Giáo Lý Hôn Nhân-結婚講座(教理)

Giáo Lý Hôn Nhân – Tài Liệu Tham Khảo

Trích: giaophanthanhhoa.net

LỜI NÓI ĐẦU

Ngày nay, việc nâng cấp giáo lý cho giáo dân là một việc cần thiết, nhất là cho các đôi tân hôn. Tuy sách giáo lý hôn nhân đã có nhiều, mỗi tập nói về một khía cạnh của tình yêu đôi bạn, của đời sông hôn nhân, chúng tôi cũng xin góp một phần về khía cạnh thần học luân lý để các giáo lý viên có thêm tài liệu giúp các bạn trẻ bước vào đời sống hôn nhân. Tất nhiên không thể đầy đủ như một sách giáo khoa. Mong các giáo lý viên thông cảm cho những thiếu sót của chúng tôi. Và rất mong được sự đóng góp của mọi người thiện chí. Chúng tôi rất chân thành cảm ơn.
ĐỨC NAM

BÀI 1. HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Và Thiên Chúa phán : “Ta hãy làm ra con người theo hình ảnh Ta, như họa ảnh của Ta. Chúng hãy trị trên cá biển và chim trời, và trên súc vật và mọi loài mãnh thú và mọi thứ côn trùng nhung nhúc trên đất”. Và Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh mình. Theo hình ảnh của Thiên Chúa, Người đã dựng nên nó. Là nam là nữ, Người đã dựng nên chúng. Và Thiên Chúa đã chúc lành cho chúng và Thiên Chúa đã phán bảo chúng : Hãy sinh sôi nẩy nở và hãy nên đầy dẫy trên mặt đất và hãy làm chủ nó ! Hãy trị trên cá biển và chim trời và mọi loài sinh vật nhung nhúc trên đất. Và Thiên Chúa đã phán : “Này Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ sinh hạt giống có trên cả mặt đất, và mọi thứ cây có quả sinh hạt giống, chúng sẽ làm của ăn cho các ngươi”. (St 1, 26-29).
1. Hôn nhân là gì ?
– Là một giao ước giữa một người nam và một người nữ, làm thành một cộng đoàn cho cả cuộc đời ; tự bản chất nó hướng tới lợi ích của những người phối ngẫu cũng như hướng tới việc sinh sản và giáo dục con cái. Giao ước này đã được Chúa Kitô nâng lên hàng bí tích giữa những người đã lĩnh nhận phép rửa tội.
– Nói cách khác : Đó là một cộng đồng yêu thương của hai kẻ xa lạ, hai kẻ vốn được Thiên Chúa tạo nên với hình thể và bản tính hoàn toàn khác nhau, và được nối kết với nhau chỉ bằng một tình yêu, để cùng gắn bó với nhau trong cuộc sống, trong một trách nhiệm cao cả là cộng tác với Thiên Chúa trong việc truyền sinh, sáng tạo nên con người, để góp phần xây dựng thế giới ngày thêm tốt đẹp.
2. Tình yêu trong hôn nhân có
phải là thánh thiện không ?
– Tình yêu nói chung và riêng về tình yêu hôn nhân, nếu được hiểu một cách chắc chắn và bền vững thì đó là một sự thánh thiện. Bởi vì Đấng Tạo hóa đã thành lập và ban những định luật riêng cho đời sống chung, nhất là trong đời sống tình yêu vợ chồng. Đời sống chung này được gầy dựng do giao ước hôn nhân, nghĩa là ưng thuận cá nhân không thể rút lui được. Như thế, bởi một hành vi nhân linh (có tự do, có hiểu biết), trong đó hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau, nhờ sự an bài của Thiên Chúa, phát sinh một định chế vững chắc có giá trị trước mặt xã hội nữa. Vì lợi ích của vợ chồng, của con cái và của xã hội nên sợi dây liên kết thánh thiện này không lệ thuộc sở thích của con người.
Hơn nữa, chính Thiên Chúa là Đấng tác tạo hôn nhân, phú bẩm những lợi ích và mục tiêu khác nhau, cho nên tình yêu đích thực của hôn nhân là một sự thánh thiện thực sự.
3. Như thế hôn nhân có phải
là một ơn gọi không ?
Như chúng ta đã thấy, sau khi tạo dựng vũ trụ và vạn vật, Thiên Chúa đã sáng tạo một hữu thể tốt đẹpcao cả nhất mang hình ảnh của Người, đó là dấu ấn của tình yêu thương. Khi đặt con người làm chủ vạn vật, đồng thời Thiên Chúa cũng trao cho con người được quyền và có trách nhiệm duy trì sự hiện hữu của nòi giống mình, hầu đảm bảo vai trò cai quản muôn loài và phụng sự Thiên Chúa bằng sự truyền sinh qua ơn gọi hôn nhân. Khi dựng nên A-đam, Thiên Chúa đã gieo vào lòng ông một cảm nhận cô đơn, một nhu cầu có người chia sẻ, cảm thông với mình. Từ đó Thiên Chúa đã trao tặng ông một món quà quý giá theo nguyện ước của ông : một người vợ để thành lập một gia đình, sinh sản con cái ngày càng nhiều đến nỗi lan tràn khắp mặt đất, và Người đã dùng tình yêu để liên kết hai người nam nữ vào cùng một trọng trách ấy.
4. Đâu là dấu hiệu của ơn gọi ?
– Ban đầu : Từ khi cất tiếng khóc chào đời, suốt tuổi thơ ấu cho tới tuổi sắp dậy thì, các cô các cậu đã trải qua một cuộc sống bình yên, ngây thơ, hồn nhiên và hạnh phúc bên cha mẹ, anh chị em, bạn bè, và cuộc sống như vậy là đủ… Nhưng đến một giai đoạn nào đó, cậu thanh niên, cô thiếu nữ bỗng nảy sinh một tâm trạng mới lạ : họ không còn nô đùa bên bạn bè. Gia đình hiện tại (cha mẹ, anh chị em…) không còn đủ hấp dẫn nữa. Đến đây họ cảm thấy như thiếu vắng một cái gì trong cuộc đời họ, nhất là sự thiếu vắng trong tâm hồn. Và rồi họ đi tìm cái thiếu vắng đó, nhưng đây mới chỉ là lứa tuổi (giai đoạn) dậy thì mà thôi.
– Bước hai : Là bước xuất hiện và phát triển ơn gọi hôn nhân. Bỗng một ngày nào đó, cậu thiếu niên, cô thiếu nữ bước qua ngưỡng cửa mười tám, đôi mươi, và đột nhiên bắt đầu muốn yêu và được yêu. Đến đây, cả thể xác và tinh thần đều được phát triển đầy đủ, và rồi sự lựa chọn bạn đời không còn là một chuyện mơ hồ nữa, mà là một việc làm thực sự. Chính ở giai đoạn này, tuổi thanh niên cần được các bậc cha mẹ và những người có trách nhiệm hướng dẫn một cách đúng đắn và đúng hướng.
– Ở họ, tuổi nào thì đôi bạn đi đến hôn nhân là tốt đẹp? Điều đó còn tùy thuộc vào phong tục, tập quán của từng nơi một (người châu Á khác người châu Âu, châu Mỹ…). Nhưng điểm chung nhất, theo các nhà tâm lý hiện nay thì đối với người nữ là tuổi 21. Vì đây là thời kỳ mà người phụ nữ phát triển đến mức trọn hảo, về cả thể xác cũng như tinh thần. Đối với người nam là tuổi 28. Ởí tuổi đó, người đàn ông mới hội đủ sự khôn ngoan chín chắn để làm chồng, làm cha.
– Cuối cùng : Chúng ta nên sống đúng ơn gọi của mình. Đừng nghĩ hôn nhân không có ơn gọi, hay chỉ là một việc làm thuần túy tâm-sinh-lý… Chúng ta nên biết rằng : dù là hôn nhân hay đời tu, cũng đều là ơn gọi vào những nhiệm vụ cao cả là phục vụ Chúa và phục vụ nhân loại, chỉ khác ở cách phục vụ mà thôi.

BÀI 2. BẢN CHẤT CỦA HÔN NHÂN
“Cộng đồng sâu xa của cuộc sống và tình yêu giữa cặp vợ chồng đã được thành lập với những luật lệ riêng của nó bởi Đấng Tạo Hóa. Chính Thiên Chúa là tác giả của cuộc hôn nhân. Ơn gọi của hôn nhân, đã được in sâu vào bản tính của người nam và người nữ, theo như họ đã được tạo thành do bàn tay của Đấng Sáng Tạo. Hôn nhân không phải là cơ chế thuần túy nhân loại, mặc dầu có những biến thái rất nhiều của hôn nhân qua dòng các thế kỷ, trong những nền văn hóa khác nhau, những cơ cấu xã hội khác nhau và những thái độ tinh thần khác nhau. Những sự khác nhau này không làm chúng ta quên những nét chung và trường tồn. Tuy phẩm giá của định chế này không xuất hiện cách rõ ràng như nhau ở khắp mọi nơi, nhưng nơi tất cả các nền văn hóa vẫn có một ý thức nào đó đối với sự cao cả của việc kết hôn, của sự hiệp nhất của hôn nhân. Bởi vì của con người và của xã hội liên kết chặt chẽ với sự phồn vinh của cộng đoàn hôn nhân và gia đình” (GLGHCG, số 1063).
1. Hôn nhân có phải là một việc làm
tự nhiên của con người không ?
Trong thiên nhiên có luật âm dương. Âm dương là hai lực đối lập nhau, nhưng lại thu hút nhau để tạo nên sự hài hòa của vạn vật. Ở mỗi cấp sinh vật cũng có luật âm dương này. Do đó, người nam và người nữ cảm thấy thu hút lẫn nhau, đó là một hiện tượng hết sức bình thường.
Vậy khi con người hiểu được việc hôn nhân và thực hiện việc hôn nhân đúng cách, thì con người sẽ được hưởng một sức mạnh tổng hợp do hai loại “lực”, tự bản chất là khác nhau nhưng trong thực tế lại bổ túc cho nhau.
2. Hôn nhân là một sinh hoạt của con người,
do đó đòi hỏi phải có : lý trí và tự do.
Con người là một động vật có lý trí và do đó có tự do. Nên trong vấn đề hôn nhân đòi hỏi phải sử dụng hai khả năng này.
a) Có lý trí : Trước hết phải biết việc mình làm ; hãy đặt ra các câu hỏi : tại sao ? thế nào ? kết quả ?
Con người nhờ có suy nghĩ, nên biết mình đi tới hôn nhân là vì nhu cầu nội tại (bản thân mình), vì đòi hỏi của xã hội và vì chính lợi ích của bản thân. Con người cũng nhận ra trong hôn nhân có những khó khăn, song bên cạnh đó cũng có một niềm an ủi động viên rất lớn, cụ thể thấy con người mình được duy trì nơi con cháu.
b) Có tự do : Biết lựa chọn theo lý trí. Tự do ở đây không có nghĩa muốn làm gì thì làm, nhưng là làm những điều hợp với lý trí. Chính lý trí và tự do làm cho hôn nhân mang tính chất người và tính chất con cái tự do của Thiên Chúa.
3. Trách nhiệm của xã hội.
Hôn nhân phải là một hành vi mang tính xã hội, vì đây là việc làm của hai con người sống trong xã hội, có đóng góp cho xã hội và cũng có quyền trong xã hội. Do đó việc hôn nhân của hai người quan hệ trực tiếp đến hai nhân vị mà xã hội có bổn phận nâng đỡ và bảo vệ.
4. Trách nhiệm của cha mẹ.
Như chúng ta đã biết, hôn nhân là sự tự nguyện của hai người, chứ không do sự thúc ép bên ngoài. Do đó cha mẹ không có quyền ép buộc con cái. Song cha mẹ cũng phải có trách nhiệm trước mặt Chúa về việc này. Trước hết cha mẹ ohải tôn trọng sự tự do của con cái, nghĩa là biết lắng nghe, thông cảm và tạo điều kiện cho con cái. Nhưng cũng không nên phó mặc, mà phải thận trọng, khôn ngoan để phân tích đúng sai, hơn thiệt. Nhất là những điểm mà cha mẹ không nhất trí, thì cần phải hết sức khôn ngoan mà bàn giải, đến một mức độ nào đó không được thì mới hay.
Đôi bạn cũng vậy, không nên quá mù quáng (đam mê) vì tình yêu, chạy theo ‘mốt’ và nhục dục mà quên mất sự trong sáng và tốt đẹp của tình yêu. Hơn nữa phải khôn ngoan và thận trọng biết lắng nghe lời khuyên bảo của cha mẹ và kẻ khôn ngoan. Không thiếu những tình yêu đã đổ vỡ vì thiếu sự khôn ngoan trên đây.
Một việc nữa không thể thiếu, đó là sự cầu nguyện để tìm ơn Chúa. Đây là việc làm phải được tiếp tục trong đời sống đôi bạn sau này.

