TÔNG HUẤN ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN

TÔNG HUẤN VITA CONSECRATA

TÔNG HUẤN ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN
Vita consecrata

Mục lục

Dẫn nhập
Mở đầu
CHƯƠNG I – CONFESSIO TRINITATIS
        I. CA NGỢI THIÊN CHÚA BA NGÔI
        II. TỪ PHỤC SINH ĐẾN THỜI VIÊN MÃN
        III. TRONG GIÁO HỘI VÀ CHO GIÁO HỘI
        IV. ĐƯỢC TINH THẦN THÁNH THIỆN HƯỚNG DẪN
CHƯƠNG II – SIGNUM FRATERNITATIS
        I. NHỮNG GIÁ TRỊ THƯỜNG HẰNG
        II. TIẾP TỤC CÔNG TRÌNH CỦA THÁNH THẦN : TRUNG THÀNH TRONG ĐỔI MỚI
        III. NHÌN VỀ TƯƠNG LAI
CHƯƠNG III – SERVITIUM CARITATIS
        I. YÊU THƯƠNG TỚI CÙNG
        II. MỘT CHỨNG TÁ MANG TÍNH NGÔN SỨ TRƯỚC NHỮNG THÁCH ĐỐ LỚN
        III. VÀI LÃNH VỰC TRUYỀN GIÁO
        IV. DẤN THÂN ĐỐI THOẠI VỚI MỌI NGƯỜI
KẾT LUẬN
Phần Chú Thích

 

Dẫn nhập

Tông huấn Vita consecrata do Đức thánh cha Gio-an Phao-lô II ban hành ngày 25-3-1996, đúc kết những thành quả của Thượng hội đồng giám mục họp vào tháng 10 năm 1994. Cũng như những khoá họp trước đây, sau những phiên nhóm để phát biểu và thảo luận, các nghị phụ thảo ra các kiến nghị (53) để góp ý cho Đức thánh cha soạn văn kiện hậu Thượng hội đồng. Trong tông huấn, Đức Gio-an Phao-lô II đã trích dẫn các kiến nghị đó và sứ điệp Thượng hội đồng gửi Dân Thiên Chúa.

Sau nhập đề, tông huấn được chia thành ba chương, tương ứng với ba chiều kích của đời tu (x. số 13) : “Thánh hiến – hiệp thông – sứ mạng”, (hay có thể nói : “Hướng thượng – hướng nội – hướng ngoại”).

Trong phần nhập đề, sau khi giải thích lý do và mục đích của tông thư (số 1-4), Đức thánh cha đã rảo qua những hình thức tu trì trải qua lịch sử : đời đan tu (số 6), các trinh nữ, ẩn sĩ, quả phụ (số 7), các dòng chiêm niệm (số 8), các dòng hoạt động tông đồ (số 9), tu hội đời (số 10), tu đoàn tông đồ (số 11). Mỗi hình thức được mô tả với vài nét đại cương về linh đạo.

Chương một, dưới tựa đề “Confessio Trinitatis” (tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi), bao gồm nội dung thần học rất phong phú về đời thánh hiến, được phân tích dưới nhiều khía cạnh.

  1. Khía cạnh Ki-tô

Đời thánh hiến được trình bày như là cuộc “biến hình” (số 14), trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Ki-tô (assimilatio conformativa : số 16), đi theo Đức Ki-tô (sequela Christi) bằng việc hoạ lại nếp sống tại thế của Người (khiết tịnh, khó nghèo, vâng phục : số 14 ; 18 ; 22), tận hiến cho sứ mạng phục vụ Nước Thiên Chúa (số 22), thông dự vào mầu nhiệm Vượt Qua (số 23-24).

  1. Khía cạnh Ba Ngôi

Sự đồng hình với nếp sống Đức Ki-tô đương nhiên bao hàm tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa : Đức Ki-tô đã sống trọn tình con thảo với Chúa Cha. Tông thư đã đề cập tới Ba Ngôi khi xét tới nguồn gốc sự thánh hiến (số 17-19), ba lời khuyên Tin Mừng (số 20-21), đoàn sủng (số 36), sự thông hiệp cộng đoàn (số 41), huấn luyện (số 66), sứ mạng (số 72). Trước khi kết thúc, tông huấn đã dành số 111 để dâng lời khẩn cầu lên Chúa Ba Ngôi.

  1. Giáo Hội
    Đời sống thánh hiến nằm trong bản chất thánh thiện của Giáo Hội (số 3 ; 29). Giáo Hội có sứ mạng chuyển thông Đức Ki-tô cho nhân loại ; nhưng Đức Ki-tô không thể nào chỉ được chuyển thông bằng lời lẽ ý niệm mà còn bằng nếp sống nữa. Thêm vào đó, đời thánh hiến còn tượng trưng cho mối tình duy nhất mà Giáo Hội phải dành cho Đức Lang Quân (số 3 ; 34). Như vậy, đời thánh hiến gắn liền với chiều kích truyền giáo (số 25) và cánh chung của toàn thể Giáo Hội (số 26).
  2. Thánh Mẫu

Đức Ma-ri-a được trình bày như mẫu gương của đời thánh hiến (số 28)

  1. Mẫu gương trong việc đáp lại tiếng Chúa gọi
  2. Mẫu gương trong việc đi theo Chúa
  3. Mẫu gương trong việc thông dự vào mầu nhiệm Vượt Qua (số 23) ; mẫu gương cho tình yêu phong phú (số 34). Ngoài ra Đức Ma-ri-a còn là Mẹ của các người tận hiến, cầu bầu cho họ trung thành với ơn gọi. Tông thư kết thúc với lời nguyện dâng lên Đức Ma-ri-a (số 112).

Ngoài ra, còn nhiều khía cạnh thần học được đề cập tới, chẳng hạn :

Sự thánh hiến tu trì, tuy dựa trên sự thánh hiến do bí tích thánh tẩy, nhưng là một sự thánh hiến mới, do hậu quả của một ơn gọi mới (số 30). Do đó, đây là một bậc sống riêng biệt trong Giáo Hội (số 31-32).

Sự liên hệ chặt chẽ giữa tận hiến và sứ vụ (số 18 ; 22 ; 25 ; 27 ; 72).

Đoàn sủng của đời tận hiến nói chung và của mỗi tu hội nhận được qua vị sáng lập (số 19 ; 32 ; 36). Cần phải biết duy trì sự trung thành sáng tạo với đoàn sủng (số 36 ; 37 ; 74), khi canh tân việc huấn luyện (số 68) và hoạt động tông đồ (số 48 ; 63 ; 72).

Ba lời khuyên Tin Mừng nhằm hoạ lại nếp sống của Đức Ki-tô (số 18), mang giá trị tuyên xưng Đức Ki-tô trong tương quan với Chúa Cha (số 16) và biểu lộ tình yêu san sẻ của Ba Ngôi (số 21). Chúng cũng thăng tiến các xu hướng tự nhiên của con người (số 87-92).

Sau cùng thiết tưởng không thể bỏ qua một điểm mới của tông thư, đó là trình bày đời tu như là nỗ lực đi tìm cái đẹp (philocalia : số 19). Các tu sĩ bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa ; họ mê say chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Người (số 27), và đồng thời cố gắng tu bổ hình ảnh Thiên Chúa đã méo mó trên khuôn mặt của anh chị em đồng loại (số 75).

Chương hai trình bày đời tận hiến như là dấu chỉ huynh đệ, dựa theo khuôn mẫu thông hiệp của Ba Ngôi Thiên Chúa. Sự thông hiệp được xét tới dưới nhiều cấp độ :
Thông hiệp huynh đệ trong cộng đoàn (số 42-45).
Thông hiệp với Giáo Hội phổ quát và địa phương (số 46-51).
Thông hiệp giữa các dòng tu với nhau (số 52-53).
Thông hiệp với giáo dân (số 54-56).

