Tôi từng nghe một bài hát về tuổi trẻ với lời bài hát tôi nhớ qua như thế này “ Ai ai cũng có ước mơ giàu sang, để sống cho chính mình. Ai ai cũng muốn bước đi để thành công dù chỉ một lần…..” Và một bài hát có tựa đề “ Tuổi trẻ”, tuổi trẻ là những khát khao, tuổi trẻ là những đam mê, ấp ôm bao giấc mơ yêu tuyệt vời. Tuổi trẻ rồi sẽ qua đi tựa như giấc mơ êm đềm, để rồi cố níu lấy cũng không thể được. Đối với Giáo Hội, Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI đã viết cuốn sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo dành cho người trẻ bằng ngôn ngữ của người trẻ, để truyền bá sứ điệp Phúc âm trong thời đại hôm nay. Cuốn sách có tên gọi YOUCAT với niềm thao thức làm sao cho người trẻ biết tìm đến với giáo lý, với sự nhận biết chân thật nhất về Thiên Chúa tình yêu. “ Hãy nghiên cứu giáo lý với niềm đam mê….” là lời mời gọi tha thiết của ngài dành đặc biệt cho giới trẻ. Tôi thiết nghĩ đó chẳng phải là một sứ mạng hết sức đặc biệt và cao quý mà Giáo Hội dành cho tôi, cho người trẻ hôm nay hay sao? Thanh xuân qua đi thời gian cuốn trôi như gió, biết bao lợi danh hôm qua vụt bay đi, đánh mất nhân cách một con người chỉ vì lợi lộc tiền của. Người trẻ ngày hôm nay chỉ còn biết chạy theo những thú vui chơi xa xỉ, xã hội tồn đọng toàn những thứ bò chét ăn thịt nhân bản con người bởi biết bao tệ nạn, ma túy, chém giết lẫn nhau chỉ vì thỏa mãn tính tham lam của bản thân. Những bài hát ra đời dành cho tuổi trẻ thì giờ đây được hát suông trên môi miệng mà không hề đọng lại trong tim dù chỉ một điều. Những lời khuyên dạy hay những bài giảng về giáo lý mà Giáo Hội dành cho giới trẻ chỉ vơi vớt lại một số bạn được thoát ra khỏi vòng cặm bẫy do họ được sinh ra và lớn lên trong những gia đình nhân bản của Hội Thánh Chúa. Tôi tự hào vì mình là người Công giáo, tự hào vì mình được sinh ra là một người con trong gia đình Công giáo. Và vì thế tôi mới biết được rằng nhờ sự bao bọc của Giáo Hội tôi mới có thể lớn lên trong một môi trường tốt hơn và may mắn hơn bao bạn trẻ khác. Tôi có khát vọng, bạn cũng có khát vọng. Ước mơ của tôi là đi theo Chúa nên tôi luôn cố gắng để mình không bị sa vào cặm bẫy thế gian, vào những tệ nạn của xã hội, tội lỗi ma quỷ. Còn bạn, bạn đang theo đuổi cái gì để có được ước mơ đó? Nếu bạn cũng là người Công giáo tôi tin bạn sẽ có được ước mơ khi bạn đi theo đường lối Giáo Hội khuyên nhủ và đưa ra. Hiện nay khá đông người trẻ có khát vọng ra nước ngoài du học, làm ăn, hầu mong có một cuộc sống hạnh phúc hơn. Nhưng bên cạnh đó theo xã hội và thời đại họ lại bị tiền bạc lôi kéo. Tôi đi học tiếng Nhật ở trường có nhiều người trẻ Việt nam qua Nhật vừa đi học vừa làm, họ hầu đa số là người không Công giáo, hỏi