SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ NHÂN NGÀY QUỐC TẾ GIỚI TRẺ 2022-2023

 

« Sứ điệp của cha, cho các con là những người trẻ, sứ điệp lớn lao mà Giáo hội cưu mang, đó là Chúa Giêsu ! …. Và Đức Maria là mẫu gương về cách đón nhận món quà bao la này trong cuộc sống của chúng ta và thông truyền nó cho người khác, để đến lượt chúng ta, chúng ta trở thành những người mang Chúa Kitô, những người mang tình yêu trắc ẩn của Ngài, sự phục vụ quảng đại của Ngài cho nhân loại đang đau khổ ». Đức Phanxicô nói với giới trẻ như thế trong Sứ điệp cho Ngày quốc tế Giới trẻ lần thứ 37, sẽ được cử hành tại các Giáo phận vào Chúa Nhật 20 tháng 11, lễ Chúa Kitô Vua Vũ trụ, và ở cấp độ quốc tế tại Lisbon từ ngày 1 đến 6 tháng 8 năm 2023, là “Đức Maria trỗi dậy và vội vã lên đường” (Lc 1,39). Đây là một trong ba chủ đề tiếp nối chủ đề của ngày Ngày Quốc tế Giới trẻ tại Panama vào năm 2019 và hướng đến Ngày Quốc tế Giới trẻ tại Lisbon vào tháng 8 năm 2023, vang vọng lời mời gọi “hãy trỗi dậy”. Động từ “trỗi dậy” ở đây có nghĩa là “sống lại”, “thức dậy với cuộc sống mới”.

Trong sứ điệp này, Đức Thánh Cha mời gọi các bạn trẻ nhìn vào mẫu gương của Đức Maria : Mẹ đã không quy hướng về mình, nhưng « vội vã » mở ra cho tha nhân trong sự quảng đại dấn thân phục vụ và sống hết mình cho tha nhân. « Đó là sự vội vã của những người biết đặt nhu cầu của người khác lên trên nhu cầu của mình. Đức Maria là mẫu gương của một người trẻ không mất thời gian tìm kiếm sự chú ý hay sự tán thưởng của người khác – như đó là trường hợp khi chúng ta lệ thuộc vào « lượt thích » trên các mạng xã hội – nhưng tìm kiếm sự kết nối đích thực nhất, sự kết nối nảy sinh từ sự gặp gỡ, chia sẻ, yêu thương và phục vụ. » Qua đó, Đức Thánh Cha mời gọi các bạn trẻ tự vấn lương tâm mình : « Câu hỏi trọng tâm của cuộc sống của chúng ta là : tôi hiện hữu cho ai ? »

Và Đức Thánh Cha cũng nói lên ước mơ của mình qua Sứ điệp này : « Các bạn trẻ thân mến, cha ước mơ rằng vào dịp Ngày quốc tế Giới trẻ, các con có thể một lần nữa cảm nghiệm được niềm vui gặp gỡ với Thiên Chúa và với anh chị em. Sau thời gian dài xa cách và cô lập, chúng ta sẽ cùng nhau khám phá lại ở Lisbon – với sự trợ giúp của Thiên Chúa – niềm vui của vòng tay huynh đệ giữa các dân tộc và giữa các thế hệ, vòng tay hòa giải và hòa bình, vòng tay của một tình huynh đệ truyền giáo mới. »

Dưới đây là toàn văn Sứ điệp của Đức Thánh Cha:

« Đức Maria đã chỗi dậy và vội vã lên đường » (Lc 1, 39)

Các bạn trẻ thân mến !

Chủ đề của Ngày quốc tế giới trẻ ở Panama là : « Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói » (Lc 1, 38). Sau sự kiện này, chúng ta lại lên đường hướng tới một điểm đến mới – Lisbon 2023 – bằng cách để lời mời gọi hãy chỗi dậy đầy cấp bách của Thiên Chúa vang lên trong tâm hồn chúng ta. Vào năm 2020, chúng ta đã suy niệm lời của Chúa Giêsu : « Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy » (Lc 7, 14). Năm vừa rồi, chúng ta đã được gợi hứng bởi hình ảnh của thánh Phaolô tông đồ, người mà Chúa phục sinh đã nói : Ngươi hãy chỗi dậy ! Ngươi hãy là chứng nhân cho những điều ngươi đã thấy (x. Cv 26, 16). Trên con đường vẫn còn ngăn cách chúng ta với Lisbon, chúng ta sẽ bước đi với Đức Trinh Nữ thành Nadarét, người mà, ngay sau khi được truyền tin, « đã chỗi dậy và vội vã lên đường » (Lc 1, 39) để đến giúp đỡ người chị họ Elisabeth của mình. Động từ chung cho ba chủ đề là chỗi dậy, một kiểu nói – chúng ta hãy nhớ – cũng mang ý nghĩa « đứng dậy », « thức dậy với cuộc sống ».