Tiếp đó, tông huấn bàn tới ba vấn đề mà Thượng hội đồng đã nêu lên, đó là : nội vi dòng kín (số 59), các dòng hỗn hợp (số 61), các hình thức tu trì mới (số 62). Trên thực tế, Đức thánh cha chỉ cho thấy những góc cạnh của các vấn đề vừa nói, còn những giải pháp cụ thể thì được trao cho các uỷ ban chuyên môn cứu xét.

Ngoài ra trong chương này, chúng ta thấy vài đề tài khác không kém phần quan trọng, đó là : vai trò của phụ nữ (số 57-58) ; mục vụ tuyển mộ ơn gọi (số 64) ; việc đào tạo khởi đầu và liên tục (số 65-71).

Chương ba được dành cho sứ mạng của đời thánh hiến. Cũng như Đức Ki-tô được thánh hiến và sai vào thế gian, các người tận hiến cũng được sai đi vào đời để phục vụ tình yêu (số 72-75). Sau khi đã nhấn mạnh rằng sứ mạng quan trọng hơn cả mà Giáo Hội và nhân loại chờ mong ở các người tận hiến là đời sống thánh thiện (số 25) và đời sống huynh đệ của họ (số 72), tông huấn lược qua vài môi trường hoạt động tông đồ cố cựu hay cận đại của các tu hội, chẳng hạn : truyền giáo cho dân ngoại (số 75-80), phục vụ người nghèo (số 82) và người bệnh (số 83), môi trường giáo dục (số 96-97), truyền thông xã hội (số 99), công cuộc đối thoại đại kết hoặc liên tôn (số 100-103).

Các số 84-95 đã được dành để nói về đặc tính ngôn sứ của đời tận hiến, với những yêu sách của nó, đứng đầu là sự kết hiệp thân tình với Chúa (số 74 ; 84). Từ đó nảy sinh nhu cầu phải củng cố đời sống tâm linh, đặc biệt là khổ chế và cầu nguyện (số 38), và các phương thế tu đức cổ điển : suy niệm Lời Chúa (lectio divina), lãnh các bí tích đứng đầu là Thánh Thể, cử hành các giờ kinh phụng vụ, sám hối (số 94-95 ; 103).

Thiết tưởng cũng nên ghi nhận định nghĩa về “đời sống tâm linh” (vie spirituelle, spiritual life), “linh đạo” (spiritualité, spirituality) ở số 93 (xc. số 71), cũng như những đoạn mô tả linh đạo của các hình thức tu trì (6-11), hoặc những nét linh đạo của đời tận hiến nói chung : dâng hiến hoàn toàn (số 3 ; 17) ; thông hiệp (số 46 ; 51) ; đối thoại (số 74) ; tông đồ (số 67 ; 74) ; phục vụ (số 75). Sự “biện phân” (phân định : discernement) cũng được nói tới nhiều lần, cách riêng khi cần nhận ra những dấu chỉ thời đại (số 62 ; 73) và khi hội nhập văn hoá (số 80 ; 85).

MỞ ĐẦU

  1. Đời sống thánh hiến, bén rễ sâu trong gương sống và giáo huấn của Chúa Ki-tô, là một ân huệ Thiên Chúa Cha ban cho Giáo Hội Người qua trung gian của Thánh Thần. Nhờ việc tuyên giữ các lời khuyên Tin Mừng, các nét đặc trưng của Đức Giê-su – khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục – trở thành hữu hình giữa lòng thế giới như một gương mẫu thường hằng, và các tín hữu được mời gọi hướng nhìn về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa đã tác động trong lịch sử, nhưng còn đang chờ đạt tới viên mãn ở trên trời.

Qua các thời đại, luôn có những người nam nữ, sẵn sàng nghe theo tiếng gọi của Chúa Cha và sự thúc đẩy của Thánh Thần, đã chọn con đường đặc biệt để bước theo Đức Ki-tô, sequela Christi, để tự hiến cho Chúa với một trái tim “không chia sẻ” (x. 1 Cr 7,34). Như các thánh Tông Đồ, họ cũng đã từ bỏ mọi sự để ở với Người và giống như Người, ra tay phục vụ Thiên Chúa và anh chị em mình. Như thế họ đã góp phần vào việc biểu lộ mầu nhiệm và sứ mạng của Giáo Hội bằng muôn vàn đoàn sủng thuộc đời sống thiêng liêng và tông đồ mà Chúa Thánh Thần đã ban cho họ, và nhờ đó, họ cũng đã góp phần vào việc canh tân xã hội.

Tạ ơn về đời sống thánh hiến

  1. Vai trò của đời sống thánh hiến trong Giáo Hội quan trọng đến nỗi tôi đã quyết định triệu tập một Thượng hội đồng giám mục để đào sâu ý nghĩa và các viễn tượng tương lai của đời sống này, hướng về thiên niên kỷ mới đã gần kề. Cùng với các nghị phụ, tôi muốn có nhiều người tận hiến hiện diện tại Thượng hội đồng giám mục, ngõ hầu họ có thể đóng góp vào việc suy tư chung.

Tất cả chúng ta đều ý thức về sự phong phú mà ân huệ đời thánh hiến mang lại cho cộng đồng Giáo Hội, do các đoàn sủng và các định chế đa dạng của đời sống này. Cùng nhau, chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa vì các hội dòng và các tu hội hiện đang tận tuỵ sống đời chiêm niệm hoặc dấn thân trong việc tông đồ, vì các tu đoàn tông đồ, các tu hội đời và các nhóm khác đang sống đời thánh hiến, cũng như vì tất cả những người, tận đáy lòng, đang dâng đời mình cho Thiên Chúa qua một sự thánh hiến đặc biệt.

Thượng hội đồng giám mục đã cho thấy rõ tính cách phổ quát của đời sống thánh hiến đang hiện diện trong các Giáo Hội tại khắp nơi trên thế giới. Đời sống này kích thích và đi theo công cuộc truyền bá Tin Mừng tại các miền khác nhau trên thế giới ; và tại những nơi đó, người ta không chỉ bằng lòng với việc đón nhận với lòng biết ơn những tu hội từ bên ngoài đến, nhưng người ta còn thiết lập những tu hội mới, đa dạng trong các hình thái cũng như cách thức diễn tả.

Vì vậy, cho dù tại một số miền trên trái đất, các tu hội sống đời thánh hiến dường như đang trải qua một giai đoạn khó khăn, nhưng tại các miền khác, các tu hội lại đang phát triển với một sinh lực dồi dào lạ lùng : Điều này cho thấy việc lựa chọn hiến mình hoàn toàn cho Thiên Chúa trong Đức Ki-tô không hề tương phản với nền văn hoá và lịch sử của mỗi dân tộc. Tình trạng nở rộ này không chỉ liên quan đến Giáo Hội Công Giáo, nhưng cũng đặc biệt sống động trong nếp sống đan tu của các Giáo Hội Chính Thống, nơi mà đời đan tu là một nét cốt yếu của Giáo Hội. Đời sống thánh hiến đang được bén rễ hay phục hồi trong các Giáo Hội và các giáo đoàn Tin Lành như là dấu chỉ của một ân huệ chung được ban cho tất cả các môn đệ của Đức Ki-tô. Nhận xét này thúc đẩy thêm công cuộc đại kết đang ao ước đạt tới sự hiệp thông ngày càng sâu rộng hơn giữa các Ki-tô hữu, “ngõ hầu thế gian tin” (Ga 17,21).