ra mới biết có một số người Công giáo như tôi. Nhưng tôi chưa từng nghĩ họ là người Công giáo vì họ sống như một người hoàn toàn không có Chúa, không đến nhà thờ, Thánh lễ cũng không tham dự vì lý do họ nói là bận đi làm không có giờ đi lễ . Một điều làm tôi ngạc nhiên nữa là họ kể chuyện một cách bình thường như không có gì trong khi họ là người Công giáo. Tôi hoàn toàn có thể thông cảm cho hoàn cảnh của họ, vì sống xa nhà, phải kiếm tiền nhưng tôi không thể chấp nhận được cho một lối sống buông thả, đánh mất bản chất của một người con cái Chúa. Họ tưởng rằng sống không có Chúa sẽ thành công hay họ sẽ giàu to chăng? Tại sao dành một giờ cho Chúa vào ngày Chúa nhật thôi cũng còn ky bo bủn xỉn với Chúa trong khi dành hàng giờ để đi chơi, nhậu nhẹt với bạn bè mà không hề tiếc gì. Tôi thấy não trạng của người trẻ ngày hôm nay đều như thế, họ luôn biện minh cho những điều vô lý để đạt được tham muốn bản thân. Tôi đã tự đặt câu hỏi cho chính tôi : nếu tôi ở trong trường hợp như họ thì tôi sẽ ra sao hay tôi cũng như thế? Tôi cũng là một người trẻ của thời đại ngày hôm nay và tôi khao khát tuổi thanh xuân của mình sẽ trở nên ý nghĩa, trở nên có ích hơn. Chỉ có duy nhất một tuổi thanh xuân cho đời nên tôi khát vọng thực hiện ước mơ một cách đẹp nhất, trong sáng và lành mạnh nhất. Cùng nhau vun đắp xây dựng một thế giới đầy tình người và tình Chúa như mong mỏi của Hội Thánh. Đó chính là sứ mạng dành cho mỗi một người trẻ, dành cho chính tôi và chính bạn.
Marth. Iny
月別アーカイブ: 6月 2018
MÓN ĂN KỲ DIỆU TỪ TẠO HÓA
Cho đến ngày hôm nay, mật độ dân số trên thế giới đã có hơn 7 tỷ rưỡi người, hiện đang sống trong một hành tinhđầy ô nhiễm, bệnh tật. Hơn 7 tỷ miệng ăn, trong khi đất trồng cấy vẫn khó mở rộng, trái lại còn có nguy cơ co hẹp vì hạn hán. Cuộc “cách mạng xanh” đối với cây ngũ cốc từ thập niên 60 và còn kéo dài cho đến bây giờ, xem ra chỉ cứu đói được một số dân thuộc “thế giới thứ 3” và tương lai chắc chắn sẽ đuối sức.
Vậy thì khoai tây đã giúp ích được những gì cho nhân loại? Các nước đông dân như Trung Quốc đã vượt lên trước, theo sau là Ấn Độ, kế đến là một số quốc gia ở lục địa châu Phi, rồi Philippines và sau đó là Việt Nam cũng đã nhìn củ khoai tây bằng một con mắt khác.
Việc di canh cây khoai tây xuống phương Nam nóng ấm rất hiệu quả, khiến nhân loại đã thay đởi quan niệm truyền thống, vì ban đầu họ cho rằng khoai tây chỉ thích hợp với khí hậu lạnh lẽo, ôn hòa. Thật ra, cây khai tây khi đi một vòng trái đất sau chuyến viễn du, rồi lại quy về với cội nguồn nắng ấm. Chính nguồn gốc quê hương của nó lại nằm ở vùng đồi núi cao nguyện thuộc nam Mỹ, đó là nước Peru, sau đó cây khoai tây được đem về trồng ở vùng đất châu âu vào giữa năm 1538.