Trong những thời điểm khó khăn cuối cùng này, khi nhân loại, đã bị thử thách bởi chấn thương của đại dịch rồi, lại đang bị xâu xé bởi thảm kịch chiến tranh, Đức Maria mở lại cho tất cả mọi người và cách riêng cho các con, những người trẻ như Mẹ, con đường của sự gần gũi và gặp gỡ. Cha hy vọng, và cha tin chắc, rằng kinh nghiệm mà nhiều người sẽ sống ở Lisbon vào tháng Tám tới sẽ biểu thị một khởi đầu mới cho các con, những người trẻ, và – cùng với các con – cho toàn thể nhân loại.

Đức Maria đã chỗi dậy

Sau khi được truyền tin, Đức Maria lẽ ra có thể tập trung vào bản thân, vào những lo lắng và sợ hãi do tình trạng mới của mình. Nhưng không, Mẹ hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa. Mẹ nghĩ về bà Elisabeth nhiều hơn. Mẹ chỗi dậy và đi ra ánh sáng mặt trời, nơi có sự sống và chuyển động. Mặc dù lời truyền tin gây đảo lộn của thiên thần gây ra một « cơn địa chấn » trong kế hoạch của mình, cô gái trẻ không cho phép mình bị tê liệt, vì nơi Mẹ là Chúa Giêsu, sức mạnh của sự phục sinh. Mẹ đã cưu mang Chiên bị sát tế nhưng luôn hằng sống. Mẹ chỗi dậy và bắt đầu lên đường, vì Mẹ xác tín rằng kế hoạch của Thiên Chúa là kế hoạch tốt nhất có thể cho cuộc đời mình. Đức Maria trở nên đền thờ của Thiên Chúa, trở nên hình ảnh của Giáo hội lữ hành, của Giáo hội đi ra và dấn thân phục vụ, của Giáo hội mang Tin Mừng!

Cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Kitô phục sinh trong cuộc đời mình, gặp gỡ Ngài « hằng sống », là niềm vui thiêng liêng lớn lao nhất, một sự bùng nổ ánh sáng vốn không thể để ai « bất động ». Nó lập tức thúc giục chúng ta lên đường và thúc đẩy chúng ta mang tin tức này cho người khác, làm chứng cho niềm vui của cuộc gặp gỡ này. Đó cũng là những gì thúc đẩy sự vội vã của các môn đệ đầu tiên trong những ngày sau biến cố phục sinh : « Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giêsu hay» (Mt 28,

Các trình thuật về sự phục sinh thường sử dụng hai động từ : thức dậy và chỗi dậy. Với chúng, Chúa thúc giục chúng ta bước ra ánh sáng, để Ngài dẫn dắt chúng ta để vượt qua ngưỡng cửa của tất cả những cánh cửa khép kín của chúng ta. « Hình ảnh này có ý nghĩa to lớn đối với Giáo hội. Với tư cách là môn đệ của Chúa và cộng đoàn Kitô hữu, chúng ta cũng được mời gọi đứng dậy mau đi, để đi vào mầu nhiệm phục sinh, và để cho Chúa dẫn dắt chúng ta đi theo những con đường mà Ngài muốn chỉ ra cho chúng ta » (Bài giảng lễ trọng thể hai thánh Phêrô và Phaolô, ngày 29/6/2022).

Mẹ của Chúa là hình mẫu của những người trẻ lên đường, không bất động trước gương để chiêm ngưỡng hình ảnh của chính mình, hay « bị mắc kẹt » trong các mạng lưới. Mẹ hoàn toàn hướng ra bên ngoài. Mẹ là người nữ vượt qua, luôn trong trạng thái xuất hành, ra khỏi chính mình hướng đến Đấng Khác là Thiên Chúa và hướng đến người khác, anh chị em của mình, nhất là những người thiếu thốn nhất, như người chị họ Elisabeth của mình.