Đời sống thánh hiến, ân huệ Thiên Chúa ban cho Giáo Hội

  1. Sự hiện diện phổ quát và chứng tá Tin Mừng của đời sống thánh hiến cho thấy rõ rằng đời sống này không phải là một cái gì lẻ loi và bên lề, nhưng là một thực tại liên hệ đến toàn thể Giáo Hội. Tại Thượng hội đồng giám mục, các giám mục đã nhiều lần nhắc lại : De re nostra agitur, “đây là một vấn đề liên hệ đến chúng ta” (1). Trong thực tế, đời sống thánh hiến nằm ngay giữa lòng Giáo Hội như một yếu tố quyết định đối với sứ mạng của Giáo Hội, bởi vì đời sống này “biểu thị rõ ràng bản tính sâu xa của ơn gọi Ki-tô giáo” (2) và tình trạng toàn thể Giáo Hội-Hiền Thê đang ra sức vươn tới chỗ được kết hiệp với Đấng Phu Quân duy nhất (3). Thượng hội đồng giám mục nhiều lần khẳng định rằng đời sống thánh hiến không chỉ đóng vai trò trợ giúp và nâng đỡ Giáo Hội trong quá khứ, nhưng còn là một ân huệ quý báu và cần thiết cho hiện tại và tương lai của Dân Thiên Chúa, bởi vì đời sống này là một phần sâu xa của nếp sống, sự thánh thiện và sứ mạng của Dân Thiên Chúa (4).

Các khó khăn mà hiện nay một số tu hội đang gặp phải tại nhiều nơi trên thế giới không cho phép nghi ngờ chút nào về việc tuyên khấn các lời khuyên Tin Mừng là một thành phần cơ bản của đời sống Giáo Hội, và thôi thúc Giáo Hội ngày càng phải trung thành hơn với Tin Mừng (5). Trong lịch sử, người ta có thể sẽ còn thấy những hình thức khác nữa của đời thánh hiến, nhưng sẽ không bao giờ thay đổi bản chất của một chọn lựa được diễn tả ra bằng sự hiến mình triệt để vì yêu mến Chúa Giê-su và vì yêu thương mỗi thành viên của gia đình nhân loại trong Người. Dân Ki-tô hữu tiếp tục có sự đảm bảo này, một đảm bảo từng làm phấn khởi vô số người qua các thời đại, vì biết rõ rằng họ có thể được các tâm hồn quảng đại nâng đỡ mạnh mẽ trong cuộc hành trình tiến về quê hương trên trời.

Thâu hoạch các hoa trái của Thượng hội đồng giám mục

  1. Đáp lại nguyện vọng của khoá họp thường kỳ của Thượng hội đồng giám mục, được triệu tập để suy nghĩ về đề tài “đời sống thánh hiến và sứ mạng của đời sống này trong Giáo Hội và trong thế giới”, tôi dự định giới thiệu trong tông huấn này những hoa trái của Thượng hội đồng (6), và trình bày cho tất cả các tín hữu, – các giám mục, linh mục, phó tế, những người được thánh hiến và giáo dân, cũng như cho tất cả những người quan thiết -, những điều kỳ diệu mà Chúa còn muốn thực hiện hôm nay qua đời sống thánh hiến.

Các phiên họp trước đây của Thượng hội đồng đã bàn về giáo dân và linh mục ; lần này Thượng hội đồng bổ túc việc cứu xét có hệ thống những dữ kiện đặc thù tiêu biểu cho các bậc sống Chúa Giê-su đã muốn cho Giáo Hội của Người. Quả vậy, đang khi Công Đồng Va-ti-ca-nô II đề cao thực tại quan trọng là sự hiệp thông trong Giáo Hội, và tất cả các đoàn sủng đều quy về việc xây dựng Thân Thể Đức Ki-tô và chu toàn sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới ; vào những năm gần đây, người ta cảm thấy nhu cầu cần phải giải thích rõ ràng hơn căn tính của những bậc sống khác nhau, ơn gọi và sứ mạng của các bậc sống ấy trong Giáo Hội. Quả thế, trong Giáo Hội, hiệp thông không có nghĩa là đơn dạng, nhưng là một ân huệ của Thánh Thần, Đấng tác động với các đoàn sủng và các bậc sống đa dạng. Các bậc sống càng được tôn trọng căn tính bao nhiêu thì sẽ càng hữu ích cho Giáo Hội và cho sứ mạng của Giáo Hội bấy nhiêu. Thực vậy, bất cứ ân huệ nào Thánh Thần ban đều nhằm để ta làm sinh hoa kết quả cho Chúa (7), giúp tăng triển tình huynh đệ và hoạt động truyền giáo.

Công trình của Thánh Thần trong các hình thái sống thánh hiến khác nhau

  1. Làm sao không nhớ lại với lòng biết ơn Thánh Thần những hình thái phong phú đời sống thánh hiến đã được Người khơi lên qua dòng lịch sử và hôm nay còn đang hiện diện trong lòng Giáo Hội ? Các hình thái ấy có thể ví như một cây nhiều cành (8), cắm rễ sâu vào trong Tin Mừng và sản sinh hoa quả dồi dào cho tất cả các thời đại Giáo Hội. Quả là phong phú biết mấy ! Khi kết thúc Thượng hội đồng, chính tôi cảm thấy cần phải nêu bật sự hiện diện thường hằng của yếu tố này trong lịch sử Giáo Hội : đó là đoàn các đấng sáng lập nam nữ, các vị thánh nam nữ đã chọn Đức Ki-tô bằng cách chọn sống Tin Mừng triệt để và phục vụ anh chị em mình, đặc biệt những người nghèo khổ và bị bỏ rơi (9). Công việc phục vụ ấy cho thấy rõ ràng đời sống thánh hiến thật đang biểu lộ được tính duy nhất của điều răn yêu thương, nhờ dây liên kết bất khả phân ly giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu với tha nhân.

Thượng hội đồng giám mục đã nhắc đến Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động không ngừng qua các thời đại, bung mở những hoa trái phong phú do việc thực thi các lời khuyên Tin Mừng nhờ các đoàn sủng khác nhau. Nhờ đó, Thánh Thần làm cho mầu nhiệm của Đức Ki-tô mãi mãi hiện diện trong Giáo Hội và trong thế giới, trong thời gian và không gian.

Đời sống đan tu bên Đông Phương và Tây Phương

  1. Các nghị phụ thuộc các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương và các đại biểu của các Giáo Hội khác bên Đông Phương đã nêu bật những giá trị Tin Mừng của đời sống đan tu (10) xuất hiện từ những buổi đầu của Ki-tô giáo và hôm nay còn đang nở rộ trên lãnh thổ của họ, nhất là trong các Giáo Hội Chính Thống.

Kể từ những thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội, có những người nam nữ cảm thấy được kêu gọi noi theo thân phận tôi tớ của Ngôi Lời Nhập Thể. Qua việc tuyên khấn tu trì, họ bước theo Người bằng cách sống chuyên biệt và triệt để các đòi hỏi phát xuất từ bí tích thánh tẩy, đó là sự tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua, của cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Nhờ mang Thập Giá trên mình (staurophóroi), họ đã cố gắng trở thành những người mang Thánh Thần (pneumatophóroi), những con người thần khí có khả năng làm cho lịch sử được phồn thịnh cách bí nhiệm, nhờ việc ca ngợi và chuyển cầu thường xuyên, nhờ những lời khuyên bảo tu đức và những công tác bác ái.

Nhằm biến đổi bộ mặt của thế giới và cuộc đời, trong khi chờ đợi được hưởng kiến vĩnh viễn dung nhan Thiên Chúa, truyền thống đan tu Đông Phương dành ưu tiên cho việc hoán cải, từ bỏ bản thân và thống hối, tìm kiếm hésychia (nghĩa là sự bình an nội tâm), và cầu nguyện thường xuyên, chay tịnh và canh thức, chiến đấu thiêng liêng và thinh lặng, niềm vui phục sinh trong sự hiện diện với Đức Chúa và trong niềm chờ mong Người đến vĩnh viễn, trao hiến bản thân và tài sản của mình, hoặc trong sự hiệp thông thánh thiện của đan viện, hoặc trong đời ẩn tu cô tịch (11).