Tuy nhiên, khoai tây rất dễ tính, trồng ở đâu cũng mọc. Trái lại năng xuất khi thu hoạch cũng tùy thuộc ở từng khu vực và lãnh thổ khác nhau. Khi đã có mặt tại châu Âu, khoai tây ngẩu nhiên trở nên “lá ngọc cành vàng”. Hoàng Hậu Pháp, có tên là Marie Antoinette đã ra lệnh cho nhân viên phục vụ của mình trồng cấy trên mảnh vườn của hoàng gia ở Versailles để làm cảnh. Thấy cánh hoa lạ và đẹp, hoàng hậu thường xuyên ra vườn hái hoa để cài trên mái tóc óng ả của mình. Sau đó một dược sỹ có tên là Antoine Augustine Parmetier, vốn là người rất am hiểu về nông nghiệp lại có lòng thương dân, ông đã ra sức thuyết phục nhà vua Louis XVI và sau đó khoai tây được trồng trên cánh đồng rộng bao la bát ngát của hoàng gia. Sau này quyền độc tôn trồng khoai tây của vương triểu đã dần dần mất đi ảnh hưởng, người ta đã chứng kiến tận ắt cây khai tây mọc lác đác trên những thửa vườn của cư dân gần đó. Mặc dầu nhà vua và hoàng hậu chỉ trồng khoai tây để ngắm hoa, thưởng ngoạn, trong khi người nông dân lại lấy củ để xử dụng cho các bui74a ăn, kể từ đó khoai tây đã bổ sung cho phần lương thực đầy hấp dẫn của nhân loại.
Cây khoai tây trồng cấy đạt năng suất cao hơn loại cây ngũ cốc, lượng đạm lại gấp đôi so với cây lúa mì, củ khoai tây lại nằm sâu dưới đất, chính vì thế cho dù đã đến thời vụ thu hoạch, nhưng rủi ro thời tiết “mưa không thuận, gió chẳng hòa, củ khoai tây vẫn đạt phẩm chất cao. Khoai tây rất bổ dưỡng, giàu calcium, manesium, carbone, vitamine B và C, riêng hàm lượng chất béo lại rất thấp, chính vì vậy mà những quốc gia giàu có họ rất ưa chuộng. Một số nhà nghiên cứu về lịch sử đã có một câu nói dí dỏm như sau: nếu như khoai tây không có mặt trên hành tinh này, lục địa châu Âu chắc chắn sẽ thiếu hẳn đi nền công nghiệp hóa, vì thợ thuyền với đồng lương hạn chế, không thể tái tạo sức lực, trong đó nguồn cung cấp vitamine cần thiết cho cơ thể, lại chính là nhờ vào củ khoai tây, vì nó vừa bổ ích, ăn ngon và hợp với túi tiền của người lao động. Thấ vậy mà một thời vẫn còn có nhiều người coi giá trị khoai tây rất thấp, những kẻ cuồng tín thì tẩy chay khoai tây, bởi lẽ nó không phải là thứ “linh thảo” vì tên của nó không được ghi trong kinh thánh thuộc một tôn giáo xa lạ. Nhiều quốc gia vẫn còn đánh giá khoai tây là một thứ “độc dược”.
Bởi vì vào năm 1845 đến năm 1851, dịch bệnh vì khoai tây ở Ái Nhỉ Lan phát sinh và đã cướp đi 1 phần 3 dân số của quốc gia này, vì lẽ đó, có kẻ khinh người trọng, nên số phận khoai tây đã từng “lên voi xuống chó” qua nhiều giai đoạn lịch sử. Mãi sau này, các chuyên gia về nông nghiệp mới phân định rõ ràng “công và tội” của khoai tây. Không phải ngẫu nhiên mà hơn 80% diện tích trồng khoai tây ở Hoa Kỳ và Canada, mà các chủ nông trại rộng lớn chỉ chọn duy nhất có 6 loại giống đặc biệt mà thôi, các nhà sinh học và nông học nghiên cứu thấy rằng “gen” khoai tây rất dễ chung sống với các thứ “gen” khác, rất có thể vì lý do đó mà nạn dịch ở Ái Nhĩ Lan vào thế kỷ 19 là do khoai tây không thuần giống đã “gây bệnh”. Riêng người dân da đỏ cũng đã hiểu rõ được vấn đề này, nhưng họ chỉ chọn giống và trồng cấy theo kinh nghiệm sẵn có của các bộ tộc mà thôi.