…Và vội vã lên đường

Thánh Ambrôsiô ở Milan, trong bài chú giải về Tin Mừng theo thánh Luca, đã viết rằng Đức Maria vội vã đi đến miền núi « bởi vì Mẹ vui mừng trước lời hứa và mong muốn thực hiện một sự phục vụ với lòng tận tụy, với sự nhiệt huyết đến với Mẹ từ niềm vui sâu thẳm. Được tràn đầy Thiên Chúa, giờ đây Mẹ có thể vội vã đi đâu khác, nếu không phải là hướng đến những đỉnh cao ? Ân sủng của Chúa Thánh Thần không cho phép chậm chạp ». Vì thế, sự vội vã của Đức Maria là sự quan tâm phục vụ, vui mừng loan báo, sẵn sàng đáp lại ân sủng của Chúa Thánh Thần.

Đức Maria đã để bản thân bị chất vấn bởi nhu cầu của người chị họ cao tuổi của mình. Mẹ không trốn tránh, Mẹ không dửng dưng. Mẹ đã nghĩ đến người khác hơn là chính mình. Và điều đó đã mang lại sự năng động và nhiệt huyết cho cuộc sống của Mẹ. Mỗi người trong các con có thể tự hỏi : tôi phản ứng như thế nào trước những nhu cầu mà tôi nhìn thấy xung quanh tôi ? Tôi có nghĩ ngay đến sự biện minh để không dấn thân, hay tôi quan tâm và trở nên sẵn sàng ứng trực ? Tất nhiên, các con không thể giải quyết tất cả các vấn đề trên thế giới. Nhưng có lẽ các con có thể bắt đầu từ những người gần các con hơn, từ những vấn đề được đặt ra trong khu vực của các con. Một ngày nọ, người ta đã nói với Mẹ Têrêxa : « Những gì mẹ đang làm chỉ là một giọt nước trong đại dương ». Và mẹ đã trả lời : « Nhưng nếu tôi không làm vậy, thì đại dương sẽ vơi đi một giọt ».

Đối diện với một nhu cầu cụ thể và cấp bách, cần phải hành động nhanh chóng. Có biết bao người trên thế giới đang chờ đợi sự viếng thăm của một người sẽ chăm sóc họ ! Biết bao người cao tuổi, bệnh nhân, tù nhân, người tỵ nạn đang cần đến cái nhìn trắc ẩn của chúng ta, sự viếng thăm của chúng ta, một người anh em hay một người chị em vượt qua rào cản của sự dửng dưng !

Các bạn trẻ thân mến, đâu là « những vội vã » khiến các con động lòng ? Điều gì khiến các con cảm thấy thôi thúc phải chuyển động, đến độ không thể đứng yên ? Nhiều người – bị tác động bởi các thực tế như đại dịch, chiến tranh, di cư cưỡng bức, nghèo đói, bạo lực, thiên tai khí hậu – đã đặt ra cho mình câu hỏi sau : tại sao nó xảy ra với tôi ? Tại sao là tôi ? Tại sao bây giờ ? Và như thế, câu hỏi trọng tâm của cuộc sống của chúng ta là : tôi hiện hữu cho ai ? (x. Tông huấn Christus vivit, số 286).

Sự vội vã của cô gái trẻ thành Nadarét là sự vội vã của những người đã nhận được từ Chúa những món quà đặc biệt và không thể không chia sẻ, không thể không làm cho ân sủng bao la mà họ cảm nghiệm được tuôn tràn. Đó là sự vội vã của những người biết đặt nhu cầu của người khác lên trên nhu cầu của mình. Đức Maria là mẫu gương của một người trẻ không mất thời gian tìm kiếm sự chú ý hay sự tán thưởng của người khác – như đó là trường hợp khi chúng ta lệ thuộc vào « lượt thích » trên các mạng xã hội – nhưng tìm kiếm sự kết nối đích thực nhất, sự kết nối nảy sinh từ sự gặp gỡ, chia sẻ, yêu thương và phục vụ.