Tây Phương cũng đã thực hành đời sống đan tu ngay vào những thế kỷ đầu của Giáo Hội và có kinh nghiệm về những lối diễn tả rất đa dạng trong các hình thức cộng đoàn hay ẩn tu. Trong hình thái hiện nay, nếp sống đan tu Tây Phương đặc biệt cảm hứng từ thánh Biển Đức, thừa hưởng gia sản của đông đảo những người nam nữ đã từ bỏ lối sống theo thế gian, tìm kiếm Thiên Chúa và hiến mình cho Người, “không ưa chuộng gì khác ngoài tình yêu Đức Ki-tô” (12). Ngày nay, các đan sĩ vẫn còn cố gắng nối kết hài hoà đời sống nội tâm với việc làm khi cam kết theo Tin Mừng là sẽ hoán cải đời sống, vâng phục và vĩnh cư, cũng như khi chuyên cần thực thi việc suy gẫm Lời Chúa (lectio divina), cử hành phụng vụ, cầu nguyện. Ở giữa lòng Giáo Hội và thế giới, các đan viện đã và còn đang là một dấu chỉ hùng hồn về sự hiệp thông, nơi ân cần tiếp đón những người đi tìm Thiên Chúa và những thực tại thiêng liêng, những trường học về đức tin và những trung tâm đích thực về học vấn, đối thoại và văn hoá nhằm xây dựng đời sống Giáo Hội và chính thành đô trần thế, trong thời gian mong đợi thành đô thiên quốc.

Hàng các trinh nữ, các ẩn sĩ, các quả phụ

  1. Thật là có lý do để vui mừng và hy vọng khi thấy ở thời đại chúng ta lại xuất hiện hàng ngũ cố cựu của các trinh nữ, với những vết tích được ghi lại trong các cộng đoàn Ki-tô hữu kể từ thời các tông đồ (13). Các trinh nữ được giám mục giáo phận thánh hiến, họ kết nối một quan hệ mật thiết với Giáo Hội. Họ cam kết phục vụ Giáo Hội, tuy vẫn sống ngoài đời. Dù ở một mình hoặc kết đoàn với nhau, họ trở thành một hình ảnh cánh chung của Hiền Thê thiên giới và của đời sống mai hậu, thời sau cùng khi Giáo Hội sẽ sống trọn tình yêu dành cho Đức Ki-tô là Phu Quân mình.

Các ẩn sĩ, nam nữ, dù thuộc về các dòng cổ truyền hoặc thuộc về các tu hội mới lập, hoặc trực tiếp lệ thuộc giám mục, tất cả đều làm chứng về tính chóng qua của thời hiện tại bằng việc tách biệt khỏi thế giới về tâm hồn và về nếp sống bên ngoài : Bằng chay tịnh và kinh nguyện, họ làm chứng rằng con người không chỉ sống nhờ cơm bánh, mà còn nhờ Lời Thiên Chúa nữa (x. Mt 4,4). Đời sống “nơi sa mạc” này là một lời mời gọi những người đồng loại và chính cộng đồng Giáo Hội đừng bao giờ để mất hút ơn gọi tột đỉnh, đó là mãi mãi ở kề bên Chúa.

Ngày nay người ta thấy tái hiện việc thánh hiến các quả phụ (14), đã có từ thời các tông đồ (x. 1 Tm 5,5.9-10 ; 1 Cr 7,8), cũng như việc thánh hiến các người goá vợ. Bằng lời khấn khiết tịnh vĩnh viễn vì Nước Thiên Chúa, những người ấy tự hiến mình theo thân phận hiện tại để sống đời cầu nguyện và phục vụ Giáo Hội.

Các dòng hoàn toàn sống đời chiêm niệm

  1. Các dòng hoàn toàn sống đời chiêm niệm, gồm những người nữ hoặc nam, là một lý do hãnh diện cho Giáo Hội và một nguồn mạch đưa lại những ân sủng thiên quốc. Nhờ nếp sống và sứ mạng của họ, những phần tử thuộc các dòng ấy bắt chước Đức Ki-tô cầu nguyện trên núi, họ làm chứng về quyền chủ tể của Thiên Chúa trên lịch sử, họ tiên báo vinh quang mai ngày sẽ đến.

Trong cô tịch và thinh lặng, bằng việc lắng nghe Lời Thiên Chúa, cử hành phụng vụ, khổ chế cá nhân, kinh nguyện, hãm mình và hiệp thông vào tình yêu huynh đệ, họ hướng toàn thể đời sống và toàn thể sinh hoạt vào việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa. như thế họ cống hiến cho cộng đồng Giáo Hội một chứng tá độc đáo về tình yêu của Giáo Hội dành cho Chúa, và góp phần với sức phong nhiêu tông đồ huyền diệu vào sự tăng trưởng của Dân Thiên Chúa (15).

Vì vậy, thật hợp lý khi ước mong rằng các hình thái khác nhau của nếp sống chiêm niệm sẽ càng ngày càng được phổ biến trong các Giáo Hội trẻ, như là dấu hiệu cho thấy Tin Mừng đã bén rễ sâu, đặc biệt là tại các miền mà các tôn giáo khác đã bành trướng hơn. Đó cũng là cơ hội để cho thấy sinh lực của các truyền thống khổ chế và thần bí của Ki-tô giáo cũng như hỗ trợ cho cuộc đối thoại liên tôn giáo nữa (16).

Đời sống tu trì tông đồ

  1. Bên Tây Phương, trải qua các thế kỷ người ta thấy nở rộ nhiều hình thức đời sống tu trì, trong đó vô số người đã từ bỏ thế gian, hiến mình cho Thiên Chúa bằng việc công khai tuyên khấn các lời khuyên Tin Mừng theo một đoàn sủng chuyên biệt và một hình thức sống chung bền vững, nhằm thực hiện những hoạt động tông đồ khác nhau phục vụ Dân Thiên Chúa (17). Đó là lối sống của nhiều gia đình kinh sĩ dòng, các dòng hành khất, các giáo sĩ dòng, và nói chung các hội dòng nam nữ hiến mình hoạt động tông đồ và truyền giáo và nhiều công tác do đức bác ái Ki-tô giáo thúc đẩy.

Đây là một chứng tá đa dạng tuyệt diệu, phản ánh các ân sủng khác nhau được Thiên Chúa ban cho các đấng sáng lập nam nữ. Do biết mở lòng đón tác động của Chúa Thánh Thần, các vị đã biết minh giải các “dấu chỉ của thời đại” và đáp trả sáng suốt những đòi hỏi dần dà xuất hiện. Theo vết chân các vị, rất nhiều người khác dùng lời nói và hành động làm cho Tin Mừng nhập thể vào cuộc sống của họ, để biểu lộ trong thời đại của họ sự hiện diện sống động của Đức Giê-su, Đấng được thánh hiến ưu việt và là Tông Đồ của Chúa Cha. Các tu sĩ nam nữ phải tiếp tục lấy Chúa Ki-tô làm gương mẫu ở bất cứ thời nào, bằng cách cầu nguyện để duy trì sự hiệp thông tâm tình sâu xa với Người (x. Pl 2,5-11), hầu toàn thể đời sống họ được thấm nhuần tinh thần tông đồ và toàn thể hoạt động tông đồ của họ thấm nhuần tinh thần chiêm niệm (18).

Các tu hội đời

  1. Chúa Thánh Thần, Đấng kiến tạo lỗi lạc các đoàn sủng khác nhau, đã khơi lên trong thời đại chúng ta nhiều cách thức mới diễn tả đời sống thánh hiến. Theo kế hoạch của Chúa quan phòng, điều này dường như đáp ứng những nhu cầu mới mà Giáo Hội hôm nay đang phát hiện khi muốn chu toàn sứ mạng của mình trong thế giới.