BÀI 3. THÀNH LẬP HÔN NHÂN
Yavê Thiên Chúa đã phán : “Không tốt, nếu con người chỉ có một mình. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó”. Và Yavê Thiên Chúa đã nắn ra từ đất đai mọi thứ dã thú và mọi giống chim trời và Người dẫn đến cho con người để xem nó gọi làm sao. Và mọi mạng sống hễ người gọi sao thì tên là vậy. Và người đã đặt tên cho mọi thú vật và chim trời cùng mọi dã thú. Nhưng phần con người, nó vẫn không gặp được vật trợ giúp tương xứng. Và Yavê Thiên Chúa đã giáng xuống trên con người một giấc tê mê, và nó đã ngủ thiếp đi. Và Thiên Chúa đã rút lấy một xương sườn của nó, đoạn lấp thịt vào. Và trên sườn đã rút tự con người, Yavê Thiên Chúa đã xây thành người đàn bà. Đoạn Người dẫn đến với con người. Và nó đã nói : “Phen này nàng là xương tự xương tôi, thịt tự thịt tôi. Nàng sẽ đổi danh là ‘đàn bà’ vì đã được rút tự ‘đàn ông’. Bởi thế mà đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và khăng khít với vợ mình và chúng sẽ nên một thân xác. (St 2, 18-24).
1. Ai đã thành lập hôn nhân ?
a) Qua đoạn sách Sáng thế trên (Cựu Ước), chúng ta thấy rõ ràng : chính Thiên Chúa đã tạo dựng con người có nam có nữ và cho hai người một cuộc sống chung. Đó là sự kết hợp đầu tiên giữa nam và nữ và Chúa cho sự kết hợp ấy một ý nghĩa : hôn nhân do ý Thiên Chúa. Sáng thế đoạn 1 câu 28 còn nói rõ mục đích của sự kết hợp : “Người dựng nên họ có nam có nữ và Thiên Chúa chúc lành cho họ và phán : Hãy sinh sôi nẩy nở cho nhiều trên mặt đất và thống trị mặt đất”. Như thế là chính Thiên Chúa đã thiết lập hôn nhân và đặt hôn nhân vào luật tự nhiên. Nếu tách rời việc kết hợp nam và nữ khỏi ý của Thiên Chúa, sẽ dẫn đến suy thoái về phẩm giá con người và suy thoái về tình yêu.
b) Phúc Âm thánh Gioan (Tân Ước) kể việc Chúa Giê-su đi dự tiệc cưới ở Cana : “Ngày thứ ba có tiệc cưới tại Cana miền Galilêa. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su, Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự” (Ga 2, 1-2), chứng tỏ Chúa Giê-su coi trọng hôn nhân.
Hơn nữa, cách đối xử dịu dàng âu yếm với trẻ em, việc Chúa lấy tinh thần sống con trẻ làm điều kiện để được vào nước trời làm chứng rằng Chúa Giê-su quý trọng gia đình.
Chúa Giê-su còn đề cao phẩm giá của người phụ nữ. Người đã đối thoại với một phụ nữ xứ Samaria bên giếng Giacob. Việc nầy làm các môn đệ khó chịu, vì họ còn mang nặng thành kiến về phụ nữ, coi phụ nữ như một hạng người thấp kém. Chúa Giê-su không nghĩ thế, đối với Người, phụ nữ cũng là con người mà Người yêu thương và Người đến để cứu vớt. Trước mắt Người, mỗi người đều mang phẩm giá con Thiên Chúa.
Hơn nữa, chính Người là Ngôi Hai Thiên Chúa làm người, đã chọn đời sống gia đình để thực hiện sứ mạng cứu chuộc. Ở đó Người đã chọn Đức Maria làm Mẹ sinh ra mình.
2. Các Tông Đồ và Giáo Hội
cũng đề cao bậc hôn nhân.
a) Trong thư I Corinthô, thánh Phaolô cho biết mọi người đều có quyền kết hôn : nếu ai nghĩ rằng không thể giữ mình mà phải kết bạn, thì họ hãy làm như ý muốn, họ không hề phạm tội. Họ hãy cưới vợ (ý Cr 1, 36).
Đời sống hôn nhân là một đời sống chính đáng và cao quý chứ không phải tầm thường và đáng khinh rẻ.
b) Lịch sử Giáo Hội cũng làm chứng Giáo Hội luôn luôn đề cao phẩm giá hôn nhân và gia đình. Giáo Hội luôn luôn đấu tranh để bảo vệ nền tảng luân lý của đời sống gia đình.
Qua thư chung gửi các gia đình nhân năm quốc tế gia đình 1994, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết như sau : “Giáo Hội có vô số đường đi. Gia đình là đường đầu tiên và quan trọng nhất. Đây là một con đường công cộng, nhưng vẫn là đường riêng tư, tuyệt đối độc nhất cũng như mỗi con người là độc nhất. Một con đường mà đã là người, thì không ai có thể xa rời nó… Giáo Hội nghiêng xuống với sự quan tâm wu ái trên những ai sống trong một tình cảm như vậy, vì Giáo Hội biết rõ vai trò cơ bản mà gia đình được gọi chu toàn. Ngoài ra, Giáo Hội biết rằng bình thường thì con người rời bỏ gia đình mình để đến lượt mình thực hiện ơn gọi riêng trong một hạt nhân gia đình mới” (Thư chung gửi các gia đình, số 2).

BÀI 4. CHÚA GIÊ-SU CẢI TẠO HÔN NHÂN
“Những người Pharisiêu đến gần Chúa Giê-su để thử Người. Họ nói : “Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không ?”. Người đáp : “Các ông không đọc thấy điều này sao : thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán : “Vì thế người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”. Như vậy họ không còn là hai, nhưng chỉ là mọt xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19, 3-6).
Như thế ngay từ đầu, chính Thiên Chúa là Đấng thiết lập hôn nhân. Nhưng vì con người đã lạm dụng và đi quá xa, nên Chúa Giê-su đã phải cải tạo lại hôn nhân.
1. Dựa vào đâu để nói rằng do tội
lỗi mà hôn nhân bị lạm dụng ?
Theo đức tin, những sự lộn xộn đau lòng này không do bản tính người nam và người nữ, cũng không do bản chất những quan hệ của hai người với nhau, nhưng do tội. Tội là sự đoạn tuyệt với Thiên Chúa, tội nguyên thủy của con người đã có hậu quả số một là sự cắt đứt mối hiệp thông nguyên thủy giữa người nam và người nữ. Các quan hệ giữa hai người bị bẻ cong bởi những lời trách móc lẫn nhau ; vẻ quyến rũ nhau, hồng ân của Đấng Sáng tạo, đã biến thành những quan hệ của sự thống trị và của nhục dục, và ơn gọi tốt lành của cặp nam nữ là sinh nhiều con cái, tăng thêm nhân số, và thống trị trái đất đã phải gánh chịu những cực nhọc của việc sinh nở và của kế sinh nhai.
2. Chúa Giê-su đã làm gì để cải tạo hôn nhân ?
Trong khi giảng dạy, Chúa Giê-su đã nói một cách rõ ràng về ý nghĩa nguyên thủy của sự phối hợp giữa người nam và người nữ, đúng như Đấng Tạo hóa đã muốn từ lúc đầu.
Các biệt phái đã nại đến việc tại sao Maisen cho phép ly dị, Chúa Giê-su đã trả lời một cách dứt khoát : Đây là một việc nhân nhượng đối với sự cứng lòng của con người. Nhưng ngay từ đầu, sự phối hợp hôn nhân giữa người nam và người nữ thì không thể tháo cởi được vì “điều gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”.
3. Với lời tuyên bố của Chúa Giê-su, sự bất khả phân ly đã trở thành luật phải không ?
Với tư cách là vị Thiên Sai, Chúa Giê-su xuống lập đạo mới. Đạo mới hoàn hảo hơn đạo cũ. Hơn nữa sứ mạng của Chúa Giê-su là nhằm đem lại hạnh phúc cho con người. Chính Chúa Giê-su cũng đã tuyên bố : Người xuống để kiện toàn lề luật chứ không để bãi bỏ luật (Mt 5, 17-19).
Do đó, nhờ có luật này (vĩnh hôn) mà con người mới được sống hạnh phúc thật trong gia đình, để gia đình trở nên nhân chứng cho Thiên Chúa ở giữa đời. Luật đó tồn tại mãi và không hề thay đổi.