Từ biến cố Truyền tin, từ khi lần đầu tiên lên đường đi thăm người chị họ của mình, Đức Maria đã không ngừng vượt qua không gian và thời gian để thăm viếng con cái của mình vốn đang cần sự giúp đỡ ân cần của Mẹ. Nếu được Thiên Chúa bao bọc, thì bước đi của chúng ta sẽ dẫn chúng ta trực tiếp đến trái tim của mỗi anh chị em của chúng ta. Biết bao chứng tá đến với chúng ta từ những người được Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu và là Mẹ chúng ta « viếng thăm » ! Ở biết bao nơi xa xôi trên trái đất, nơi mà, qua nhiều thế kỷ – qua những lần hiện ra hoặc những ơn đặc biệt -, Đức Maria đã viếng thăm đoàn dân mình ! Khó có nơi nào trên trái đất này mà Mẹ chưa viếng thăm ! Mẹ Thiên Chúa bước đi giữa đoàn dân của mình, được thúc đẩy bởi sự dịu dàng tinh tế, và tự gánh lấy những lo âu và thăng trầm của dân. Và bất cứ nơi đâu có đền thánh, nhà thờ, nhà nguyện dành cho Mẹ, thì con cái Mẹ tuôn đến rất đông. Biết bao nhiêu biểu hiện của lòng đạo đức bình dân ! Những cuộc hành hương, lễ hội, những lời khấn xin, rước ảnh tượng về nhà, và nhiều điều khác, là những ví dụ cụ thể của mối tương quan sống động giữa Mẹ của Chúa và dân của Mẹ, vốn viếng thăm lẫn nhau !

Sự vội vã tốt lành luôn thúc đẩy chúng ta hướng lên trời cao và hướng về người khác

Một sự vội vã tốt lành luôn thúc đẩy chúng ta hướng lên trời cao và hướng về người khác. Trái lại, có một sự vội vã không tốt, chẳng hạn như sự vội vã khiến chúng ta sống hời hợt, coi nhẹ mọi thự, không dấn thân cũng không quan tâm, không thực sự tham dự vào những việc chúng ta làm ; sự vội vã khiến chúng ta sống, học hành, làm việc, lui tới với người khác mà không để ý đến nó, và thậm chí không để tâm đến. Điều đó có thể xảy ra trong các mối tương quan liên vị : trong gia đình, khi chúng ta chưa bao giờ thực sự lắng nghe người khác và không dành thời gian cho họ ; trong tình bạn, khi chúng ta mong đợi một người bạn giải trí và đáp ứng những đòi hỏi của chúng ta, nhưng chúng ta tránh đi đến với một người bạn khác nếu chúng ta thấy rằng người ấy đang gặp khủng hoảng và cần chúng ta ; nhưng cũng trong các mối tương quan tình cảm, giữa các cặp đã đính hôn, ít ai có đủ khiên nhẫn để học biết nhau và hiểu nhau cách sâu xa. Chúng ta có thể có thái độ tương tự ở trường học, nơi làm việc và trong các lãnh vực khác của đời thường. Rồi thì, tất cả những điều được sống cách vội vã này sẽ khó có kết quả. Có nguy cơ chúng sẽ cằn cỗi. Đó là những gì chúng ta đọc thấy trong sách Châm Ngôn : « Kế hoạch của người siêng năng hẳn đảm bảo lợi nhuận, nhưng sự vội vàng hấp tấp sẽ dân đến đói nghèo » (21, 5).

Khi Đức Maria cuối cùng đến nhà ông Dacaria và bà Elisabeth, thì một cuộc gặp gỡ tuyệt vời đã diễn ra ! Bà Elisabeth cảm nghiệm được nơi mình sự can thiệp kỳ diệu của Thiên Chúa, Đấng ban tặng cho bà một người con trai trong lúc tuổi già. Bà sẽ có đủ lý do để nói về mình trước tiên, nhưng bà không chìm đắm nơi chính mình, bà đã mở ra để đón tiếp em họ của mình với hoa trái trong cung lòng của em. Vừa nghe tiếng em chào, bà Elisabeth đã được tràn đầy Thánh Thần. Những sự ngạc nhiên và đổ tràn Thánh Thần này diễn ra khi chúng ta sống lòng hiếu khách thực sự, khi chúng ta đặt khách mời, chứ không phải chúng ta, ở trung tâm. Đó cũng là những gì chúng ta thấy trong câu chuyện của Dakêu. Trong Luca 19, 5-6, chúng ta đọc thấy : « Khi Đức Giêsu tới chỗ ấy, thì Ngài nhìn lên và nói với ông: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông. Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Ngài ».