Trung tâm nghiên cứu quốc tế về cây khoai tây đặt trụ sở tại Peru, nơi “chôn nhau cắt rốn” của khoai tây trên ha2h tinh này, đẽ chính thức đưa ra kết luận: một số giống khoai tây là thủ phạm truyền “virus” gây bệnh. Tuy nhiên, nếu “vơ đũa cả nắm” thì đó là một điều hết sức sai lầm, vì một số giống của khoai tây đã tạo ra một thứ lương thực kỳ diệu cho nhân loại. Phải chăng một số giống đó đã góp phần tạo nên công nghiệp hóa ở lục địa Âu chầu thời bấy giờ?
Mặt khác, không nên xem việc “dẫn bệnh” của khoai tây là hoàn toàn xấu. Dưới góc độ sinh học, “gen” khoai tây rất dễ ghép cùng loại “gen” khác, các nhà sưu tầm, các nhà sinh học về “gen” chính là những “pháp su” kỳ diệu, họ có thể bổ sung ưu điểm và loại trừ nhược điểm của khoai tây thật dễ dàng, như chúng ta gọt củ khoai mì, kể từ đó, con người chúng ta lại mỉm cười với củ khoai tây đầy kỳ diệu.
Nói cho cùng, khi các nhà khoa học chưa khám phá công nghệ “gen”, khoai tây cũng đã được nhân loại ngưỡng mộ và ưa thích. Vốn dĩ người ta chỉ biết chế biến một cách đơn thuần theo kiểu luộc, nấu, hặc nghie62nna1t ra thành bột để ăn. Mãi về sau, khi Thomas Jefferson, người gốc ái Nhĩ Lan, từ đất “kinh thành ánh sáng” Paris trở về quê hương của mình và ông đã mang theo món khoai tây chiên đặc thù Pháp quốc “frites”, kể từ đó món khoai tây đã được lột xác, Frites vang danh là thế, để rồi người Mỹ đã kết thêm cái đuôi “frites kiểu Mỹ” hầu dành công lao về mình. Các nhà hàng lớn nhỏ, các tiệm ăn điểm tâm, kể cả Mac Donald cũng coi “frites kiểu Mỹ “ là khoản thực đơn không thể thiếu. Frites kiểu Hoa Kỳ phổ biến đến mức độ người ta nghĩ ra nhiều phương pháp và dịch vụ khác nhau và đã dạy cho mọi người chiên khoai tây có bài bản, còn được gọi là “nhà hàng tại gia” để chúng ta tự phục vụ.
Khoai tây chiên, rán mang lại không biết bao nhiêu lợi nhuận cho mọi hình thức dịch vụ ăn uống. Tuy nhiên hình như vẫn chưa thỏa mãn “cái thùng không đáy” của các ông bà chủ nhân nhà hàng vẫn còn thèm thuồng lợi nhuận hơn nữa, chẳng còn nghĩ đến lương tâm, tình nhân đạo, họ đã chọn những loại khoai tây kém phẩm chất và chiên nấu chung với các loại dầu thảo mộc chứa nhiều độc tố. Frites ăn vẫn ngon miệng, nhưng rồi chúng ta phải mang theo các chứng bệnh tiềm ẩn hiểm nghèo như tim mạch, ung thư lúc nào không biết. Tất nhiên, đây không phải là tội lỗi của củ khoai, mà chính là do con người vô tâm.
Thú thật, hầu như mọi người trong chúng ta thương hay xử dụng khoai tây trong các bữa ăn, để tạo thêm sự hấp dẫn, nhưng đã chắc mấy ai hiểu biết được “nỗi lòng” của giống thực vật kỳ diệu này.
Bảo Quyên