BÀI 5. NHỮNG ĐIỀU PHẢI CÓ
ĐỂ ĐI ĐẾN HÔN NHÂN
Trên giường suốt cả đêm dài, tôi kiếm người tôi yêu dấu. Tôi kiếm chàng nhưng không gặp. Thôi ! Chỗi dậy nào ! Ta phải rảo quanh thành, ngõ hẻm với các quảng trường. Tôi phải kiếm cho ra người yêu dấu của lòng tôi… Tôi đi kiếm chàng nhưng không gặp. Quân canh gặp tôi, họ đi tuần thành. “Các ông có thấy người tôi yêu dấu ?”. Vừa đi qua họ một quãng, tôi đã gặp người tôi yêu dấu (Dc 3, 1-19).
Hôn nhân là một việc làm hết sức hệ trọng, không chỉ một ngày, một tháng, một năm…, nhưng là suốt cả cuộc đời của cả hai người. Để có được hạnh phúc và một cuộc sống gia đình tốt đẹp thực sự, hai người cần phải suy nghĩ, tìm hiểu rồi mới đi đến quyết định.
1. Trước khi đi đến quyết định, cần phải :
a) Trước hết là sự hiểu biết : người hướng tới hôn nhân phải biết việc mình sắp làm, nghĩa là phải có trí khôn lành mạnh, không bệnh tật, điên loạn, để hiểu rõ mục đích, hậu quả của đời sống hôn nhân. Biết rõ về người mình yêu không bị lừa gạt. Biết rõ các đòi hỏi của hôn nhân Kitô giáo : độc hôn, vĩnh hôn, đón nhận can cái.
b) Phải có ý muốn tự do : Tự do để đi đến quyết định kết hôn hay không kết hôn mà không bị một sức mạnh nào thúc ép. Tự do để chấp nhận những đòi hỏi của hôn nhân Kitô giáo mà không đặt điều kiện trái ngược.
c) Phải có khả năng hành động : Có khả năng quyết định tiến tới hôn nhân bằng lời công bố công khai. Có khả năng thực hiện điều mình cam kết : yêu nhau, sống chung, sinh sản và giáo dục con cái.
2. Những điều nên và cần biết
a) Thời kỳ chuẩn bị : Hay còn gọi là tiền hôn nhân. Đây là một sự chuẩn bị lâu dài, có thể là ở vào nhiều năm trước. Đôi bạn thanh niên nam nữ cần phải hiểu biết thế nào là tình yêu, thế nào là đời sống hôn nhân thành đạt, thế nào là sự trung tín của tình yêu.
Theo luật chung, sáu tháng trước khi thành hôn, đôi bạn phải thông báo ý định kết hôn cho cha xứ. Vì chính ngài có trách nhiệm điều tra để có thể khám phá ra những ngăn trở làm hôn nhân không thành. Sau đó ngài còn phải lo liệu cho đôi bạn có thời giờ học hỏi giáo lý.
b) Học hỏi giáo lý : Mỗi Kitô hữu đều phải học hỏi giáo lý Công giáo. Riêng với đôi bạn sắp thành hôn cần phải học hỏi giáo lý hôn nhân, tức là những điểm liên quan đến bí tích hôn phối, đời sống đôi bạn trong gia đình, nhiệm vụ làm cha mẹ, v.v..
c) Cầu nguyện và bàn hỏi : Hai người cần phải cầu nguyện nhiều để biết rõ ý Chúa, và được ơn soi sáng hầu tránh được những lầm lỡ đáng tiếc.
Ngoài ra cũng cần bàn hỏi cha giải tội, hoặc có thể tìm đến người khôn ngoan và hãy biết lắng nghe ý kiến của các ngài. Sách Khôn ngoan dạy : “Cha mẹ có thể xây nhà, cho tiền bạc, nhưng chính Chúa ban cho người vợ khôn ngoan, thận trọng”.
3. Nên tránh :
Không nên kết hôn với người khác đạo, với người không có đức tin, với người kém phong hóa.
Thói đời thường chú ý đến tuổi tác, kinh tế, văn hóa, tài năng, sắc đẹp. “Trai ham sắc, gái ham tài”. Nhưng trước hết cần chú ý đến nhân đức là kho tàng quý báu hơn cả. Sau đó là các đức tính đóng vai trò quan trọng trong đời sống và thế giá của gia đình.
4. Chuẩn bị chính bản thân
Vì người bạn đường, vì tương lai của gia đình và con cái, mỗi bên phải biết rèn luyện lòng đạo đức, sống nhân cách, trau dồi kiến thức, nhất là về phương cách giáo dục con cái để sau này có thể trở thành người cha người mẹ tốt.
5. Chuẩn bị gần cho việc kết hôn
Vì hôn phối là bí tích kẻ sống, nên phải lĩnh nhận với một linh hồn trong sạch : từ tư tưởng, lời nói, đến việc làm. Biết bao cuộc hôn nhân đã trở nên bất hạnh vì trước lễ cưới đã không chuẩn bị chu đáo để thật lòng sám hối tội lỗi, dốc lòng chừa cải, thiếu tâm hồn trong sạch xứng đáng. Vì vậy, một cách nào đó, lĩnh bí tích là lĩnh án phạt của Thiên Chúa.
Rồi nữa, những tập quán xấu nhiễm phải lúc thanh xuân cần sửa chữa và từ bỏ, nếu không sẽ là mầm đọc hại cho con cái sau này.
BÀI 6. MỤC ĐÍCH CỦA HÔN NHÂN
Hôn nhân và tình yêu vợ chồng tự bản tính quy hướng về sự sinh sản và giáo dục con cái. Con cái là một ơn huệ cao quý nhất của hôn nhân và là sự đóng góp lớn lao kiến tạo hạnh phúc của cha mẹ… Chính Người (Thiên Chúa) muốn thông ban cho con người cộng tác một phần đặc biệt vào công việc tạo dựng của Người ; Người đã chúc lành cho người nam và người nữ rồi nói : “Các ngươi hãy tăng gia, sinh sản”. Do đó, việc thể hiện đích thực tình yêu vợ chồng cũng như toàn thể tổ chức đời sống gia đình phát sinh từ việc thể hiện ấy, đều nhằm giúp đôi vợ chồng can đảm sẵn sàng cộng tác với tình yêu của Đấng Tạo hóa và Cứu Thế, mặc dù không loại bỏ các mục đích khác của hôn nhân. Nhờ đời sống lứa đôi, Người làm cho gia đình ngày càng bành trướng và phong phú hơn (HN & GĐ số 50).
Qua đoạn trích dẫn trên, chúng ta thấy được 3 mục đích của hôn nhân như sau :
1o) Để sinh dưỡng con cái.
2o) Để nâng đỡ nhau trong cuộc sống đầy thử thách.
3o) Để có sẵn phương thế tự nhiên và chính đáng mà giảm bớt tính dục con người cho khỏi sa vào đường trụy lạc.
1. Chúng ta dựa vào đâu để nói được rằng mục
đích của hôn nhân là để sinh dưỡng con cái ?
a) Sách Sáng thế (1, 26-29) cho chúng ta thấy đầu tiên Thiên Chúa dựng nên một người nam và một người nữ. Chính Thiên Chúa đã thông ban trực tiếp : “Hãy sinh sôi nẩy nở và hãy sống tràn đầy mặt đất”.
Ở đây chúng ta không nên hiểu theo nghĩa đen một cách hoàn toàn. Song ý nghĩa về mục đích của đoạn sách muốn thông truyền là nhằm gia tăng và bảo toàn nòi giống. Ngoài ra đi xa hơn còn nhằm chống lại sự lạm dụng chỉ vì mục đích thỏa mãn xác thịt mà thôi.
b) Theo Công đồng Vatican II, tự bản chất, định chế hôn nhân và tình yêu lứa đôi hướng về việc sinh sản và giáo dục con cái như chóp đỉnh hoàn thành hôn nhân (MV, số 48).
c) Thánh Tôma tiến sỹ nói : “Loài người phải duy trì nòi giống và phát triển, việc giao hợp nam nữ là việc tự nhiên, nhằm lưu truyền nòi giống. Ngoài việc sinh sản còn phải giáo dục con cái, mà giáo dục thì cần có đóng góp chung của cha mẹ. Vì vậy, họ phải kết hợp với nhau bởi khế ước đã cam kết với nhau”.
d) Còn ĐGH Piô XI thì nói : “Sự sinh con là điều cốt yếu hơn hết trong các công hiệu tốt đẹp của hôn nhân”.
2. Tại sao nói hôn nhân là nhằm để nâng
đỡ nhau trong cuộc sống đầy thử thách ?
Đây là một vấn đề hết sức tự nhiên, vì tự bản chất người nam và người nữ Chúa dựng nên là để bổ túc cho nhau. “Ngay từ đầu, Thiên Chúa phán : con người ở một mình không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng…” (St 2, 18).
Hơn nữa, hôn nhân không phải để nhằm thỏa mãn nhục dục, nhưng nhắm xa hơn là thỏa mãn những nhu cầu tâm-sinh-lý : nhu cầu hiến thân, nhu cầu được âu yếm, nhu cầu được kế tục trong con cái.
Nhìn cao hơn nữa là : hôn nhân và gia đình là bậc sống thành thiện, được Chúa Giê-su ban dồi dào ơn phúc. Có Chúa ở cùng, họ được nâng đỡ để mãi mãi trung thành với nhau bằng sự tự hiến cho nhau ; họ được dẫn dắt cách hữu hiệu đến cùng Thiên Chúa, được sức mạnh làm tròn bổn phận gia đình.
Chính Công đồng cũng dạy : “Vợ chồng được tạo thành giống hình ảnh Thiên Chúa, và được an định trong cấp bậc của các nhân vị, hãy kết hợp trong tình tương thân tương ái, đồng tâm hiệp ý và thánh hóa lẫn nhau, để trong khi theo Chúa Kitô là nguyên lý sự sống, giữa những nỗi vui và hy sinh của ơn gọi và qua tình yêu chung thủy, họ trở nên nhân chứng của mầu nhiệm tình thương mà Chúa đã tỏ ra cho thế giới qua sự chết và sự sống lại của Người” (Hôn nhân, số 51).
3. Có thực hôn nhân giúp cho đôi bạn
có sẵn phương thế tự nhiên và chính
đáng để giảm bớt tính dục không ?
Tình yêu hôn nhân không phải là một điều tội lỗi hay xấu xa. Thực chất hôn nhân là một việc làm hết sức cao đẹp và có ý nghĩa. Trước hết nó giúp con người thăng tiến không chỉ về mặt thể xác nhưng lớn lên cả về mặt tinh thần nữa. Vì hôn nhân là một định chế của Thiên Chúa.
Giáo huấn của Giáo Hội giúp chúng ta hiểu thêm về điều cao trọng này : “Lời Chúa đã nhiều lần mời gọi những người sắp kết hôn hãy nuôi dưỡng thời kỳ đính hôn bằng một tình yêu trong sạch, và những người đã thành vợ chồng hãy nâng đỡ cuộc sống lứa đôi bằng một tình yêu không chia cắt. Tình yêu này tạo nên hạnh phúc gia đình, bảo đảm sự chung thủy và là động lực đưa đến sinh sản con cái” (Tình nghĩa vợ chồng, số 49).
Chúng ta cũng nên nhớ lại, hôn nhân là một tình yêu của một con người (nhân vị) đến với một con người. Tình yêu này vượt trên và vượt xa xu hướng thuần túy nhục dục, được thể hiện qua cử chỉ trìu mến, là những cử chỉ cao quý. Thêm vào đó là giúp nhau sống tốt và thăng tiến đời sống hôn nhân, kiềm chế được những ham muốn của xác thịt. Do đó tình yêu này không chấp nhận ngoại tình, chống ly dị và tính ích kỷ.
Kết luận :
Hôn nhân nhằm mục đích phục vụ sự sống. Sự sống vợ chồng bao gồm : sự sống thể xác, sự sống tinh thần, sự sống tôn giáo, nghĩa là sự sống thiêng liêng đời này và đời sau.

