận cử chỉ của người phụ nữ này. Bằng sự nhạy cảm nữ tính của mình, cô đã cho thấy rằng cô là người duy nhất hiểu được tâm tư của Chúa. Người phụ nữ vô danh này – có thể được dự định đại diện cho toàn thể thế giới phụ nữ mà, qua hàng thế kỷ, không có quyền ăn nói và chịu bạo hành – khai mào cho sự hiện diện đầy ý nghĩa của những người nữ tham dự vào các biến cố cao điểm của cuộc đời của Chúa Kitô : chịu đóng đinh, cái chết và việc mai táng cũng như việc hiện ra với tư cách là Đấng Phục Sinh. Phụ nữ, rất thường bị phân biệt kỳ thị và đứng ngoài vòng các vị trí trách nhiệm, trái lại, trong các trang Tin Mừng, là những nhân vật chính trong lịch sử của mạc khải. Lời nói sau cùng của Chúa Giêsu, liên kết người phụ nữ này với sứ mạng cao cả loan báo Tin Mừng, là rất hùng hồn : « Quả thật, tôi bảo các ông : bất cứ nơi nào Tin Mừng được loan báo – trên toàn thế giới – người ta sẽ sẽ kể lại những gì cô vừa làm để nhớ đến cô » (Mc 14, 9).

  1. Sự « đồng cảm » mạnh mẽ này giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ, và cách thức mà Ngài giải thích việc xức dầu của mình tương phản với cái nhìn đầy tai tiếng của Giuđa và của những người khác, mở ra một con đường suy tư phong nhiêu về mối liên hệ bất khả phân ly giữa Chúa Giêsu, người nghèo và việc loan báo Tin Mừng.

Quả thế, khuôn mặt của Thiên Chúa mà Ngài mạc khải là khuôn mặt của một người Cha đối với người nghèo và gần gũi người nghèo. Tất cả công việc của Chúa Giêsu đều khẳng định rằng sự nghèo đói không phải là kết quả của số phận, nhưng là dấu chỉ cụ thể của sự hiện diện của Ngài giữa chúng ta. Chúng ta không nhận ra Ngài khi nào và ở đâu chúng ta muốn, nhưng chúng ta nhận ra Ngài nơi cuộc sống của người nghèo, trong sự đau khổ và khốn cùng của họ, trong những điều kiện đôi khi phi nhân trong đó họ buộc phải sống. Tôi không mệt mỏi lặp đi lặp lại rằng người nghèo là những người loan báo Tin Mừng đích thực bởi vì họ đã là những người đầu tiên được loan báo Tin Mừng và được mời gọi chia sẻ hạnh phúc của Chúa và Nước của Ngài (x. Mt 5,3).

Người nghèo trong mọi hoàn cảnh và mọi miền loan báo Tin Mừng cho chúng ta, vì họ cho phép chúng ta tái khám phá cách luôn mới mẻ những nét đích thực nhất của dung mạo của Chúa Cha. « Họ có nhiều điều để dạy chúng ta. Ngoài việc tham dự vào cảm thức đức tin, qua những nỗi thống khổ của mình, họ nhận biết Chúa Giêsu đau khổ. Điều cần thiết là tất cả chúng ta phải để cho họ Phúc Âm hóa chúng ta. Việc tân Phúc Âm hóa là một lời mời gọi nhận ra sức mạnh cứu độ trong cuộc sống của họ, và đặt họ ở trung tâm hành trình của Giáo hội. Chúng ta được mời gọi khám phá Chúa Kitô nơi họ, sẵn sàng lên tiếng cho chính nghĩa của họ, nhưng còn trở nên bằng hữu của họ, lắng nghe họ, hiểu họ và đón nhận sự khôn ngoan huyền nhiệm mà Thiên Chúa muốn thông ban cho chúng ta qua họ. Sự dấn thân của chúng ta không chỉ hệ tại nơi những hành động hay những chương trình thăng tiến và trợ giúp ; những gì mà Chúa Thánh Thần khơi dậy không phải là đầy dẫy các hoạt động, nhưng trước tiên là cả một sự quan tâm đến người khác mà ngài xem như là một với Ngài. Sự quan tâm yêu thương này là khởi đầu của một sự quan tâm đích thực đối với con người của họ, mà tôi ước ao tìm kiếm cách hữu hiệu thiện ích của họ » (Tông huấn Evangelii gaudium, số 198-199).