Trước tiên, người ta nghĩ đến các tu hội đời, có các thành viên muốn sống sự thánh hiến cho Thiên Chúa ở trong thế gian, bằng việc tuyên khấn các lời khuyên Tin Mừng trong khung cảnh những cơ cấu trần thế. Như thế họ muốn trở nên men khôn ngoan và chứng tá về ân sủng giữa lòng nếp sống văn hoá, kinh tế và chính trị. Bằng một đường lối kết hợp đời sống trần thế với sự thánh hiến của riêng họ, họ muốn đưa vào trong xã hội những năng lực mới của Nước Chúa Ki-tô, khi tìm cách biến đổi gương mặt của thế giới từ nội tại nhờ sức mạnh của các mối phúc. Nhờ vậy, một đàng họ thuộc trọn về Thiên Chúa, hiến mình trọn vẹn để phục vụ Người, đàng khác hoạt động của họ trong hoàn cảnh sống giáo dân thông thường, dưới tác động của Thánh Thần, góp phần vào việc chiếu dọi ánh sáng Tin Mừng vào các thực tại trần thế. Như thế, các tu hội đời, theo đặc tính riêng của mỗi tu hội, đảm bảo cho Giáo Hội được hiện diện hữu hiệu trong xã hội (19).

Các tu hội đời của các giáo sĩ cũng thực thi một chức năng hữu ích : các linh mục thuộc hàng giáo sĩ giáo phận, cho dù có một số vị được phép nhập tịch vào tu hội của họ, hiến mình cho Đức Ki-tô qua việc thực thi các lời khuyên Tin Mừng thể theo một đoàn sủng chuyên biệt. Họ tìm thấy trong các hoa trái thiêng liêng phong phú của tu hội mà mình làm thành viên, một sự hỗ trợ quan trọng để sống sâu đậm linh đạo riêng của chức linh mục và như thế, làm men hiệp thông và quảng đại hoạt động tông đồ giữa các anh em đồng nghiệp.

Các tu đoàn tông đồ

  1. Các tu đoàn tông đồ hay còn gọi là tu đoàn giữ đời sống chung, dành cho nam giới và nữ giới, cũng đáng được nhắc đến. Họ theo đuổi với phong cách riêng một mục tiêu chuyên biệt tông đồ hoặc truyền giáo. Trong nhiều tu đoàn, các thành viên cam kết tuân giữ các lời khuyên Tin Mừng bằng những dây ràng buộc thánh mà Giáo Hội chính thức nhìn nhận. Tuy nhiên, ngay trong trường hợp này, sự thánh hiến đặc biệt của họ mang tính cách khác với các dòng tu và các tu hội đời. Cần phải bảo vệ và thăng tiến căn tính của lối sống này ; trong các thế kỷ vừa qua, lối sống này đã sản sinh ra biết bao hoa trái về đời sống thánh thiện và tông đồ, nhất là trong lãnh vực bác ái và truyền bá Tin Mừng tại các miền truyền giáo (20).

Những hình thức mới mẻ của đời sống thánh hiến

  1. Ngày này vẻ trẻ trung trường cửu của Giáo Hội vẫn còn được biểu lộ : trong các thập niên vừa qua, sau Công Đồng Va-ti-ca-nô II, người ta đã thấy xuất hiện những hình thái mới mẻ hoặc được đổi mới của đời thánh hiến phần lớn là những tu hội cũng giống như các tu hội đã có trước đây song mang theo những hướng đi mới về linh đạo hay hoạt động tông đồ. Sinh lực của họ cần được quyền bính Giáo Hội chuẩn nhận ; Giáo Hội có nhiệm vụ tiến hành những lượng định cần thiết, vừa để đánh giá tính trung thực của mục tiêu đã gợi hứng cho họ, vừa để tránh nhân thêm quá mức những định chế tương tự, đưa đến nguy cơ phân mảnh tai hại thành những nhóm quá nhỏ. Trong những trường hợp khác, phải nói là những kinh nghiệm độc đáo đang đi tìm một căn tính riêng trong Giáo Hội và đang chờ đợi sự nhìn nhận chính thức về phía Toà Thánh, vì là cơ quan duy nhất có thẩm quyền quyết định trong lãnh vực này (21).

Các hình thái mới của đời thánh hiến, cộng thêm vào những hình thái cũ, đang làm chứng cho thấy việc dâng hiến toàn thân cho Thiên Chúa, lý tưởng của cộng đoàn các thánh tông đồ và những đoàn sủng của các vị sáng lập vẫn còn có khả năng thu hút thế hệ hiện tại. Các hình thái này cũng là dấu chỉ cho thấy các ân điển của Chúa Thánh Thần bổ túc lẫn cho nhau.

Tuy nhiên trong sự mới mẻ, Thánh Thần không thể nào mâu thuẫn với chính mình đâu ! Bằng chứng là các hình thái mới của đời thánh hiến đã không thay thế các hình thái có trước. Mặc dầu có sự đa dạng như thế, nhưng tính duy nhất vẫn được duy trì, bởi vì chỉ có một tiếng gọi duy nhất mời bước theo Đức Giê-su khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục, để tìm kiếm đức ái toàn hảo. Tiếng gọi ấy, cũng như đã đánh dấu các hình thái tận hiến trước đây, cần phải biểu hiện nơi các hình thái được coi là mới nữa.

Mục tiêu của tông huấn

  1. Thu lượm hoa trái của Thượng hội đồng trong tông huấn này, tôi muốn ngỏ lời với toàn thể Giáo Hội, để giới thiệu không những cho các người sống đời thánh hiến, mà còn cho cả các vị mục tử và các tín hữu, những thành quả của một cuộc trao đổi sôi nổi, được Chúa Thánh Thần dẫn dắt nhờ linh ân chân lý và tình yêu của Người.

Trong những năm canh tân này, đời sống thánh hiến trải qua một giai đoạn tế nhị và khó khăn, thật ra cũng y như các hàng ngũ khác của Giáo Hội. Đó là một giai đoạn phong phú đầy hy vọng, những thử nghiệm và những đề nghị canh tân nhằm đưa lại một sức mạnh tươi trẻ cho việc tuyên khấn các lời khuyên Tin Mừng. Nhưng cũng là một thời đầy căng thẳng và thử thách, thời mà những kinh nghiệm quảng đại không phải lúc nào cũng thu hoạch được kết quả tích cực.

Tuy nhiên các khó khăn không được làm cho thất vọng. Trái lại, cần phải dấn thân, bởi vì Giáo Hội cần có sự đóng góp về thiêng liêng và tông đồ của một đời thánh hiến được đổi mới và củng cố. Qua tông huấn hậu Thượng hội đồng giám mục đây, tôi muốn ngỏ lời với các cộng đoàn tu sĩ và với những người đang sống đời thánh hiến dựa theo tinh thần đã từng hướng dẫn bức thư mà Công Đồng Giê-ru-sa-lem gửi đến các Ki-tô hữu An-ti-ô-khi-a, và tôi hy vọng rằng ngày hôm nay, kinh nghiệm thời xưa đó lại được tái diễn : “Đọc thư xong, họ vui mừng vì lời khích lệ đó” (Cv 15,31). Hơn nữa tôi cũng nuôi hy vọng gia tăng niềm vui của toàn Dân Thiên Chúa, vì được giúp hiểu biết rõ hơn về đời sống thánh hiến, họ sẽ có ý thức hơn khi tạ ơn Đấng Toàn Năng về ân huệ lớn lao ấy.

Với một thái độ cởi mở chân tình đối với các nghị phụ của Thượng hội đồng, tôi đã quyết tâm có mặt thường xuyên tại phiên họp, và theo dõi các cuộc đóng góp quý giá diễn ra qua các buổi làm việc của Thượng hội đồng. Trong thời gian ấy, tôi đã cố gắng cống hiến cho toàn Dân Thiên Chúa những huấn giáo có hệ thống về đời sống thánh hiến trong Giáo hội. Trong các bài ấy, tôi đã nhắc lại giáo huấn hàm chứa trong các bản văn của Công Đồng Va-ti-ca-nô II. Công Đồng trở thành một điểm quy chiếu rạng ngời cho những triển khai giáo lý về sau, và cho công việc suy tư của Thượng hội đồng giám mục trong những tuần lễ làm việc bận rộn (22).