BÀI 7. GIÁ TRỊ CỦA HÔN NHÂN
Thiên Chúa đã sáng tạo con người vì tình yêu, thì cũng kêu gọi con người tới tình yêu, một ơn gọi nền tảng và bẩm sinh của mọi con người, vì con người đã được sáng tạo giống hình ảnh của Thiên Chúa, và bản thân Người là Tình Yêu. Thiên Chúa đã tạo thành con người có nam có nữ, nên tình yêu của hai người đối với nhau là hình ảnh của tình yêu tuyệt đối và bất diệt mà Thiên Chúa dành cho con người. Tình yêu này tốt lành, rất tốt lành đối với Đấng Tạo hóa. Và tình yêu này đã được Thiên Chúa chúc phúc để trở nên sai trái và được thực hiện trong công cuộc chung là bảo vệ sáng tạo của Thiên Chúa : “Và Thiên Chúa chúc lành cho họ và bảo họ rằng : hãy sinh sôi nẩy nở và hãy trở nên nhiều, tràn đầy mặt đất và hãy làm chủ trái đất” (GLCG, số 1064).
1. Tại sao nói hôn nhân là một đời sống có giá trị ?
Hẳn thật, đây là một đời sống rất có giá trị, bởi vì chính Thiên Chúa đã thiết lập hôn nhân và truyền cho con người phải sinh sản để giữ lấy tông giống. Và Chúa Giê-su đã nhấc hôn nhân lên hàng bí tích để nhằm thánh hóa đôi bạn và để chúng ta thấy được gía trị siêu nhiên của đời sống gia đình.
2. Vì sao nói được hôn nhân lại nằm trong
chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa ?
Con người được Thiên Chúa tạo dựng có nam có nữ và được kết hợp với nhau nên một, mặc dầu có sự khác biệt nhau về mặt tâm sinh lý và chức năng xã hội, nhưng chính sự khác biệt đó là để bổ túc cho nhau và làm cho sự kết hợp được hài hòa và giúp con người hoàn thiện trách nhiệm của mình. Đó là dự kiến của Chúa quan phòng, và đời sống kết hợp vợ chồng đều nằm trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa.
Một điểm nữa không kém phần quan trọng giúp chúng ta nhìn nhận rõ hơn về hôn nhân trong chương trình cứu độ : trước khi ông bà sa ngã, đời sống đôi bạn thật đơn sơ, trong sáng. Sau khi phạm tội, hai người mới thấy quan hệ với nhau và với Chúa mất đi cái thế hồn nhiên và hạnh phúc trước kia. Nhưng nhờ việc nhập thể, quan hệ nam nữ tìm lại được trật tự xưa. Từ đây, thân xác và phái tính được giải phóng khỏi tà dục và sa đọa : “Thân xác không phải dành cho dâm dật mà là cho Chúa. Anh em đã được mua chuộc giá cả hẳn hoi. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân mình anh em” (1Cr 16, 13).
3. Giáo Hội nhìn nhận giá trị hôn nhân như thế nào ?
Giáo Hội do Chúa Giê-su thiết lập và được trao cho sứ mệnh thánh hóa mọi người.
Công đồng Vatican II nhận định : Hôn nhân là cộng đoàn thắm thiết của vợ chồng chung sống và chung tình do Tạo hóa thiết lập và định cho những luật riêng. Cộng đoàn đó được gầy dựng do đôi bạn kết ước với nhau, đích thân ưng thuận lấy nhau ; sự ưng thuận này không thể rút lại được. Nhờ thế họ hiến mình cho nhau và đón nhận nhau. Như thế nhờ giao ước hôn nhân nam nữ không còn là hai, nhưng là một xương một thịt.
ĐGH Piô XI cũng đã ban bố một thông điệp về đời sống hôn nhân là “Sự thanh khiết của hôn nhân”. Thông điệp nói lên giá trị và sứ mệnh cao qúy ấy như sau : “Muốn đánh giá đặc ân Thiên Chúa ban cho kẻ ở bậc vợ chồng, chỉ cần biết đến danh phận mục đích của loài người : vì có trí khôn, loài người trổi các vật hữu hình khác. Thiên Chúa dựng nên loài người không phải chỉ để sinh sôi nẩy nở trên mặt đất mà thôi, mà còn để họ nhìn nhận, tôn thờ, kính mến Người ở đời này, và được hưởng hạnh phúc đời sau”.

BÀI 8. ĐẶC TÍNH DUY NHẤT
CỦA HÔN NHÂN
Những người Pharisiêu đến gần Chúa Giê-su để thử Người. Họ nói : “Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không ?” – Người đáp : “Các ông không đọc thấy điều này sao : thuở ban đầu Đấng Tạo hóa đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán : Vì thế người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. (Mt 19, 36).
Với lời tuyên bố của Chúa Giê-su và qua lịch sử của Giáo Hội, giáo lý Công giáo dạy chúng ta : hôn nhân Công giáo gồm hai đặc tính : Duy nhất (đơn hôn) và bất khả phân ly (vĩnh hôn).
Giáo luật điều 1056 nói : những đặc tính căn bản của hôn phối là sự duy nhất và bất khả phân ly. Nhờ tính cách bí tích, những đặc tính được kiện toàn trong hôn phối kitô giáo.
1. Duy nhất là gì ?
Là chỉ có một vợ một chồng, không thể có nhiều vợ hay nhiều chồng.
2. Bất khả phân ly là thế nào ?
Là hai người phải chung thủy với nhau cho đến chết, không được chia lìa nhau để đi lập gia đình khác khi người bạn của mình còn đang sống.
3. Hiểu thế nào về sự duy nhất ?
Duy nhất trong hôn nhân được hiểu là một sự hợp nhất trung tín không thể phân chia. Khế ước hôn nhân đã làm nên một xác thịt chứ không còn là hai. Hai người được mời gọi lớn lên không ngừng trong sự hiệp thông với nhau qua việc trung thành mỗi ngày với lời cam kết hôn nhân và trao hiến trọn vẹn cho nhau. Đó là tình yêu duy nhất không dành cho ai.
4. Hiểu thế nào về bất khả phân ly ?
Đây là việc của hai người tự hiến cho nhau cũng như lợi ích của con cái buộc họ phải hoàn toàn trung tín và đòi hỏi kết hợp với nhau cho đến khi một trong hai chết.
Chính Thiên Chúa cũng muốn như vậy và Người ban ơn này như kết quả, dấu chỉ và đòi hỏi của tình yêu tuyệt đối trung thành mà Thiên Chúa có đối với con người và tình yêu Chúa Giê-su tỏ ra với Hội Thánh.
Một điểm nổi bật đối với đôi bạn kitô hữu : ơn bí tích là một ơn gọi, đồng thời là một lệnh truyền phải trung thành mãi mãi bất chấp các thử thách và khó khăn. Với một lòng quảng đại tuân theo ý Chúa : “Điều Thiên Chúa phối hợp loài người không được phân ly”, đôi bạn phải làm chứng cho lời cam kết của mình ; hơn nữa nhằm làm chứng cho giáo lý của Giáo Hội và đề cao điểm sáng của giáo lý Công giáo cho thế giới hôm nay.
5. Nghĩ sao về vấn đề ly dị trong thời đại hôm nay ?
Quả thực, ly dị đang là một vấn đề thời sự nóng bỏng trên khắp toàn cầu cũng như ở Việt Nam. Ly dị đang dần dần và hầu như đã trở thành phổ biến, vì người ta cứ nghĩ rằng “cơm chẳng lành canh chẳng ngọt” thì đôi bạn chia tay là hơn.
Trái lại, giáo lý và đức tin dạy ta : ngay từ đầu, Thiên Chúa đã thánh hiến lời giao ước giữa người nam và người nữ. Chúa Giê-su một lần nữa cho ta thấy nội dung chuẩn tắc của một sự kiện có từ đầu và mãi mãi duy trì bản chất của nội dung đó. Sở dĩ Thầy Chí Thánh xác nhận nó lúc này, là để minh định một cách sáng tỏ trước ngưỡng cửa của giao ước mới, tính chất bất khả phân ly của hôn nhân, như là nền tảng của lợi ích gia đình.
6. Ly hôn sẽ mang lại những tai hại nào cho gia đình ?
Tai hại đầu tiên là làm đổ vỡ hạnh phúc gia đình : vợ, chồng, con cái bị ly tán. Sự ly tán này không những chỉ gây nên sự suy sụp về vật chất mà còn kéo theo sự suy sụp về tinh thần, thêm vào đó là đời sống đức tin bị lung lay.
Tai hại thứ hai là danh phận của người phụ nữ bị khinh rẻ. Trong cuộc sống gia đình, một mặt, người vợ sống phó thác toàn thân cho chồng, không chỉ để sinh dưỡng con cái mà còn để nương tựa chồng, một mặt vợ là người bạn đời của chồng nên họ có quyền yêu chồng và được chồng yêu lại suốt đời. Để người vợ khỏi bị bỏ rơi lâm vào thế cùng của cuộc sống, người chồng không những thực sự là chỗ dựa, để nâng đỡ mà còn đảm bảo danh dự cho người vợ.
Tai hại thứ ba : ly hôn là một tệ nạn của xã hội do tính ích kỷ và bệnh trụy lạc của con người gây ra.
ĐGH Lêô XIII đã nói : “Không ai nói hết những tai hại do tật ly hôn đem lại cho xã hội : hôn ước bị bỏ rơi, tình yêu cạn tắt, tín nghĩa phai lạt, gia đình tan vỡ, họ hàng bất thuận, danh phận người phụ nữ sa sút. Không gì có sức phá đổ gia đình, tiêu hủy xã hội bằng những đồi phong bại tục. Tật ly hôn là con đẻ của sự suy đồi luân lý, nó xô đẩy bao người sa hố trụy lạc trong đời sống công và tư. Tật ly hôn là kẻ thù số một của hạnh phúc gia đình, của thịnh vượng xã hội”.
7. Nghĩ thế nào về vấn đề ly thân ?
Ly thân chỉ cho phépvợ chồng sống riêng rẽ, nhưng không được tái hôn, xét vì họ còn bị ràng buộc bởi dây hôn phối.
Được phép ly thân vì những lý do sau đây, nhưng phải có sự chấp thuận của Bản quyền sở tại :
+ Vì đời sống chung quá nặng nề, nguy hiểm cho phần rỗi cả đôi bên kể cả về đời sống phần xác nữa.
+ Nhưng ly thân chứ không được ly hôn, nghĩa là dây hôn phối vẫn còn, và đôi bên còn có trách nhiệm giáo dục và chu cấp cho con cái.
+ Mỗi bên không được tái giá, nếu khi có điều kiện thì hai bên phải làm hết sức mình để hòa giải với nhau, và người này phải vui lòng đón nhận cũng như tha thứ cho người kia để có thể sống cuộc sống chung.
Vấn đề ly thân rất hữu hạn và hết sức khó khăn. Vậy đây không phải là biện pháp tối ưu mà chỉ là một phương thế tạm thời mà thôi.