  1. Chúa Giêsu không chỉ ở bên cạnh người nghèo, nhưng chia sẻ cùng số phận với họ. Đó cũng là một giáo huấn mạnh mẽ cho các môn đệ của Ngài thuộc mọi thời đại. Những lời của Ngài « người nghèo, các ông sẽ luôn có bên mình » cũng chỉ ra điều này : sự hiện diện của họ giữa chúng ta là thường xuyên, nhưng sự hiện diện này không được dẫn đến một thói quen trở thành sự dửng dưng, nhưng bao hàm trong việc chia sẻ cuộc sống vốn không chấp nhận giấy ủy quyền. Người nghèo không phải là những người « ở bên ngoài » cộng đoàn, nhưng là những anh chị em cùng chia sẻ nỗi đau khổ, để giảm bớt sự túng thiếu và việc bị gạt sang bên lề của họ, để chúng ta trả lại phẩm giá đã mất cho họ và đảm bảo cho họ sự hội nhập xã hội cần thiết. Vả lại, chúng ta biết rằng một cử chỉ từ thiện giả định trước một nhà hảo tâm và một người hưởng nó, đang khi việc chia sẻ sinh ra tình huynh đệ. Bố thí là ngẫu nhiên ; đang khi chia sẻ là bền vững. Bố thí có nguy cơ ban thưởng cho người bố thí và hạ thấp người lãnh nhận ; chia sẻ củng cố tình liên đới và đặt ra những điều kiện cần thiết để đạt tới công lý. Tóm lại, khi muốn nhận ra Chúa Giêsu nơi con người và chạm đến Ngài bằng đôi tay của mình, các tín hữu cần biết hướng về ai : người nghèo là một bí tích của Chúa Kitô ; họ hiện thân con người của Ngài và hướng chúng ta đến Ngài.

Chúng ta có biết bao mẫu gương của các thánh nam và thánh nữ đã chia sẻ với người nghèo kế hoạch sống của họ. Trong số họ, tôi nghĩ đến cha Damien de Veuster, một vị thánh, tông đồ của người phong hủi. Với lòng quảng đại lớn lao, ngài đã đáp lại tiếng gọi đi đến đảo Molokai, nơi đã trở thành một khu ổ chuột chỉ dành cho người phong hủi, để sống và chết với họ. Ngài đã xắn tay áo và làm tất cả để làm cho cuộc sống của những người nghèo bệnh tật và bị gạt bên lề xã hội vốn xuống cấp trầm trọng này, được sống cách xứng phẩm giá. Ngài đã trở thành bác sĩ và y tá, không quan tâm đến những nguy cơ mà ngài phải đối mặt và trong « thuộc địa của cái chết » này, như người ta đã gọi hòn đảo, ngài đã mang lại ánh sáng của tình yêu. Ngài cũng bị mắc bệnh phong hủi, dấu chỉ của sự chia sẻ hoàn toàn với anh chị em mà ngài đã hiến dâng mạng sống của mình. Chứng tá của ngài là rất thời sự trong những ngày ghi dấu đại dịch coronavirus này : chắc chắn ân sủng của Thiên Chúa đang hành động nơi tâm hồn của nhiều người mà, trong sự âm thầm, đang tiêu hao chính mình cho những người nghèo nhất bằng sự chia sẻ cụ thể.

  1. Vì thế, chúng ta phải hoàn toàn tin tưởng vào lời mời gọi của Chúa : « Hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng » (Mc 1, 15). Sự hoán cải này trước hết hệ tại mở rộng tâm hồn chúng ta để nhận ra những biểu hiện muôn mặt của sự nghèo đói và biểu lộ Nước Thiên Chúa bằng một lối sống phù hợp với đức tin mà chúng ta tuyên xưng. Người nghèo thường được coi như là những người bị tách rời, như một phạm trù đòi hỏi một việc phục vụ từ thiện đặc biệt. Về phương diện này, bước theo Chúa Giêsu ngụ ý một sự thay đổi não trạng, tức là chấp nhận thách đố của việc chia sẻ và tham dự. Trở nên môn đệ của Ngài ngụ ý sự chọn lựa không tích trữ kho tàng trên trần gian, vốn mang lại ảo tưởng an toàn, mà trên thực tế là mong manh và chóng qua.

Trái lại, điều đó đòi hỏi sự sẵn sàng giải thoát mình khỏi mọi mối liên hệ ngăn cản đạt tới niềm hạnh phúc và phúc kiến đích thực, để nhìn nhận những gì là bền vững và không thể bị phá hủy bởi bất cứ điều gì và bất cứ ai (x. Mt 6, 19-20).