Tôi tin tưởng rằng các con cái Giáo Hội, đặc biệt những người sống đời thánh hiến, sẽ sẵn sàng đón tiếp tông huấn này với cả tâm hồn. Tôi ước mong công việc suy tư sẽ còn được tiếp tục, nhằm giúp đào sâu ân huệ lớn lao là đời sống thánh hiến, trong ba chiều kích thánh hiến, hiệp thông, và sứ mạng. Tôi ước mong rằng những người nam nữ sống đời thánh hiến, nhờ nhất trí hoàn toàn với Giáo Hội và huấn quyền, sẽ thấy phấn khởi thêm để đối đầu với các thách đố của thời đại, với tinh thần siêu nhiên và tông đồ.

CHƯƠNG I – CONFESSIO TRINITATIS

ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN TRONG NGUỒN MẠCH MẦU NHIỆM ĐỨC KI-TÔ VÀ BA NGÔI

Bức hoạ Đức Ki-tô biến hình

  1. Ta phải tìm nền tảng Tin Mừng của đời sống thánh hiến trong tương quan đặc biệt mà Đức Giê-su, suốt cuộc sống trần thế, đã thiết lập với một số môn đệ. Người mời các ông không những đón tiếp Nước Thiên Chúa vào trong đời sống các ông, mà còn dùng đời sống các ông để phục vụ sự nghiệp ấy, bằng cách bỏ mọi sự và bắt chước sát kiểu sống của Người.

Suốt dòng lịch sử, nhiều người được thánh tẩy đã được mời gọi sống cuộc đời “giống hình ảnh Chúa Ki-tô”. Nhưng điều này chỉ có thể thực hiện được nhờ một ơn gọi đặc biệt và nhờ một ơn huệ đặc biệt của Thánh Thần. Trong đời sống này, sự thánh hiến trong phép rửa trở thành một lời đáp trả triệt để khi bước theo Đức Ki-tô – sequela Christi, bằng việc thực thi các lời khuyên Tin Mừng, mà lời khuyên đầu tiên và lớn nhất là dây liên kết thánh thiêng của đức khiết tịnh vì Nước Trời (23). Hình thức theo Đức Ki-tô, sequela Christi, luôn luôn bắt nguồn từ sáng kiến của Chúa Cha, có một chiều kích chủ yếu mang tính Ki-tô và Thần Khí ; điều này diễn tả cách đặc biệt sống động đặc tính Ba Ngôi của đời sống Ki-tô hữu, và có thể nói đó là sự tiên báo cuộc hoàn tất cánh chung mà toàn thể Giáo Hội đang hướng tới (24).

Trong Tin Mừng, nhiều cử chỉ và lời nói của Đức Ki-tô có thể soi sáng ý nghĩa của ơn gọi đặc biệt này. Tuy nhiên, để nắm bắt được những nét cốt yếu của ơn gọi này trong một cái nhìn tổng quát, nên chiêm ngắm dung nhan rạng rỡ của Đức Ki-tô trong mầu nhiệm biến hình. Có cả một truyền thống thiêng liêng cổ xưa quy về bức hoạ này, truyền thống nối kết đời sống chiêm niệm với việc Đức Giê-su cầu nguyện “ở trên núi” (25). Ngoài ra, các chiều kích “hoạt động” của đời sống thánh hiến cũng được hàm chứa trong đó, bởi vì cuộc biến hình không chỉ mạc khải vinh quang của Đức Ki-tô, nhưng còn chuẩn bị chấp nhận thập giá của Người. Biến cố này giả thiết một cuộc “lên núi” và một cuộc “xuống núi” : các môn đệ đã từng hưởng tình nghĩa thiết của Thầy, trong khoảnh khắc được bao trùm trong ánh huy hoàng của đời sống Ba Ngôi và bởi sự hiệp thông các thánh, cảm thấy như được đưa vào thế giới vĩnh cửu. Thế rồi bất chợt họ phải trở lại với thực tế thường nhật ; họ chỉ còn thấy một mình Đức Giê-su trong tình trạng khiêm nhường của bản tính nhân loại và họ được mời trở xuống thung lũng, để chia sẻ những nỗ lực của Người trong việc thực hiện chương trình của Thiên Chúa và can đảm đi vào con đường thập giá.

“Rồi người biến đổi hình dạng trước mặt các ông …”

  1. “Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và kìa các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người. Bấy giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng : ÀLạy Ngài, chúng con ở đây thật là đẹp ! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, Ngài một cái, ông Mô-sê một cái, và ông Ê-li-a một cái.’ Ông còn đang nói, thì kìa có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng : ÀĐây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người.’ Nghe vậy các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất. Bầy giờ Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo : ÀChỗi dậy đi, đừng sợ !’ Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi.” (Mt 17,1-9)

Biến cố biến hình đánh dấu một thời điểm quyết định trong sứ vụ của Đức Giê-su. Đây là một biến cố mạc khải nhằm củng cố niềm tin trong tâm hồn các môn đệ, chuẩn bị họ đi vào tấn bi kịch thập giá và báo trước vinh quang Phục Sinh. Giáo Hội vẫn thường xuyên ôn lại mầu nhiệm này, vì Giáo Hội là đoàn dân đang tiến về cuộc gặp gỡ cánh chung với Chúa của mình. Cũng như ba môn đệ được tuyển chọn, Giáo Hội chiêm ngưỡng gương mặt được biến hình của Đức Ki-tô, để được củng cố trong niềm tin và để khỏi hoang mang trước dung nhan tan nát của Người trên thập giá. Trong cả hai trường hợp, Giáo Hội là Hiền Thê đối diện với Đức Lang Quân, Giáo Hội thông dự vào mầu nhiệm của Người và được vây bọc trong ánh sáng của Người.

Ánh sáng này soi sáng tất cả mọi con cái Giáo Hội, được kêu gọi theo Đức Ki-tô khi chọn Người làm ý nghĩa tối hậu của đời sống họ, đến độ có thể nói với thánh Tông Đồ : “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô” (Pl 1,21). Những người được gọi sống đời thánh hiến, chắc chắn có một kinh nghiệm có một không hai về ánh sáng phát xuất từ Ngôi Lời nhập thể. Quả thế, việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm biến họ trở thành những dấu chỉ mang tính ngôn sứ cho cộng đoàn anh em họ và cho thế giới ; họ nhất thiết phải rung động cách đặc biệt khi nghe những lời đầy hứng khởi của ông Phê-rô : “Chúng con ở đây, thật là đẹp !” (Mt 17,4). Những lời ấy biểu lộ định hướng quy Ki-tô của toàn thể đời sống Ki-tô hữu. Tuy nhiên chúng còn diễn tả mạnh mẽ đặc tính triệt để của ơn gọi vào đời tận hiến : đối với chúng con, thật là đẹp khi được ở với Thầy, khi được hiến mình cho Thầy, khi dồn hết cuộc đời chúng con cho một mình Thầy. Quả thế, người nào nhận được ân sủng hiệp thông tình yêu đặc biệt với Đức Ki-tô, thì cảm thấy như sửng sốt bởi ánh sáng chói loà : “Người là Đấng tuyệt mỹ giữa thế nhân” (Tv 45 (46),3), là Đấng vô song.

“Đây là Con yêu dấu của Ta, các con hãy vâng nghe lời Người !”

  1. Trong cơn xuất thần, ba môn đệ nhận ra tiếng Chúa Cha kêu gọi lắng nghe Đức Ki-tô, đặt tất cả niềm tin tưởng nơi Người, coi Người là trung tâm đời mình. Tiếng nói từ trên cao lại đào sâu thêm lời gọi mà chính Đức Giê-su, khi khởi đầu cuộc đời công khai, đã ngỏ với họ, mời họ hãy theo Người, hãy từ bỏ cuộc sống bình thường, và hãy vào sống trong tình nghĩa thiết với Người. Chính do ơn đặc biệt là được sống trong tình thân thiết với Chúa mà phát xuất, trong đời sống thánh hiến, khả năng và đòi hỏi hiến mình trọn vẹn bằng việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm. Các lời khuyên Phúc Âm còn là cái gì vượt xa hẳn sự từ bỏ ; chúng mang ý nghĩa như là đón tiếp mầu nhiệm Đức Ki-tô một cách đặc biệt, được sống giữa lòng Giáo Hội.