BÀI 9. BÍ TÍCH HÔN PHỐI
“Gắn bó với giáo lý của Thánh Kinh, với các truyền thống Tông Đồ (…) và với tâm tình nhất trí của các Giáo phụ”, chúng ta tuyên xưng rằng “tất cả các bí tích của lề luật mới đều đã do Chúa Kitô thiết lập”.
Các lời nói và các hành động của Chúa Giê-su trong quãng đời ẩn dật và trong thừa tác vụ công khai của Người đã có tính chất cứu độ, bởi vì đã thể hiện trước quyền năng của mầu nhiệm Vượt qua của Người. Các lời nói và các hành động đó đã loan báo và đã chuẩn bị cho những gì Người sắp ban cho Giáo Hội khi mọi sự sẽ hoàn tất. Các mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Kitô là những cơ sở của những gì mà từ nay Người sẽ phân phát trong các bí tích, qua các thừa tác viên của Giáo Hội người, bởi vì “những gì hữu hình nơi Chúa Cứu Thế đã được chuyển qua các mầu nhiệm của Người”. (GLCG 1114 & 1115).
1. Bí tích là gì ?
Thiên Chúa thánh hóa nhân loại bằng nhiều cách, nhiều đường lối, nhưng phương thế bình thường và chủ yếu nhất là các bí tích.
Vậy bí tích là những dấu chỉ hữu hiệu (bề ngoài) của ân sủng do Chúa Kitô thiết lập và được trao lại cho Hội Thánh để ban sự sống thần linh cho ta.
2. Chúa Giê-su khi còn sống ở trần gian, Người
đã cử hành các bí tích như thế nào ?
Xưa khi còn ở trần thế, Đức Giêsu dùng cử chỉ, lời nói để phân phát hồng ân cho những ai đến với Người ; Người trừ tà, chữa bệnh tật, tha tội, thở hơi ban Thánh Thần… Các cử chỉ và lời nói đó cụ thể hóa ân sủng vô hình được ban bên trong.
Ngày nay Đức Giêsu vẫn tiếp tục thông ban ân sủng của Người, nhất là ơn cứu chuộc qua những dấu chỉ Người đã lập gọi là bí tích. Chính Đức Giêsu trực tiếp tác động trong các bí tích, linh mục hay thừa tác viên chỉ là trung gian hữu hình.
Giáo Hội Công giáo chấp nhận và chỉ chấp nhận có bảy bí tích : Rửa tội, Thêm sức, Thánh Thể, Sám hối, Xức dầu bệnh nhân, Truyền chức thánh và Hôn phối.
3. Bí tích hôn phối là gì ?
Bí tích hôn phối là một bí tích biến đổi hai người (nam và nữ) nên một với nhau thành vợ chồng.
a) Như thế, câu định nghĩa không cho phép coi lễ cưới ở nhà thờ như một thủ tục cần làm cho xong, hoặc một nghi lễ làm cho đám cưới thêm phần long trọng. Nhưng cử hành bí tích hôn phối phải có nghĩa là đón mời Chúa Giêsu đến trong gia đình anh chị đang thành lập và làm chủ gia đình anh chị. Tổ ấm anh chị từ đó không phải chỉ gồm có vợ chồng và con cái, nhưng còn có Chúa Giêsu. Chính sự có mặt của Chúa Giêsu làm cho các thành viên của gia đình nên con cái Thiên Chúa. Nhờ Người, trong gia đình bé nhỏ này, ngoài sự sống tự nhiên như bao gia đình khác, còn có cả sự sống siêu nhiên nữa.
b) Việc kết hôn của các kitô hữu chỉ có giá trị trước mặt Thiên Chúa, tức là chỉ thực sự là hôn nhân khi được thánh hóa bằng bí tích hôn phối ; nếu không, sự chung sống của hai người, dù được luật pháp dân sự nhìn nhận, vẫn không được kể là vợ chồng hợp luật.
4. Vậy bí tích hôn phối đem lại cho đôi bạn điều gì ?
Bí tích này đem lại cho đôi vợ chồng một ân sủng siêu nhiên, khiến cho mọi cử chỉ âu yếm vợ chồng trao cho nhau, sự nâng đỡ nhau, trao đổi bàn luận với nhau, đem lại sự hiện diện của Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần. Bí tích hôn phối không chỉ kết thúc với lời cam kết. Lời cam kết ấy mới chỉ là phút lên đường của một hành trình, là lời mở đầu của một giòng ân sủng, khởi đầu của cả một cuộc sống mang tính cách bí tích, vừa diễn tả thể hiện tình yêu của Đức Kitô và của Hội Thánh. Tình yêu ấy giữa Đức Kitô và Hội Thánh là khuôn mẫu của vợ chồng kitô hữu.
5. Như vậy hôn nhân tự nhiên không có giá trị sao ?
Không phải thế. Hôn nhân tự nhiên là khế ước nối kết hai người nam nữ để họ yêu thương nâng đỡ nhau trong tình vợ chồng và sinh sản, nuôi dạy con cái trong trách nhiệm làm cha mẹ. Khi hai người ngoài kitô giáo kết bạn với nhau, họ thật sự thành vợ chồng theo luật tự nhiên ; hôn nhân của họ có giá trị trước mặt Thiên Chúa, không ai tháo gỡ được, nhưng không phải là bí tích. Họ được Thiên Chúa ban ơn bình thường để chu toàn trách nhiệm làm vợ chồng, làm cha mẹ ; cuộc sống tố đẹp của họ được Chúa chúc lành, nên vẫn có giá trị trước mặt Thiên Chúa.

BÀI 10. NGHI THỨC CỬ HÀNH
BÍ TÍCH HÔN PHỐI
“Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thánh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô. Không còn chuyện phân biệt người Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà…” (Gl 3, 26-28).
Vào những thời kỳ đầu của Giáo Hội, người kitô hữu chưa có một nghi thức kết hôn riêng. Mãi đến thế kỷ IV, mới xuất hiện một nghi thức kết hôn riêng của kitô giáo, và Giáo Hội đã chính thức chấp nhận một số tập tục. Dần dần, theo thời gian, các nghi thức được kiện toàn và trở thành truyền thống.
Sau Công Đồng Vatican II, nghi thức hôn phối được duyệt lại và ban hành vào ngày lễ thánh Giu-se (19-3-1969). Đến 19-3-1990, Bộ Phụng tự cho tái bản nghi thức để thích ứng với nhu cầu mục vụ hiện nay.
1. Nghi lễ hôn phối được diễn tiến như thế nào ?
Việc cử hành hôn lễ trong thánh lễ được khuyến khích đặc biệt, không phải để tăng thêm phần long trọng cho bằng nó mang lại một ý nghĩa cao quý : giúp đôi bạn thấy rõ tầm quan trọng và sự cao quý của bậc hôn nhân. Qua thánh lễ, đôi bạn nhận được mẫu gương của Đức Kitô đối với Hội Thánh qua cái chết của Người. Ngoài ra còn gíup cho những người tham dự nhìn lại cuộc sống của gia đình mình. Từ đó ai nấy vui mừng và cầu nguyện cho đôi bạn cũng như cho chính mình.
Dù cử hành trong hay ngoài thánh lễ, nghi lễ được diễn ra sau phần phụng vụ Lời Chúa.
Để đôi bạn xác nhận với chính mình và với mọi người rằng hành vi của họ là hành vi hoàn toàn nhân linh và trưởng thành, chủ sự sẽ đặt ba câu hỏi : – Sự tự do hoàn toàn ; – Sẵn sàng chấp nhận những bổn phận song phương đối với nhau ; – Trách nhiệm sinh dưỡng con cái theo luật Chúa và Giáo Hội.
Sau khi quả quyết “có”, chủ tế mời đôi bạn bắt tay nhau và nói lên sự ưng thuận kết hôn trước mặt đại diện Hội Thánh, hai chứng nhân và cộng đồng. Đây là một việc làm có tính cách công khai và có giá trị pháp lý.
Sau lời cam kết của đôi bạn, chủ tế tuyên bố : “Xin Thiên Chúa đoái thương xác nhận sự ưng thuận…” và “Sự gì Thiên Chúa liên kết, loài người không được phân ly”. Amen.
Chính lời cam kết công khai của hai người làm thành bí tích hôn phối.
Kế đến là trao kỷ vật : chủ tế sẽ làm phép hai chiếc nhẫn của đôi bạn để hai người trao cho nhau làm kỷ vật của một tình yêu bền vững.
2. Để hôn nhân thành sự phải
có những điều buộc nào ?
Hôn phối là một bí tích, kẻ lĩnh nhận phải có đủ điều kiện theo luật tự nhiên, luật Thiên Chúa và luật Giáo Hội.
Các trường hợp sau đây không được phép thành hôn :
10 Một trong hai người còn bị ràng buộc bởi một cuộc hôn nhân trước (GL 1085).
20 Một trong hai người chưa đến tuổi tối thiểu theo luật chung của Hội Thánh, nam 16 và nữ 14 tuổi trọn. Nhưng giáo luật cũng dạy các Hội đồng Giám mục tùy hoàn cảnh mà ấn định tuổi tối thiểu cao hơn, thường không nên trước tuổi dân luật ấn định.
30 Một trong hai người không được tự do, nghĩa là vì sợ hãi hay bị ép buộc mà kết hôn.
40 Một trong hai người, trước khi kết hôn mắc chứng bất lực không thể chữa trị được, tức là không thể có hoạt động sinh lý một cách bình thường (GL 1084).
50 Kẻ mắc ngăn trở tội ác (GL 1090).
60 Kẻ mắc ngăn trở họ máu trực hệ (không kể mấy cấp), và họ máu bàng hệ cho đến hết bậc thứ bốn (GL 1091).
70 Ngăn trở pháp lý giữa những người thân thuộc do dưỡng hệ đã được pháp luật nhìn nhận, trong trực hệ hay trong cấp thứ hai của bàng hệ (GL 1094).
80 Ngăn trở họ kết bạn (GL 1092).
90 Ngăn trở chức thánh hoặc lời khấn (GL 1087, 1088).
100 Ngăn trở hai tôn giáo khác nhau (GL 1086).
Ngoài ra, nếu thiếu sự cam kết đích thực của một trong hai bên, thì hôn nhân cũng thành vô hiệu, như các trường hợp sau :
a) Không biết hôn nhân là gì (GL 1095,1096).
b) Lấy nhầm người (Gl 1097, §1).
c) Giả vờ cam kết nhưng thực sự là không (Gl 1101,§2).
d) Đặt điều kiện làm hỏng hôn nhân, tức là cam kết với điều kiện không sinh con (Gl 1101,§2).