Ở đây, giáo huấn của Chúa Giêsu cũng lội ngược dòng, vì Ngài hứa những gì mà chỉ đôi mắt đức tin mới có thể nhìn thấy và cảm nghiệm bằng một niềm xác tín hoàn toàn : « Ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ nhận được gấp bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp » (Mt 19, 29). Nếu chúng ta không chọn trở nên nghèo khó về của cải chóng qua, về quyền lực thế gian và về thói khoe khoang, thì chúng ta sẽ không bao giờ có thể hiến mạng sống mình vì tình yêu ; chúng ta sẽ sống một cuộc sống phân mảnh, đầy những ý định tốt lành, nhưng không hữu hiệu để biến đổi thế giới. Vì thế, vấn đề là dứt khoát mở lòng ra cho ân sủng của Chúa Kitô, Đấng có thể biến chúng ta thành những chứng nhân cho tình yêu vô bờ bến của Ngài và mang lại tính khả tín cho sự hiện diện của chúng ta trong thế giới.

  1. Tin Mừng của Chúa Kitô thúc giục quan tâm đặc biệt đến người nghèo và đòi hỏi nhận ra nhiều hình thức, quá nhiều hình thức hỗn độn luân lý và xã hội vốn luôn tạo ra những hình thức nghèo đói mới. Quan niệm cho rằng người nghèo không chỉ chịu trách nhiệm về hoàn cảnh của họ nhưng còn là một gánh nặng không chịu nổi đối với một hệ thống kinh tế vốn đặt lợi ích của một số nhóm đặc quyền đặc lợi ở trung tâm, dường như đạt đích điểm. Một thị trường không biết đến hoặc chọn lọc những nguyên tắc đạo đức sẽ tạo ra những điều kiện phi nhân vốn tác động đến những người đang sống trong những hoàn cảnh bấp bênh. Như thế, chúng ta đang chứng kiến việc tạo ra những cái bẫy luôn luôn mới mẻ về sự khốn khổ và loại trừ, được tạo nên bởi các tác nhân kinh tế và tài chính vô đạo đức, thiếu đi ý thức nhân đạo và trách nhiệm xã hội.

Năm vừa rồi, một tai họa khác đã được thêm vào, càng làm nhân tăng những người nghèo khổ : cơn đại dịch. Nó tiếp tục gõ cửa hàng triệu người và, khi nó không mang lại đau khổ và cái chết cùng với nó, thì dù sao nó vẫn mang đến sự nghèo đói. Con số người nghèo đã gia tăng quá nhiều và, thật không may, nó sẽ còn tiếp tục trong những tháng tới. Một số nước đang phải chịu những hậu quả rất nghiêm trọng của đại dịch, đến độ những người dễ bị tổn thương nhất thấy mình bị tước đi những thiện ích thiết yếu hàng đầu. Những hàng dài chờ đợi trước căng tin dành cho người nghèo là dấu hiệu hữu hình của sự gia trọng này. Việc xem xét chăm chú đòi hỏi chúng ta tìm ra những giải pháp thích hợp nhất để đấu tranh chống lại virút này trên toàn thế giới, mà không nhắm đến lợi ích đảng phái. Cách đặc biệt, điều cấp bách là mang lại những câu trả lời cụ thể cho những người đang chịu thất nghiệp, tác động cách thê thảm đến nhiều người cha gia đình, người nữ và người trẻ. Tình liên đới xã hội và lòng quảng đại mà nhiều người, nhờ ơn Chúa, có khả năng đó, được kết hợp với các kế hoạch sáng suốt thăng tiến con người, đang và sẽ mang lại một sự đóng góp rất quan trọng về phương diện này.