Quả thế, trong một đời sống Ki-tô hữu duy nhất, có nhiều ơn gọi khác nhau, ví như những tia sáng phát xuất từ ánh sáng duy nhất của Đức Ki-tô, “phản chiếu trên dung nhan Giáo Hội” (26). Các giáo dân, do đặc tính trần thế của ơn gọi họ, phản ánh mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, đặc biệt về điểm Người là An-pha và Ô-mê-ga (Nguyên thuỷ và Cùng đích) của thế giới, là nền tảng và mức đo lường giá trị của tất cả các thực tại thụ tạo. Còn các giáo sĩ là những hình ảnh sống động của Đức Ki-tô thủ lãnh và mục tử, đang dẫn dắt dân Người trong thời gian của Nước Chúa “đã có đó rồi và chưa đến”, trong khi chờ đợi Người đến trong vinh quang. Đời sống thánh hiến có bổn phận cho thấy Con Thiên Chúa làm người là đích điểm cánh chung của hết mọi sự, là ánh huy hoàng làm mờ nhạt mọi ánh sáng khác, là vẻ đẹp vô biên duy nhất có thể lấp đầy trái tim con người. Trong đời sống thánh hiến, vấn đề không phải chỉ là theo Chúa Ki-tô với cả con tim, bằng cách yêu mến Người hơn cha mẹ mình, hơn con trai hay con gái mình” (x. Mt 10,37), như mỗi môn đệ đều phải làm, nhưng còn là sống và diễn tả điều đó bằng việc biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, bằng một cuộc gắn bó triệt để, báo trước sự hoàn thiện cánh chung, tuỳ theo các đoàn sủng khác nhau và trong mức độ có thể đạt được trong thời gian.

Quả thế, qua việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm, người được thánh hiến không chỉ bằng lòng với việc đã chọn Đức Ki-tô làm ý nghĩa đời mình, nhưng còn tìm cách diễn lại nơi chính mình, trong mức độ có thể, “nếp sống Con Thiên Chúa đã sống khi Người xuống thế” (27). Khi ôm ấp sự trinh khiết, họ nhận tình yêu khiết trinh của Đức Ki-tô làm của mình và tuyên xưng với thế giới rằng Người là Con Một, đồng nhất với Chúa Cha (x. Ga 10,30 ; 14,11) ; khi bắt chước sự nghèo khó của Người, họ tuyên xưng rằng Người Con đón nhận mọi sự từ Chúa Cha và dâng mọi sự lại cho Chúa Cha vì yêu thương (x. Ga 17,7.10) ; khi gắn bó với mầu nhiệm vâng phục hiếu thảo của Người bằng lễ hy sinh tự do của mình, họ tuyên xưng Người là Đấng được yêu thương và Đấng yêu thương vô biên, là Đấng chỉ vui thoả khi ở trong ý muốn của Chúa Cha (x. Ga 4,34), vì Người hoàn toàn kết hợp với Chúa Cha và tuỳ thuộc Chúa Cha trong mọi sự.

Do việc trở nên “đồng hình đồng dạng” với mầu nhiệm Đức Ki-tô như thế, đời sống thánh hiến thể hiện theo một danh nghĩa đặc biệt việc tuyên xưng Chúa Ba Ngôi (confession Trinitatis), đặc điểm của toàn thể đời sống Ki-tô hữu ; đó là nhìn nhận với lòng ngưỡng mộ vẻ đẹp tuyệt vời của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và vui sướng làm chứng về sự hạ cố đầy yêu thương của Thiên Chúa dành cho hết mọi sinh linh.

  1. CA NGỢI THIÊN CHÚA BA NGÔI

A Patre ad Patrem : Sáng kiến của Thiên Chúa

  1. Việc chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa Giê-su trong bức hoạ cuộc biến hình, trước hết bộc lộ Chúa Cha cho những người sống đời thánh hiến. Người là Đấng tạo dựng và ban phát mọi điều thiện hảo, đã lôi kéo về với mình (x. Ga 6,44) một thụ tạo bởi một tình yêu đặc biệt và nhằm một sứ mạng đặc biệt : “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người, các ngươi hãy vâng nghe lời Người !” (Mt 17,5). Để đáp trả tiếng gọi kèm theo một sự lôi kéo bên trong, kẻ được gọi ký thác mình cho tình yêu Thiên Chúa đã muốn dành riêng mình để phục vụ Người, và họ hiến mình hoàn toàn cho Người và cho chương trình cứu độ của Người (x. 1 Cr 7,32-34).

Đó là ý nghĩa của ơn gọi sống đời thánh hiến : nó là một sáng kiến hoàn toàn phát khởi từ Chúa Cha (x. Ga 15,16), Đấng muốn những kẻ Người đã tuyển chọn đáp trả bằng việc hiến mình trọn vẹn và tuyệt đối (28). Kinh nghiệm về tình yêu nhưng không của Thiên Chúa mang tính cách thâm sâu và mạnh mẽ đến nỗi họ hiểu rằng mình phải đáp trả bằng việc hiến dâng cuộc đời vô điều kiện, bằng cách trao dâng mọi sự cho Người, ngay bây giờ và trong tương lai. Chính vì thế, nói theo thánh Tô-ma, ta có thể hiểu được căn tính của người tận hiến căn cứ vào việc hiến dâng trọn vẹn ví được như hy lễ toàn thiêu (29).

Per Filium : theo dấu chân Đức Ki-tô

  1. Là con đường dẫn đến Chúa Cha (x. Ga 14,6), Chúa Con kêu gọi tất cả những ai Chúa Cha ban cho Người (x. Ga 17,9) hãy lấy việc đi theo Người làm mục tiêu của cuộc đời. Nhưng đối với một số người, cụ thể là những người được thánh hiến, Người yêu cầu một cuộc dấn thân trọn vẹn gồm việc từ bỏ mọi sự (x. Mt 19,27) để sống thân tình với Người (30) và theo Người đến bất cứ nơi nào Người đi (x. Kh 14,4).

Nơi ánh mắt của Đức Giê-su (x. Mc 10,21), “hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Cl 1,15), phản ánh của vinh quang Chúa Cha (x. Dt 1,3), ta đọc ra chiều sâu của một tình yêu vĩnh cửu và vô biên thâm nhập tới tận gốc rễ của cuộc sống (31). Ai đã để cho Chúa chiếm hữu thì chỉ còn cách từ bỏ mọi sự và bước theo Người (x. Mc 1,16-20 ; 2,14 ; 10,21.28). Như ông Phao-lô, họ coi mọi sự còn lại là “thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Ki-tô Giê-su” ; sánh với điều ấy họ không ngần ngại coi mọi sự như “đồ bỏ, để giành được Đức Ki-tô” (Pl 3,8). Họ khao khát được đồng hoá với Người, mang cũng những tâm tình và cùng một lối sống. Việc từ bỏ mọi sự và bước theo Chúa (x. Lc 18,28) làm thành một chương trình có giá trị cho tất cả mọi người được kêu gọi, ở hết mọi thời.