3. Có những trường hợp nào được
giáo luật miễn chuẩn không ?
Về những ngăn trở do luật Thiên Chúa thì Hội Thánh không được miễn chuẩn gì cả. Còn những ngăn trở do luật Hội Thánh, thì Hội Thánh có quyền miễn chuẩn, và khi được miễn chuẩn thì hôn nhân thành sự, như các trường hợp sau : – về tuổi tối thiểu ; – anh em họ ; – họ kết bạn ; – về tội ác ; – về lời khấn ; – về dị giáo.
4. Có nên kết bạn với những người
không cùng đức tin không ?
Đối với các cuộc hôn nhân khác tôn giáo, Hội Thánh dè dặt thận trọng chỉ vì yêu thương đôi bạn. Muốn hạnh phúc, vợ chồng phải hòa hợp ; tín ngưỡng là một vấn đề thiết thân của con người, nếu có sự khác biệt, thì dễ có sự xung khắc, đe dọa sự hòa hợp. Kinh nghiệm đã cho thấy rất rõ điều đó ; khi những đứa con ra đời còn thêm nhiều vấn đề khó giải quyết. Tuy nhiên cũng vì tôn trọng tự do, Hội Thánh không cấm đoán ; Hội Thánh hy vọng sự đạo đức của bên này sẽ giáo hóa bên kia. Hội Thánh chỉ dè dặt khôn ngoan để đảm bảo hạnh phúc của vợ chồng được trọn vẹn.

BÀI 11. QUYỀN LỢI VÀ
NGHĨA VỤ CỦA VỢ CHỒNG
“Tình yêu phu phụ gồm toàn thể tất cả những thành tố của con người : sự kêu gọi của thần xác và bản năng, sức mạnh của tình cảm và của âu yếm, khát vọng của tinh thần và của ý chí. Tình yêu này nhằm tới một sự hiệp nhất sâu xa của con người, một sự hiệp nhất vượt quá sự kết hiệp thành một xác thịt để dẫn tới chỗ làm cho hai người chỉ còn là một trái tim và một tâm hồn. Tình yêu này đòi hỏi tính bất khả đoạn tiêu và sự trung thành trong việc trao ban dứt khoát cho nhau, và mở ra về hướng sinh đẻ con cái. Đây là những đặc điểm phải có của bất cứ tình yêu phu phụ nào theo tự nhiên, nhưng có thêm một ý nghĩa mới, không những thanh tẩy và củng cố các đặc điểm kia, nhưng còn nâng cao chúng lêb đến mức chúng được coi là biểu hiện của những giá trị kitô giáo đích thực” (GLCG 1643).
1. Quyền lợi và nghĩa vụ của vợ chồng
là song song và song phương.
Hưởng quyền lợi và làm nghĩa vụ là hai việc luôn song song với nhau và phải là song phương đối với hai vợ chồng. Cũng có thể nói hai việc là một, vì trong khi hưởng quyền với bạn thì cũng là làm nghĩa vụ với bạn.
Hạnh phúc gia đình được bảo đảm tốt là do hai vợ chồng biết tôn trọng quyền lợi của nhau và biết trung thành thi hành các nghĩa vụ đối với nhau.
Quyền lợi và nghĩa vụ đó có ba :
10) Hai vợ chồng phải chung sống ;
20) Phải giúp đỡ lẫn nhau ;
30) Có quyền đòi hỏi và có nghĩa vụ đáp trả nợ vợ chồng.
2. Quyền lợi và nghĩa vụ chung sống.
Hai vợ chồng phải được chung sống với nhau ; đó là điều buộc theo lẽ công bằng và bác ái. Do đó giáo luật buộc, khi không có lẽ chính đáng thì vợ chồng không được ở riêng lẻ.
Đời sống chung là phương thế tự nhiên và cần thiết cho vợ chồng sinh dưỡng con cái và thương yêu giúp đỡ nhau. Vì thế cha mẹ không có quyền giữ con ở lại nhà mình trái ý muốn của chúng.
3. Quyền lợi và nghĩa vụ giúp đỡ nhau.
Hai vợ chồng có quyền lợi và có nghĩa vụ yêu thương nhau, giúp đỡ lẫn nhau. Nghĩa vụ này dựa vào lời Chúa phán : “Người nam ở một mình không tốt, Ta hãy dựng nên người nữ giống như nó để giúp đỡ nó”.
Nghĩa vụ này đòi hai bên phải biết chịu đựng khuyết điểm của nhau, phải nâng đỡ những yếu kém của nhau để thúc đẩy nhau tu luyện các đức tính cần thiết của kẻ làm cha mẹ, tức là tu luyện thành người đạo đức gương mẫu.
Lời thánh Phaolô dạy rất rõ ràng : “Chồng phải làm hết bổn phận đối với vợ ; vợ phải làm trọn bổn phận đối với chồng”, chẳng những hiểu theo phép công bằng mà còn theo nghĩa bác ái nữa.
4. Quyền lợi và nghĩa vụ trong việc sinh con cái.
Theo hôn ước, vợ chồng có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau trong việc sinh con cái. Quyền lợi và nghĩa vụ này buộc rất nặng ; nhưng phải hiểu khi nào một bên theo lẽ công bằng mà đòi. Cứ phép công bằng, không bên nào buộc phải đòi việc vợ chồng ; nhưng cũng có khi đức thương yêu buộc đòi để tránh sự sa ngã cho bên kia.
Nghĩa vụ này nhằm hướng dẫn lương tâm người có thiện chí ngay lành trong việc thi hành quyền lợi và nghĩa vụ của vợ chồng một cách đơn sơ, thanh sạch, để đem lại hạnh phúc cho gia đình theo tinh thần Công giáo.

BÀI 12. TRÁCH NHIỆM CỦA CHA MẸ
“…Cả anh em nữa, hãy từ bỏ tất cả những cái đó : nào là giận dữ, nóng nảy, độc ác, nào là thóa mạ, ăn nói thô tục… Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, hiến thánh và yêu thương. Vì thế anh em hãy có lòng thông cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau ; nếu trong anh em, người này có điều gì phải trách móc người kia. Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng phải yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng” (Cl 3, 8-12 ; 13, 18-21).
1. Giá trị con cái trong hôn nhân.
Trước khi cầm tay nhau để nói lên lời cam kết, linh mục hỏi : “Anh chị có sẵn sàng yêu thương đón con cái mà Chúa sẽ ban và giáo dục chúng theo luật Chúa Kitô và Hội Thánh không ?”. Câu hỏi đó nhằm xác nhận lại một trong hai mục tiêu quan trọng nhất của hôn nhân. Tình yêu sáng tạo ấy được cụ thể hóa trong đứa con. Đứa con là kết quả của tình yêu vợ chồng. Nhà văn Saint – Exupéry nói : “Yêu không phải là nhìn nhau, nhưng là cùng nhau nhìn về một hướng”. Hướng ấy là hướng sáng tạo ; không sáng tạo tình yêu sẽ chết.
Khi nói cha mẹ cần đem lại hạnh phúc cho con cái, ta đừng quên rằng chính cha mẹ cũng được hạnh phúc nhờ con cái. Niềm vui sướng tâm hồn mà đứa con đem lại cho cha mẹ thật lớn lao, bởi vì đứa con là tác phẩm (hoa quả) do tình yêu của họ tác thành. Cha mẹ còn được hạnh phúc nơi đứa con vì nó giúp họ đạt được khát vọng của mình. Họ bắt gặp hình ảnh của mình nơi đứa con. Có những cha mẹ đau khổ vì bệnh tật mà làm cho con cái phải đau khổ… Nên khi đứng trước đứa con của mình, anh chị sẽ không nói “nó là con anh” hay “nó là con em”, nhưng “nó là con chúng ta”.
2. Bổn phận của cha mẹ : nuôi dưỡng con cái.
Đối với con cái, cha mẹ có những bổn phận sau đây :
a) Sinh con : Đây là công việc mà vợ chồng phải thực hiện một cách ý thức với tinh thần trách nhiệm. Sự có mặt của con cái sẽ tăng thêm niềm hy vọng cho gia đình, sẽ củng cố tình yêu vợ chồng và làm cho tuổi già bớt khắc nghiệt, bớt cô đơn.
b) Nuôi con : Đã có sinh là phải có dưỡng. Người mẹ phải chăm sóc đứa bé ngay từ trong bào thai bằng cách gìn giữ sức khỏe và nếp sống lành mạnh trong tâm tình và sinh hoạt. Sinh con càng phải chăm sóc cho đến tuổi trưởng thành. Nên tránh tình trạng thuê mướn vú nuôi, vì như thế tình mẫu tử sẽ bị suy giảm.
c) Giáo dục : Cha mẹ phải giáo dục con cái về đức dục và nhất là về đời sống đức tin ; về mặt trí dục, cha mẹ phải lo cho con cái được học hành đầy đủ. Đây là một bổn phận hết sức hệ trọng ; nếu cha mẹ không quan tâm, sau này con cái sẽ phải thiệt thòi rất lớn. Đó là bổn phận chính yếu và là mối băn khoăn mà Giáo Hội muốn gửi gắm nơi các bậc làm cha mẹ. Vì thế, cha mẹ không được phó mặc cho xã hội cũng như cho Giáo Hội.
Tóm lại, cha mẹ phải giáo dục con cái sống nhân bản tóm tắt trong năm chữ : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Về đời sống đức tin, cha mẹ phải hướng dẫn và diễn tả ba nhân đức : tin, cậy, mến.
Khi con cái đã khôn lớn, cha mẹ phải biết hướng dẫn con cái tìm đúng ơn gọi ; trong việc này, cha mẹ không có quyền ép buộc con cái. Ngoài ra phải lo liệu cho con cái có của cải vật chất để xây dựng tương lai cho nó, không nên phó mặc con cái hoặc quá lo lắng đến nỗi con cái chỉ biết ỷ lại vào cha mẹ.