Nhiều người trong chúng ta đã có kinh nghiệm bất ngờ khi Chúa Giêsu đến gặp chúng ta : lần đầu tiên, chúng ta cảm nghiệm với Ngài một sự gần gũi, một sự tôn trọng, không còn thành kiến và kết án, một cái nhìn thương xót mà chúng ta chưa bao giờ gặp được nơi người khác. Hơn nữa, chúng ta cũng nhận thấy rằng không đủ đối với Chúa Giêsu khi chỉ nhìn chúng ta từ xa, nhưng Ngài muốn ở với chúng ta, Ngài muốn chia sẻ sự sống của Ngài với chúng ta. Niềm vui của kinh nghiệm này khơi dậy trong chúng ta sự vội vã đón tiếp Ngài, một sự cấp bách ở với Ngài và hiểu biết Ngài nhiều hơn. Bà Elisabeth và ông Dacaria đã đón tiếp Đức Maria và Chúa Giêsu ! Chúng ta hãy học hỏi từ hai người cao tuổi này ý thức về lòng hiếu khách ! Hãy hỏi cha mẹ và ông bà các con cũng như các thành viên lớn tuổi nhất trong cộng đồng của các con, lòng hiếu khách đối với Thiên Chúa và đối với người khác nghĩa là gì. Sẽ rất tốt nếu các con được lắng nghe kinh nghiệm của những người đi trước các con.

Các bạn trẻ thân mến, đã đến lúc lại phải khởi hành vội vã hướng đến những cuộc gặp gỡ cụ thể, hướng tới sự đón tiếp thực sự đối với những người khác với chúng ta, như đã xảy ra giữa Đức Maria trẻ tuổi và bà Elisabeth lớn tuổi. Chỉ như thế mà chúng ta sẽ có thể vượt qua những khoảng cách – giữa các thế hệ, giữa các tầng lớp xã hội, giữa các sắc tộc, giữa các nhóm khác nhau – và thậm chí cả chiến tranh. Người trẻ luôn là niềm hy vọng của một sự thống nhất mới cho nhân loại đang bị chia cắt và chia rẽ. Nhưng với điều kiện là họ có ký ức, họ lắng nghe những bi kịch và những ước mơ của những người cao tuổi của họ. « Không phải tình cờ mà chiến tranh lại quay trở lại châu Âu vào thời điểm mà thế hệ từng sống qua nó trong thế kỷ vừa qua đang dần biến mất » (Sứ điệp cho Ngay thế giới Ông Bà và Người cao tuổi lần II). Một liên minh giữa người trẻ và người già là cần thiết, để không quên những bài học của lịch sự nhằm vượt qua những phân cực và chủ nghĩa cực đoan của thời đại chúng ta.

Viết cho tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô đã loan báo : « Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Kitô Giêsu, nhờ máu Đức Kitô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần. Thật vậy, chính Người là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do Thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét» (2, 13-14). Chúa Giêsu là câu trả lời của Thiên Chúa cho những thách thức của nhân loại, thuộc mọi thời đại. Và câu trả lời này, Đức Maria mang nó trong mình khi Mẹ đến gặp bà Elisabeth. Món quà đẹp nhất của Đức Maria cho người bà con lớn tuổi của mình là mang Chúa Giêsu đến cho bà. Dĩ nhiên, sự giúp đỡ thực tế cũng rất cao quý. Nhưng không có gì có thể tràn ngập nhà ông Dacaria bằng một niềm vui lớn lao và với một ý nghĩa trọn vẹn như sự hiện diện của Chúa Giêsu trong lòng Đức Trinh Nữ, Đấng đã trở thành nhà tạm của Thiên Chúa hằng sống. Tại miền nùi này, Chúa Giêsu, chỉ bằng sự hiện diện của mình, không nói một lời nào, đã tuyên bố « Bài giảng trên núi » đầu tiên của mình : Ngài âm thầm tuyên bố hạnh phúc của những người bé mọn và khiêm nhường, những người phó thác cho lòng thương xót của Thiên Chúa.