  1. Tuy nhiên, câu hỏi, vốn không hiển nhiên về bất cứ mặt nào, vẫn còn bỏ ngỏ : làm thế nào chúng ta có thể mang lại một câu trả lời xác thực cho hàng triệu người nghèo vốn thường tìm thấy sự dửng dưng như là câu trả lời duy nhất, nếu không phải là sự bực tức khó chịu? Con đường công lý nào cần phải đi theo để những bất công xã hội có thể được khắc phục và để phẩm giá con người, rất thường bị chà đạp, được tái lập? Lối sống cá nhân chủ nghĩa là đồng lõa với sự nghèo đói, và thường trút lên vai người nghèo mọi trách nhiệm về thân phận của họ. Nhưng sự nghèo đói không phải là kết quả của số phận, nó là một hậu quả của tính ích kỷ. Vì thế, điều quan trọng là đưa vào những tiến trình phát triển nâng cao giá trị các khả năng của mọi người, để sự bổ túc các năng lực và sự đa dạng các vai trò dẫn đến một nguồn lực tham gia chung. Nhiều cái nghèo của « người giàu » có thể được chữa lành bằng sự giàu có của « người nghèo », nếu ít ra họ được gặp gỡ và hiểu biết nhau ! Không ai nghèo đến nỗi không thể cho đi một điều gì đó của chính mình trong sự hỗ tương. Người nghèo không chỉ là những người nhận ; họ phải được đặt trong điều kiện có thể cho đi, bởi vì họ biết rõ làm điều đó như thế nào. Trước mắt chúng ta có biết bao mẫu gương chia sẻ ! Người nghèo thường dạy chúng ta về tình liên đới và sự chia sẻ. Đúng thế, những người này thiếu điều gì đó, họ thường thiếu nhiều và thậm chí cái cần thiết, nhưng họ không thiếu tất cả, bởi vì họ bảo toàn phẩm giá con cái Thiên Chúa của họ mà không gì và không ai có thể lấy đi.
  2. Đó là lý do tại sao một lối tiếp cận khác về sự nghèo đói là cần thiết. Đó là một thách đố mà các chính phủ và các tổ chức toàn cầu phải đối mặt với một mô hình xã hội hướng đến tương lai, có khả năng đối mặt với những hình thức nghèo đói mới đang tác động đến thế giới và sẽ đánh dấu cách quyết định những thập niên sắp tới. Nếu người nghèo bị gạt sang bên lề xã hội, như thể họ chịu trách nhiệm về thân phận của họ, thì như thế chính khái niệm về dân chủ sẽ bị khủng hoảng và mỗi chính sách xã hội sẽ trở nên suy yếu. Chúng ta phải hết sức khiêm tốn thừa nhận rằng chúng ta thường thiếu khả năng trước người nghèo. Chúng ta nói về họ cách trừu tượng, chúng ta dừng lại ở các số liệu thống kê và mủi lòng trước bộ phim tài liệu nào đó. Trái lại, sự nghèo đói phải dẫn đến một quan niệm sáng tạo, cho phép gia tăng sự tự do hữu hiệu có thể thể hiện cuộc sống với những khả năng riêng của mỗi người. Cần phải tránh xa ảo tưởng nghĩ rằng sự tự do đạt được và lớn lên nhờ việc sở hữu tiền bạc. Phục vụ người nghèo cách hữu hiệu khơi gợi hành động và cho phép tìm ra những hình thức thích hợp nhất để nâng cao và thăng tiến bộ phận này của nhân loại vốn quá thường vô danh và không có tiếng nói, nhưng đã in sâu nơi nó khuôn mặt của Đấng Cứu Độ mà đòi hỏi sự trợ giúp.
  3. « Người nghèo, các ông sẽ luôn có bên mình » (Mc 14, 7). Đó là một lời mời gọi đừng bao giờ đánh mất cơ hội làm điều thiện. Đằng sau đó, chúng ta có thể thấy lệnh truyền xưa trong Thánh Kinh : « Nếu giữa anh em có một người anh em nghèo […], thì anh em đừng có lòng chai dạ đá, cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng, nhưng phải mở rộng tay và cho họ vay mượn tất cả những gì họ thiếu. […] Anh em phải cho họ cách rộng rãi, và khi cho thì đừng miễn cưỡng. Thật vậy, vì việc đó, Đức Chúa Thiên Chúa của anh em sẽ chúc phúc cho anh em trong mọi việc anh em làm và mọi công trình tay anh em thực hiện. Vì trong đất của anh em sẽ không thiếu người nghèo, nên tôi truyền cho anh em : hãy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh em, trong miền đất của anh em» (Đnl 15, 7-8.10-11, bản dịch CGKPV). Trên cùng bước sóng đó, thánh Phaolô Tông đồ đã khuyến khích các Kitô hữu của các cộng đoàn của ngài giúp đỡ người nghèo của cộng đoàn Giêrusalem đầu tiên và làm điều đó mà « không hối tiếc và không miễn cưỡng, vì Thiên Chúa yêu thích người nào cho đi cách vui tươi» (2Cr 9,7). Vấn đề không phải là xoa dịu lương tâm của chúng ta bằng cách làm một vài bố thí, nhưng đúng hơn là đối lập với nền văn hóa dửng dưng và bất công mà người ta đặt mình đối với người nghèo.