BÀI 13. BỔN PHẬN CỦA CON CÁI
“Hỡi các con, hãy nghe lời cha là cha các con đây
Các con hãy làm sao để được ơn cứu thoát
Vì Chúa đã dạy : các con phải tôn kính cha
Và Người đã định các con phải phục quyền mẹ.
Kẻ tôn kính cha sẽ được tha thứ tội lỗi
Kẻ tôn kính mẹ sẽ chiếm được kho báu
Kẻ tôn kính cha sẽ được phúc lộc nơi con cái.
Và trong khi khẩn nguyện, họ sẽ được nhậm lời.
Kẻ tôn kính cha sẽ được sống lâu
Biết an ủi mẹ là người vâng phục Chúa.
Biết tôn kính cha là người kính sợ Chúa
Và nhìn nhận kẻ sinh thành là chủ để phụng sự.
Con hãy tôn kính cha trong hành động và ngôn từ
Để đời con được hưởng muôn phúc lộc (…)
Hỡi con, hãy nâng đỡ cha con trong tuổi già
Bao lâu còn sống, con đừng làm người phải sầu tủi.
Tinh thần người có sa sút, con hãy khoan dung với người
Con có đương sức cũng đừng khinh dể người.
Vì ơn lành làm cho cha không bao giờ bị quên lãng
Tội lỗi sẽ được đền bù và nhà con sẽ được phồn vinh.
Trong ngày hoạn nạn Chúa sẽ nhớ đến con
Như băng giá tan ra khi trời nóng ấm.
Tội lỗi con cũng sẽ tan biến như vậy
Kẻ từ bỏ cha mình, kể nó là đứa phạm thượng
Kẻ nổi nóng mẹ mình, luôn bị Chúa nguyền rủa.
(Đức huấn ca 3,1-8.12-16).

1. Chữ hiếu.
Gia đình phải là nơi hội đủ các giá trị của con người, vì thế nói đến trách nhiệm của cha mẹ thì không thể bỏ qua bổn phận của con cái. Đừng nên nghĩ rằng lấy được vợ, được chồng là thoát khỏi sự ràng buộc của gia đình, hay nói cách khác, trách nhiệm làm con của mình thế là hết. Nên nhớ rằng muốn làm cha mẹ tốt, trước hết phải biết làm người con tốt đã. Bổn phận người con phải lấy chữ Hiếu làm đầu, cũng gọi là đạo hiếu.
Hiếu là biết kính trọng, thương mến và phụng dưỡng cha mẹ.
* Dù giàu hay nghèo cũng biết dành lưng cơm lành bát canh ngọt để phụng dưỡng cha mẹ. Hoặc ở xa xôi cách biệt thì gửi đồng quà tấm bánh về kính biếu cha mẹ. Nhưng cũng không thiếu kẻ chỉ biết vợ con, không biết cha mẹ là đâu, nên mới có câu rằng :
“Lúc sống thì chẳng cho ăn
Để đến khi chết làm văn tế ruồi”
* Giáo lý Công giáo ở điều răn thứ IV dạy : “Hãy thảo kính cha mẹ”. Đối với người Công giáo, việc phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già không phải chỉ lo cho các ngài có nơi ăn chốn ở ấm cúng, thuốc thang lúc đau ốm, thăm viếng an ủi khi giá lạnh mà thôi, mà còn phải bảo đảm đời sống kitô hữu cho các ngài, giúp các ngài lĩnh nhận các bí tích khi cần thiết. Tóm lại : cả phần xác và phần hồn, đời này và đời sau.
Còn bổn phận người con dâu thì nặng hơn và cũng gặp khó khăn nhiều hơn. Vì thế người con dâu cần biết nhẫn nhục chịu đựng để tránh những va vấp nhỏ nhặt kẻo tai họa xảy ra không lường được. Vậy người chồng phải sáng suốt khôn ngoan trong vấn đề này, để tránh tình trạng thiên lệch (coi vợ quá hay cha mẹ quá) mà phải trung dung để hai bên êm ấm thuận hòa.
2. Tinh thần gia tộc
Con người không những chỉ có cha mẹ sinh ra mình và con cái mình sinh ra, mà còn có ông bà tổ tiên và cháu chắt. Ngoài ra còn có họ hàng tộc thuộc và thân thích nội ngoại nữa. Tuy không chung sống cùng một mái nhà, nhưng tất cả làm thành một đại gia đình. “Nước có nguồn, chim có tổ” là thế.
Người xưa có câu : “Giọt máu đào còn hơn ao nước lã”. Vì thế tình anh em họ hàng là điều rất đáng quý. Cụ Phan Kế Bính viết : “Anh chị em là bát máu xẻ đôi, tình thân thiết hơn mọi người khác. Trong cách ăn ở, phải yêu mến nhau. Mà muốn cho được hòa mục mãi mãi thì phải lấy chữ nhẫn làm đầu, nghĩa là nhường nhịn nhau, dầu có kẻ nói ngang trái cũng nhịn đi, rồi lấy lời khôn lẽ phải mà khuyên bảo nhau thì không bao giờ đến nỗi khích bác nhau, mặt lăng mày vực với nhau, mà trong nhà vẫn được vui vẻ, cha mẹ cũng được thỏa lòng” (VNPT 1.2).
Ngoài ra “anh em dâu rể cũng là anh em!”. Bề nào cũng là người trong quyến thuộc, phải biết lấy chữ ‘nhẫn’ mà đối xử với nhau để tránh hết mọi điều xích mích dè bỉu thật đáng chê ! (Nếp cũ con người Việt Nam, 1970, tr.14).
3. Gia đình trong cõi yêu thương đời đời
Các tôn giáo đều dạy tin vào đời sau, tin vào sự bất tử của linh hồn. Riêng Kitô giáo không những dạy như vậy, mà còn dạy cả thân xác loài người cũng sẽ trở thành bất tử sau ngày chung thẩm. Và sau đó là hạnh phúc tức là sống vĩnh cửu, hoặc là trầm luân tức là chết đời đời. Gia đình anh chị không thể thoát khỏi định luật đó. Vậy hãy nhắm đích cuối cùng là sự sống vĩnh cửu.
Đời sống gia đình không thiếu những điều sóng gió. Nhưng khi chúng ta tin vào tình yêu Thiên Chúa, thì chính tình yêu ấy bảo đảm cho ta và sẽ đưa ta đến chốn an bình. Chúng ta hãy vững tin, vì Đức Kitô đã cùng khởi hành với ta ; chính Người đợi ta ở điểm đến và nâng đỡ ta suốt cuộc hành trình.
Tại điểm hẹn đó, chúng ta sẽ gặp được tất cả mọi người. Tại điểm hẹn đó, vũ trụ do Thiên Chúa tạo thành sẽ được hoàn tất trong Thiên Chúa. Tình yêu hôn nhân và gia đình là công trình của Thiên Chúa Tình Yêu ; tình yêu hôn nhân sẽ được viên mãn trong Tình Yêu Thiên Chúa ; và Cộng Đồng Ba Ngôi Thiên Chúa chí thánh, thành đại gia đình của Chúa Cha, quây quần quanh Đức Giêsu là Anh Cả giữa một đoàn em đông đúc được hợp nhất trong Chúa Thánh Thần.