Sứ điệp của cha, cho các con là những người trẻ, sứ điệp lớn lao mà Giáo hội cưu mang, đó là Chúa Giêsu ! Vâng, chính Ngài, tình yêu vô bờ bến của Ngài dành cho mỗi người chúng ta, ơn cứu độ của Ngài và sự sống mới mà Ngài đã ban cho chúng ta. Và Đức Maria là mẫu gương về cách đón nhận món quà bao la này trong cuộc sống của chúng ta và thông truyền nó cho người khác, để đến lượt chúng ta, chúng ta trở thành những người mang Chúa Kitô, những người mang tình yêu trắc ẩn của Ngài, sự phục vụ quảng đại của Ngài cho nhân loại đang đau khổ.

Tất cả cùng nhau ở Lisbon !

Đức Maria là một cô gái trẻ như nhiều người trong các con. Mẹ là một trong chúng ta. Đức Giám mục Tonino Bello đã viết về Mẹ : « Lạy thánh mẫu Maria, […] chúng con biết rõ rằng Mẹ đã được dự định để chèo thuyền giữa biển sâu. Nhưng nếu chúng con buộc phải xin Mẹ đi thuyền đến gần bờ, thì đó không phải là vì chúng con muốn giảm thiểu Mẹ xuống mức chạy ven bờ bé nhỏ của chúng con. Đó là để, khi nhìn thấy Mẹ ở rất gần bờ của sự chán nản của chúng con, chúng con có thể ý thức được rằng chúng con cũng được kêu gọi để mạo hiểm, như Mẹ, trên đại dương của sự tự do » (Maria donna dei nostri giorni, San Paolo, Cinisello Balsamo 2012, p. 12-13).

Từ Bồ Đào Nha, như cha đã nhắc lại trong Sứ điệp đầu tiên của ba sứ điệp này, vào thế kỷ XV và XVI, rất nhiều bạn trẻ – trong số đó còn nhiều nhà truyền giáo – đã ra đi đến những thế giới vô danh, để chia sẻ kinh nghiệm của họ về Chúa Giêsu với các dân tộc và quốc gia khác (x. Sứ điệp Ngày quốc tế giới trẻ 2020). Và trên mảnh đất này, vào đầu thế kỷ XX, Đức Maria đã muốn có một chuyến viếng thăm đặc biệt, khi, từ Fatima, Mẹ đã đưa ra cho mọi thế hệ thông điệp mạnh mẽ và phi thường về tình yêu của Thiên Chúa, kêu gọi sự hoán cải, sự tự do đích thực. Đối với mỗi người trong các con, cha lặp lại lời mời gọi nồng nhiệt tham dự vào cuộc đại hành hương liên lục địa của các bạn trẻ vốn sẽ lên đến đỉnh điểm ở Ngày quốc tế giới trẻ ở Lisbon vào tháng Tám tới ; và cha nhắc lại cho các con rằng, ngày 20/11 tới, Lễ trọng Chúa Kitô Vua, chúng ta sẽ cử thành Ngày quốc tế giới trẻ tại các Giáo hội địa phương trên toàn thế giới. Về phương diện này, tài liệu gần đây của Bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống – Những định hướng mục vụ cho việc cử hành Ngày quốc tế giới trẻ tại các Giáo hội địa phương – có thể giúp ích rất nhiều cho tất cả những ai làm việc mục vụ giới trẻ.

Các bạn trẻ thân mến, cha ước mơ rằng vào dịp Ngày quốc tế giới trẻ, các con có thể một lần nữa cảm nghiệm được niềm vui gặp gỡ với Thiên Chúa và với anh chị em. Sau thời gian dài xa cách và cô lập, chúng ta sẽ cùng nhau khám phá lại ở Lisbon – với sự trợ giúp của Thiên Chúa – niềm vui của vòng tay huynh đệ giữa các dân tộc và giữa các thế hệ, vòng tay hòa giải và hòa bình, vòng tay của một tình huynh đệ truyền giáo mới. Xin Chúa Thánh Thần thắp sáng trong tâm hồn các con niềm khao khát chỗi dậy và niềm vui bước đi cùng nhau, hiệp hành, bỏ đi những biên giới giả tạo. Bây giờ đã đến lúc chỗi dậy ! Hãy vội vã chỗi dậy ! Và như Đức Maria, chúng ta hãy mang Chúa Giêsu nơi mình để thông truyền Ngài cho mọi người ! Trong thời đại tươi đẹp này của cuộc sống các con, hãy tiến lên phía trước, đừng gác lại cho đến sau này những gì Chúa Thánh Thần có thể thực hiện trong các con ! Cha hết lòng chúc lành cho những ước mơ và bước đi của các con.