Trong khung cảnh này, cũng nên nhớ lại những lời của thánh Gioan Kim Khẩu : « Người quảng đại không cần yêu cầu giải thích về hạnh kiểm, nhưng chỉ cải thiện tình trạng nghèo đói và thỏa mãn nhu cầu. Người nghèo chỉ có một sự phòng vệ duy nhất : sự nghèo đói và tình trạng túng thiếu của họ. Đừng đòi hỏi họ điều gì khác. Nhưng người tồi tệ nhất thế giới, nếu anh ta thiếu thức ăn cần thiết, cần được giải thoát khỏi sự đói khát. […] Người có lòng thương xót là một bến cảng cho những người túng thiếu : bến cảng đón tiếp và giải thoát những người bị đắm khỏi mối hiểm nguy ; cho dù họ là kẻ gian ác, người tốt lành hay đang gặp hiểm nguy, thì bến cảng sẽ che chở họ bên trong vịnh của nó. Vì thế, bạn cũng vậy, khi bạn thấy một người trên trần gian đắm chìm trong khốn khổ, đừng phán xét, đừng yêu cầu giải thích về hạnh kiểm của người ấy, nhưng hãy giải thoát người ấy khỏi nỗi bất hạnh » (Diễn từ về người nghèo Ladarô, II, 5).

  1. Điều quyết định là gia tăng sự nhạy cảm của chúng ta để hiểu những nhu cầu của người nghèo, luôn đang biến động như những điều kiện sống của họ vậy. Quả thế, ngày nay, ở các khu vực kinh tế phát triển hơn trên thế giới, người ta ít sẵn sàng đối mặt với sự nghèo đói hơn trong quá khứ. Tình trạng sung túc tương đối mà người ta đã quen với, càng làm cho khó khăn hơn việc chấp nhận những hy sinh và thiếu thốn. Vì thế, người ta rơi vào các hình thức thù oán, dễ bị kích động, những đòi hỏi dẫn đến sợ hãi, cô đơn tuyệt vọng và, trong một số trường hợp, dẫn đến bạo lực. Đó không phải là tiêu chí xây dựng tương lai ; thế nhưng, đó cũng là những hình thức nghèo khổ mà chúng ta không thể quay lưng lại. Chúng ta phải cởi mở để đọc các dấu chỉ thời đại vốn diễn tả những cách thức mới mẻ để trở thành người loan báo Tin Mừng trong thế giới hiện đại. Sự trợ giúp tức thời để đáp ứng những nhu cầu của người nghèo không được ngăn cản trở nên sáng suốt để thể hiện những dấu chỉ mới của tình yêu và của đức ái Kitô giáo, như là câu trả lời cho những sự nghèo khổ mới mà nhân loại ngày nay đang trải qua.

Tôi hy vọng rằng Ngày thế giới người nghèo, được cử hành lần thứ V, sẽ có thể càng ngày càng bén rễ vào tâm hồn các Giáo hội địa phương của chúng ta và khơi dậy một chuyển động loan báo Tin Mừng, trước tiên gặp gỡ người nghèo ở nơi đâu họ được tìm thấy. Chúng ta không thể mong chờ họ gõ cửa chúng ta, điều cấp bách là chúng ta phải đến với họ nơi nhà của họ, nơi các bệnh viện và các nhà chăm sóc, trên các đường phố và nơi những góc tối tăm mà họ đôi khi ẩn náy, nơi các trung tâm tỵ nạn và đón tiếp…Điều quan trọng là hiểu những gì họ cảm thấy, những gì họ đang trải qua và đâu là những ước ao trong tâm hồn của họ. Hãy biến thành của chúng ta những lời cấp bách của Don Primo Mazzolari : « Tôi xin các bạn đừng hỏi tôi có người nghèo không, họ là ai và bao nhiêu người, bởi vì tôi sợ rằng những câu hỏi như thế biểu lộ sự sơ suất hay cái cớ để xa rời với chỉ dẫn rõ ràng của lương tâm và trái tim. […] Tôi đã không bao giờ đếm họ, những người nghèo, vì chúng ta không thể đếm họ : phải ôm lấy người nghèo, chứ không đếm họ » (Adesso n. 7, 15/4/1949). Người nghèo ở giữa chúng ta. Thật là Tin Mừng dường nào nếu chúng ta có thể nói trong tất cả sự thật : chúng ta nghèo khổ, chúng ta cũng thế, và chỉ bằng cách này mà chúng ta mới thành công trong việc nhìn nhận họ thực sự và làm cho họ trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta và trở thành dụng cụ cứu độ.

Ban hành tại Rôma, Đền thờ Thánh Gioan Latêranô, ngày 13/6/2021, lễ nhớ thánh Antôn Pađua.

Phanxicô Giáo Hoàng

Lm. Võ Xuân Tiến chuyển ngữ