PHU LUC

1. Tư cách của vợ chồng.
Gia đình là một xã hội nhỏ, vì thế cần có sự chỉ đạo và sự tuân phục. Điều đó nói lên sự cần thiết phải có để gia đình được hạnh phúc là đời sống có quy củ và trật tự. Thế nhưng sự chỉ đạo ở đây phải theo tinh thần bác ái yêu thương chứ không phải là thi hành quyền bính một cách độc đoán.
Muốn thế, cả vợ lẫn chồng phải biết nhẫn nại và hy sinh. Vợ phải vâng phục chồng là đầu, và chồng phải biết nhìn nhận vợ là bạn ngang hàng cùng cộng tác trong mọi công việc. Mỗi người cần biết can đảm hy sinh, biết kiềm chế cá tính riêng của mình. Tự nhiên ai cũng muốn theo ý mình, muốn lựa chọn riêng, muốn quyết định công việc, nhưng phải biết hy sinh để lắng nghe ý bạn và bàn luận cho thống nhất trước khi hành động, không bao giờ được cố chấp bảo thủ. Có như vậy mới tránh được những xung khắc nhau, gây bất hòa và sinh gương xấu cho con cái. Khi công việc không được kết quả tốt đẹp, đừng đổ lỗi cho nhau, mà phải cùng nhau chịu trách nhiệm.
1o Chức năng của người chồng, người cha.
Người nam đầu tiên được Thiên Chúa tạo dựng và đặt làm chủ vạn vật đồng thời làm chủ một gia đình, đó là Ađam. Vì thế, người nam được Chúa ban cho một sức manh của thể xác cũng như của tâm hồn để chu toàn chức năng làm chồng làm cha.
Vậy chồng phải chu toàn bổn phận đối với vợ, phải hết lòng yêu thương âu yếm che chở, vì vợ luôn coi chồng là kẻ bảo vệ mình : “Nghìn tầm núp bóng tùng quân / Tuyết sương che chở cho thân cát đằng”. Người chồng phải biết giữ thể diện, biết làm đẹp và bảo vệ phẩm giá cho vợ ; ngoài ra còn phải biết giúp đỡ vợ trong công việc phụ của gia đình.
Đối với con cái, phải biết chu toàn chức năng làm cha. Trong giáo dục, phải mềm dẻo nhưng cương quyết : không bao giờ được nuông chiều nết xấu con cái ; luôn luôn sống gương mẫu, nhất là về mặt đức tin. Người cha phải biết dạy nghề nghiệp hoặc tạo điều kiện cho con cái học nghề nghiệp và văn hóa đủ theo trình độ và điều kiện. “Con có cha như nhà có nóc” là thế.
2o Chức năng của người vợ, người mẹ.
Trái với bản chất của người nam, người nữ được Thiên Chúa dựng nên có thân hình mảnh dẻ và một tâm tình dịu dàng. Họ sống tình cảm hơn là lý trí. Họ thích giải quyết vụ việc bằng trái tim hơn bằng khối óc. Họ thích được nuông chiều và che chở. Vì thế trong gia đình, người vợ là người biết kiên nhẫn và chịu đựng tinh tế hơn cả. Nếu chồng là rường cột thì vợ là dây thân ái ràng buộc mọi người trong yêu thương hạnh phúc. Người vợ thường có khả năng quản lý, quán xuyến công việc nội trợ và bảo vệ gia đình hơn mọi người.
Với chức năng làm mẹ, người nữ được cộng tác với Thiên Chúa trong việc truyền sinh. Đứa con ra đời được sống trên bàn tay âu yếm của người mẹ nhiều hơn. Vì thế người mẹ phải biết dạy dỗ con từ lúc còn thơ ấu : “Dạy con dạy thuở nên ba”. Đứa con vừa biết bập bẹ, thì người mẹ phải biết mớm vào tâm hồn đứa trẻ những chân lý đời đời. Mẹ của thánh Gioan Don Boscô, mẹ của thánh Tê-rê-xa Hài đồng Giêsu là những tấm gương làm mẹ thật đáng giá.
Người mẹ thường dễ âu yếm vỗ về đứa trẻ, nhưng cũng cần nhớ là đừng bao giờ nuông chiều nó. Đứa trẻ được nuông chiều, khi lớn lên dễ thành khó tính, hay đòi hỏi và khó dạy.
2. Bầu khí thiêng liêng trong gia đình.
Bước chân vào một gia đình Công giáo, người ta phải cảm thấy một bầu khí vui tươi ấm cúng và thánh thiện. Trước hết, sự sạch sẽ ngăn nắp chứng tỏ một gia đình sống có tổ chức, và cũng chứng tỏ tâm hồn mỗi người là trong sáng. Chính bầu khí này giúp mọi thành viên trong gia đình được triển nở tốt đẹp. Ở đó, mọi người sẽ cảm thấy mình được sống trong yêu thương và lớn lên trong tình yêu Chúa.
Tiện nghi đầy đủ là tốt, nhưng không phải là điều cần cho gia đình được ấm cúng và hạnh phúc. Điều cần là mọi người phải cảm thấy có Chúa ngự giữa gia đình mình. Điều làm cho người kitô hữu sống khác với kẻ khác là trong bất cứ hoàn cảnh nào dầu là đen tối nhất, họ vẫn cảm thấy mình hạnh phúc. Muốn thế, mọi người phải biết sống tâm tình tạ ơn. Tạ ơn Chúa khi vui cũng như khi buồn, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan để chứng tỏ lòng mến Chúa.
Đời sống gia đình có tổ chức, việc đạo đức được thực hiện đầy đủ giúp vợ chồng ngày càng thăng tiến về mọi nhân đức và cũng là làm gương sáng cho con cái. Vợ chồng đừng bao giờ có sự bất hòa trước mặt con cái. Điều này rất tai hại, vì làm cho con cái dễ mặc cảm xấu về cha mẹ mình. Đặc biệt cần tránh gương xấu trong lời nói việc làm, nhất là đối với những con cái còn nhỏ dại. Gương xấu sẽ để lại trong tâm hồn trẻ thơ một vết sẹo dễ làm cho con cái nhiễm phải nhiều nết xấu sau này.
3. Sinh đẻ có trách nhiệm.
“Trọng trách lưu truyền sự sống con người, làm cho đôi bạn trở thành những cộng tác viên tự do và hữu trách của Tạo hóa, vốn gây cho chính họ những khoái lạc bao la, và nhiều khi cũng đem theo không ít khó khăn và vất vả.
Chu toàn trọng trách đó, tuy bao giờ cũng đặt ra những vấn nạn khó khăn cho lương tâm đôi bạn, nhưng sự biến hóa mới mẻ của loài người đã gây nhiều thay đổi và nêu ra những vấn đề mới, mà Giáo Hội không thể làm ngơ, vì chúng liên quan mạt thiết đến sự sống và hạnh phúc con người” (SSCN, số 1).
Con cái là một hồng ân Chúa ban. Tình yêu vợ chồng vốn hướng đến việc sinh sản. Đứa con là kết quả của hai người hiến thân cho nhau, là hoa trái và là sự hoàn tất của tình yêu vợ chồng. Tuy nhiên, có con là một trách nhiệm, một gánh nặng cho cha mẹ. Đây là một vấn đề thời sự mà nhiều người quan tâm. Đặc biệt Giáo Hội phải lên tiếng nói rõ đường lối của mình.
1o Tiết dục trong đời sống hôn nhân.
Có con là một đòi hỏi của đời sống hôn nhân. Nhưng từ đầu, hai vợ chồng phải thấy trước khả năng nuôi dạy của mình để quyết định số con cái muốn có. Vì thế tiết dục là cần thiết trong đời sống hôn nhân. Tiết dục không phải là cấm đoán mà là vợ chồng phải biết hy sinh kiềm chế dục tính một cách chính đáng và khoa học.
Trong Hiến Chế mục vụ gia đình số 51, Công Đồng Vatican II nói : “Muốn tổ chức đời sống vợ chồng cho thuận hòa, đôi bạn thường vấp phải một số tình trạng sinh sống khó khăn hiện đại và có thể lâm vào những hoàn cảnh khiến họ không thể gia tăng số con cái, ít là trong một thời gian ; đó là lúc phải khó khăn lắm mới duy trì được tình yêu trung thành và sự chung sống trọn vẹn. Một khi đời sống thân mật vợ chồng bị gián đoạn, sự chung thủy thường bị đe dọa và lợi ích con cái có thể bị giảm sút ; vì trong trường hợp này, việc giáo dục cũng như lòng can đảm sinh thêm con cái đều bị tổn thương”.
Phải chăng sự tiết dục trường kỳ hay định kỳ như thế trong hôn nhân là một điều nghịch thường, vượt qúa sức tự nhiên của con người ? Không thiếu những gia đình đã làm chứng về đời sống tiết dục khá thành công. Cụ thể ở Ấn độ, nhiều người đã hoãn lập gia đình tới sau năm 36 tuổi, để luyện Yoga, hoặc nếu lập gia đình sớm thì từ 40 tuổi trở lên sẽ tránh hẳn việc vợ chồng để có thể luyện Yoga.
Chính Hội Thánh, trong những thế kỷ đầu cũng đã đề cao vấn đề này : “Hỡi anh em, tôi xin nói với anh em điều này : thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có ; ai khóc lóc hãy làm như không khóc ; ai mừng vui, như chẳng vui mừng ; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả ; kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng dùng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi” (1Cr 7, 29-31).
2o Sinh đẻ có trách nhiệm.
Tùy khả năng nuôi dạy của mình theo một chương trình đã ấn định : đó là trách nhiệm. Lập luận rằng “trời sinh voi trời sinh cỏ” là một lối lập luận vô trách nhiệm. Con cái sinh ra không được giáo dục đầy đủ, đời sống thiếu thốn không xứng với phẩm giá con người là cha mẹ lỗi bổn phận và vô trách nhiệm. Tuy nhiên, cần nhớ rằng sinh con phải theo định luật tự nhiên của đời sống hôn nhân. Con cái được cưu mang bằng một tình yêu ý thức của cha mẹ. Sức khỏe, nhà cửa, nhân cách và những yếu tố khác sẽ giúp cha mẹ ấn định số con cái nên có. Không ai ngoài họ có thể giải quyết thay họ.
Những điều nói trên không phải là một giải pháp tiêu cực : từ chối con cái vì hạnh phúc ích kỷ của hai người, nhưng là một đòi hỏi tích cực. Nếu chỉ vì tội ích kỷ, thì không thể chấp nhận điều hòa sinh sản. Vậy trách nhiệm đặt ra là đòi hỏi cả hai người phải vì lợi ích chung và vì lợi ích phần rỗi.
3o Phương pháp giúp giải quyết vấn đề trách nhiệm.
Công Đồng Vatican II đề ra nguyên tắc chung :
– Tôn trọng sứ mệnh lưu truyền sự sống và phẩm giá con người ;
– Không được trái nghịch với lề luật của Chúa về việc lưu truyền sự sống ;
– Xứng hợp với những quy tắc khách quan về luân lý ;
– Không được xâm phạm ý nghĩa tình yêu hôn nhân là tự hiến cho nhau, cũng như không được xâm phạm tính cách nhân bản của việc sinh con cái.
Tóm lại, theo Công Đồng, chỉ được sử dụng những phương pháp nào thuận với tự nhiên, không đi ngoài sự quan phòng của Thiên Chúa. Cụ thể là chỉ giao hợp trong thời gian không kết đậu, như vậy điều chỉnh việc sinh sản mà không xúc phạm đến luân lý. Hiện nay có những phương pháp sau :
a) Phương pháp Billings.
b) Phương pháp Ogino – Knaus.
c) Phương pháp đo nhiẹt độ.
Giáo Hội kêu gọi : không được sử dụng những phương pháp phản tự nhiên : “Phải triệt để loại bỏ, không được coi là phương tiện hợp pháp để điều hòa sinh sản, những việc làm đình chỉ trực tiếp quá trình sinh sản đã bắt đầu, và nhất là việc phá thai trực tiếp dù là vì những lý do chữa bệnh… Còn phải loại bỏ bất cứ hành động nào ngăn chặn sự sinh sản, dù như một mục đích hay chỉ như phương tiện, dù có hành động như vậy trước việc vợ chồng, hoặc trong việc vợ chồng hay là khi đang tiến tới hậu quả tự nhiên của nó” (SSCN, số 14).

MỤC LỤC
Lời nói đầu
Bài 1. Hôn nhân và gia đình
Bài 2. Bản chất của hôn nhân
Bài 3. Thành lập hôn nhân
Bài 4. Chúa Giêsu cải tạo hôn nhân
Bài 5. Những điều phải có để đi đến hôn nhân
Bài 6. Mục đích của hôn nhân
Bài 7. Giá trị của hôn nhân
Bài 8. Đặc tính duy nhất của hôn nhân
Bài 9. Bí tích hôn phối
Bài 10. Nghi thức cử hành bí tích hôn phối
Bài 11. Quyền lợi và nghĩa vụ vợ chồng
Bài 12. Trách nhiệm của cha mẹ
Bài 13. Bổn phận của con cái
Phụ lục : 1. Tư cách vợ chồng
2. Bầu khí thiêng liêng trong gia đình
3. Sinh đẻ có trách nhiệm

Trích: giaophanthanhhoa.net