Đền thờ Thánh Gioan Latêranô, ngày 15/8/2022, Lễ trọng Đức Trinh Nữ Maria lên trời.

Phanxicô

——————————

Tý Linh chuyển ngữ

(nguồn: vatican.va)

ĐẶC TÍNH HÔN NHÂN KITÔ GIÁO

ĐẶC TÍNH HÔN NHÂN KITÔ GIÁO

Hôn nhân là một vấn đề quan trọng, không chỉ đối với bản thân hai người kết hôn, nhưng còn đối với gia đình, xã hội và Giáo Hội. Bởi thế, trước khi tiến đến hôn nhân, đôi bạn trẻ được mời gọi phải tìm hiểu nhau thật kỹ, phải có một thái độ trưởng thành về tình yêu, phải có một hiểu biết cặn kẽ và chắc chắn về hôn nhân để thực hiện một quyết định chung cuộc cho cuộc đời mình. Vì hôn nhân rất quan trọng và còn dính líu đến gia đình hai bên và con cái, nên không thể xem nó như trò đùa, thích thì cưới, không thích thì chia tay. Hôn nhân là nền tảng để làm nên gia đình, gia đình lại là nền tảng của xã hội; nên gia đình càng vững bền, hạnh phúc, xã hội càng phồn thịnh phát triển. Cũng tương tự như vậy trong tương quan giữa hôn nhân, gia đình và Giáo Hội. Xuất phát từ ý muốn của Thiên Chúa được mặc khải trong Kinh Thánh và qua tự nhiên, điều 1056 của bộ Giáo Luật 1983 có nói đến hai đặc tính của Hôn Nhân Kitô giáo là độc nhất và bất khả phân ly.

Khi nói đến tính độc nhất, ta hiểu đó là kiểu hôn nhân một vợ một chồng. Trong lịch sử nhân loại cũng như trong nhiều nền văn hoá và tôn giáo, thậm chí thời nay, vẫn còn tồn tại kiểu hôn nhân đa thê, hoặc đa phu: một người có thể cùng một lúc có nhiều vợ hoặc nhiều chồng. Họ chấp nhận chung chia người bạn đời của mình với người khác. Có nhiều lý do khác nhau để giải thích hiện tượng này. Đó có là thể di tích còn sót lại của một tập tục cổ xưa, hoặc có khi là do tình trạng thiếu người nam hoặc thiếu người nữ, hoặc vẫn còn lối nghĩ trọng nam khinh nữ, trọng nữ khinh nam… Nhiều nơi vẫn chấp nhận kiểu hôn nhân này miễn là người chồng hoặc người trụ cột trong gia đình có thể chu cấp đầy đủ về vật chất cho người bạn đời và cho con cái.

Giáo Hội Công Giáo không chấp nhận kiểu hôn nhân này. Tự bản chất, khi yêu ai, ta muốn mình chỉ thuộc trọn về người đó và người đó thuộc trọn về mình. Tình yêu là một sự trao hiến hoàn toàn, chứ không phải một phần. Nó loại trừ tất cả mọi sự san sẻ. Hôn nhân, vì đặt nền trên tình yêu trao hiến hoàn toàn ấy, nên chỉ có thể trở nên trọn vẹn khi không có người thứ ba nào can thiệp vào. Chính từ sự kết hợp hoàn hảo và trọn vẹn giữa hai người này mà làm nảy sinh một mầm sống mới, như hoa quả của nhành cây ân ái. Ngoài ra, hôn nhân là kết quả của tình yêu. Người ta kết hôn để mưu cầu hạnh phúc chứ không chỉ đơn thuần là sống chung hay để có cuộc sống sung túc về vật chất. Hơn nữa, xét về phẩm giá, người nam và người nữ tuy khác nhau nhưng ngang bằng nhau, tất cả đều là vô giá và hạnh phúc của mỗi người đều phải được trân quý như nhau. Một người nam tương xứng với một người nữ, làm nên một cuộc hôn nhân, rồi sinh ra con cái, đó là một tổ ấm hạnh phúc nhất. Có người từng nói, hôn nhân khác với bạn bè ở chỗ: bạn bè thì càng đông càng vui, còn hôn nhân thì ngược lại.

Cứ sự thường, khi kết lập giao ước hôn phối, ai cũng mong muốn nó được kéo dài mãi, hai bên luôn mặn nồng chung thuỷ với nhau đến khi nắm tay xuống suối vàng. Tuy nhiên, cuộc sống luôn có những điều không hay xảy đến. Hôn nhân vốn dĩ được đặt nền trên tình yêu, nhưng tình yêu không phải lúc nào cũng màu hồng. Có thể xảy ra những xung đột, có khi tình yêu không còn, có khi hai bên không thể tiếp tục chung chia cuộc sống. Dân luật giải quyết trường hợp này bằng cách cho phép hai người ly dị, cắt đứt sợi dây hôn phối, hai bên không còn quyền và nghĩa vụ gì với nhau, họ được phép kết giao một hôn nhân với người khác.

Khác với luật đời, luật Giáo Hội, chiếu theo mệnh lệnh của Thiên Chúa, không cho phép hai người đã kết hôn thành sự và hoàn hợp ly dị. Nghĩa là, khi hai người trưởng thành, không có ngăn trở gì, tự do và ý thức xin Giáo Hội chuẩn nhận cho tình yêu của mình, sau đó, họ đã có hành vi vợ chồng với nhau (gọi là hoàn hợp) thì hôn nhân đó là bất khả phân ly. Khi xảy ra trường hợp tệ nhất, họ cũng chỉ có thể ly thân, nghĩa là tạm thời không sống chung một mái nhà, chứ không thể làm cho hôn nhân này mất hiệu lực, để rồi kết hôn với người khác. Khi đưa ra quy định này, Giáo Hội không có ý “làm khó” giáo dân, cũng không tự biến mình thành “kẻ độc đoán”, nhưng Giáo Hội chỉ tuân theo lệnh truyền của Thiên Chúa từ thuở tạo thiên lập địa và được Đức Giêsu khẳng định: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,6-9).

Thật ra, không chỉ đối với hôn nhân Kitô giáo, nghĩa là hôn nhân mang tính bí tích, ngay cả những hôn nhân tự nhiên của những người chưa được rửa tội, Giáo Hội cũng xác nhận tính “bất khả phân ly” của nó. Như thế, tính bất khả phân ly của hôn nhân không phải là một áp đặt của Giáo Hội, nhưng là cái xuất phát từ tự nhiên mà Giáo Hội công nhận. Khi người ta cam kết để tạo lập hôn nhân, đó là một cam kết vĩnh viễn và trọn đời, chứ không phải một phần hay tạm thời. Chỉ có cái chết mới có thể xoá đi được cam kết này. Vì thế, Giáo Hội cũng không cho phép con cái mình kết hôn với người đang bị ràng buộc bởi dây hôn phối với người khác, dù hôn phối ấy không mang tính bí tích.

Đôi khi ta vẫn thấy có một số trường hợp hai người đã kết hôn, nhưng sau đó lại chia tay và kết lập giao ước mới. Đó không phải là vì Giáo Hội cho phép ly hôn, nhưng vì hôn nhân đó bị mắc những ngăn trở nào đó, khiến nó đã không thể thành sự ngay từ lúc đầu. Hoặc đôi khi, vì lợi ích đức tin của tín hữu, Giáo Hội chuẩn chước cho một số trường hợp ngoại lệ theo những điều kiện quy định để hưởng đặc ân Phaolô hoặc đặc ân Phêrô. Tuy nhiên, để cứu xét những trường hợp này, Giáo Hội phải rất cẩn trọng, để không đi ngược lại với giáo huấn của Đức Giêsu, mà vẫn có thể giúp cho các bên sống đức tin của mình cách tốt đẹp nhất.

Trước khi đi đến hôn nhân, các bạn trẻ phải được dạy cho biết về hai đặc tính này, để khi đã tự nguyện cam kết rồi thì cố gắng vun đắp cho hôn nhân của mình, chứ không tìm cách thoái lui, tìm cách giải thoát để sống theo tự do của mình.

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