Qua các lời khuyên Phúc Âm, Đức Ki-tô mời gọi một số người chia sẻ kinh nghiệm của Người như là kẻ khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục. Việc chấp nhận các lời khuyên đó đòi hỏi và biểu lộ nguyện ước minh nhiên được hoàn toàn nên đồng hình đồng dạng với Người. Khi sống “vâng phục, không có của riêng và khiết tịnh” (32), những người tận hiến tuyên xưng rằng Đức Giê-su là Mẫu Mực, nơi Người mọi nhân đức đạt tới mức hoàn hảo. Thực vậy, lối sống khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục của Người xuất hiện như một cách sống Tin Mừng triệt để nhất trên trái đất này, một cách thức có thể gọi là thần linh, bởi vì chính Đấng vừa là con người vừa là Thiên Chúa đã chấp nhận lối sống đó để diễn tả mối quan hệ của Con Một đối với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Đó là lý do khiến cho truyền thống Ki-tô giáo luôn nói rằng, xét theo mặt khách quan, đời tận hiến trổi vượt hơn tất cả.

Ngoài ra người ta không thể phủ nhận rằng việc thực thi các lời khuyên Phúc Âm là một cách thức thông dự sâu đậm và phong phú đặc biệt vào sứ mạng của Đức Ki-tô, theo gương Đức Ma-ri-a Na-da-rét, người môn đệ đầu tiên chấp nhận hiến mình phục vụ chương trình của Thiên Chúa bằng việc dâng hiến trọn vẹn bản thân. Bất cứ sứ mạng nào cũng khởi đầu với chính thái độ của Đức Ma-ri-a vào dịp truyền tin : “Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói !” (Lc 1,38)

In Spiritu : được thánh hiến bởi Chúa Thánh Thần

  1. “Có đám mây sáng ngời bao phủ các ông” (Mt 17,5). Một lối giải thích việc biến hình, mang đầy ý nghĩa thiêng liêng, cho thấy đám mây là hình ảnh của Chúa Thánh Thần (33).

Cũng như trọn cuộc sống Ki-tô hữu, tiếng gọi sống đời tận hiến có quan hệ mật thiết với hoạt động của Chúa Thánh Thần. Qua các thời đại, chính Thánh Thần luôn luôn thúc đẩy những con người mới nhận ra sức thu hút của một chọn lựa cam go. Dưới tác động của Người, những con người ấy lại trải qua kinh nghiệm của ngôn sứ Giê-rê-mi-a : “Lạy Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ” (20,7). Chính Thánh Thần gợi lên nguyện ước đáp trả trọn vẹn ; chính Người tháp tùng cuộc tăng trưởng của nguyện ước này, giúp người ta thuận theo đến cùng, và nâng đỡ người ta trung thành thực hiện lời đáp trả ; chính Người đào tạo và củng cố tinh thần của những người được kêu gọi, bằng cách làm cho họ nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục, và bằng cách thúc đẩy họ nhận lấy sứ mạng của Người làm của mình. Khi để cho Thánh Thần hướng dẫn hầu tiến đi không ngừng trên hành trình thanh luyện, ngày qua ngày, họ trở thành những con người mang danh Đức Ki-tô, nối dài trong lịch sử sự hiện diện đặc biệt của Chúa Phục Sinh.

Với một trực giác sâu sắc, các giáo phụ đã gọi con đường thiêng liêng này là philocalie, tức là yêu thích vẻ đẹp thần linh, là một phản ánh sự tốt lành của Thiên Chúa. Quyền năng Chúa Thánh Thần dẫn dắt con người từng bước cho đến khi đạt được tình trạng hoàn toàn đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, phản chiếu một tia của ánh sáng chói loà và, trong cuộc lữ hành trần thế, người ấy tiến đến tận nguồn ánh sáng không bao giờ cạn. Như thế đời thánh hiến trở thành một cách thức diễn tả đặc biệt mạnh mẽ về Giáo Hội – Hiền Thê, đang được Thánh Thần dẫn dắt hầu tạo lại nơi mình những nét của Phu Quân, xuất hiện trước nhan Người “lộng lẫy, không tì ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền” (Ep 5,27).

Thánh Thần không hề rút ra ngoài lịch sử nhân loại những kẻ được Chúa Cha kêu gọi, nhưng lại khiến họ hiến thân phục vụ anh em thể theo những cách thức riêng của bậc sống họ. Người thúc đẩy họ chu toàn những sứ mạng riêng hầu đáp ứng những nhu cầu của Giáo Hội và thế giới, qua những đoàn sủng riêng của các tu hội khác nhau. Đây là nguồn gốc của nhiều lối sống đời thánh hiến, nhờ đó Giáo Hội được “con cái tô thắm bằng những ân huệ khác nhau như một hiền thê trang điểm xinh xắn ra mắt lang quân mình” (x. Kh 21,2) (34) và có vô số phương tiện để hoàn tất sứ mạng trong thế giới.

Những lời khuyên Phúc Âm, ân huệ của Thiên Chúa Ba Ngôi

  1. Vậy trước hết, các lời khuyên Phúc Âm là một ân huệ của Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh. Đời thánh hiến loan báo những gì Chúa Cha, nhờ Chúa Con, trong Thánh Thần đã thực hiện do tình yêu, do lòng nhân lành, do vẻ đẹp của Người. Quả thế, bậc sống tu trì đặc biệt cho thấy Nước Thiên Chúa vượt lên trên mọi sự trần thế và những đòi hỏi cao cả biết bao ; nó cũng cho mọi người thấy quyền lực cao trọng tuyệt vời của Đức Ki-tô và quyền năng vô cùng của Chúa Thánh Thần đang hoạt động cách kỳ diệu trong Giáo Hội (35).

Bổn phận đầu tiên của đời thánh hiến là làm hiển hiện những kỳ công Thiên Chúa thực hiện nơi nhân tính mỏng dòn của những kẻ được Người kêu gọi. Họ làm chứng về những kỳ công không bằng lời nói cho bằng ngôn ngữ hùng hồn của một cuộc sống đã được biến hình đổi dạng, có khả năng làm cho thế giới phải ngạc nhiên. Đứng trước sự kinh ngạc của loài người, họ đáp lại bằng cách loan báo những kỳ công Thiên Chúa thường thực hiện nơi những kẻ Người yêu thương. Trong mức độ con người tận hiến để cho Thánh Thần hướng dẫn đi đến tận những đỉnh cao của sự hoàn thiện, người ấy có thể kêu lên : “Con đang thấy vẻ đẹp của ân sủng Ngài, con đang được chiêm ngưỡng ánh huy hoàng, con đang phản ánh sức sáng của ân sủng Ngài, con phải sững sờ trước vẻ rực rỡ của nó ; khi nghĩ đến mình, con thấy được lôi ra khỏi con, con thấy được trước đây con như thế nào và nay con đã ra sao, ôi kỳ diệu thay ! Con cứ chăm chú, con đầy trân trọng đối với chính mình con, đầy kính cẩn và sợ hãi, như thể đứng trước chính Ngài ; con chẳng còn biết phải làm gì, mà bởi vì con đã ra nhút nhát, con chẳng biết phải ngồi đâu, phải đi đâu, phải đặt các chi thể thuộc về Ngài đây vào chỗ nào, phải dùng các điều kỳ diệu này vào việc chi, vào công tác nào” (36). Như thế đời sống thánh hiến trở thành một trong những dấu vết hữu hình mà Thiên Chúa Ba Ngôi để lại trong lịch sử, để cho loài người có thể nhận ra được sức hấp dẫn của vẻ đẹp thần linh và lưu luyến nó.

Phản ánh của đời sống Thiên Chúa Ba Ngôi trong các lời khuyên Phúc Âm

  1. Ý nghĩa sâu xa nhất của các lời khuyên Phúc Âm được vén mở khi được đặt trong tương quan Ba Ngôi Thiên Chúa nguồn mạch mọi sự thánh thiện. Quả thế, các lời khuyên ấy diễn tả tình yêu Chúa Con đối với Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Thánh Thần. Khi thực hành các lời khuyên ấy, người được thánh hiến sống với một cường độ đặc biệt đặc trưng Ba Ngôi và Ki-tô đánh dấu toàn thể đời sống Ki-tô hữu.

Sự khiết tịnh của những người độc thân trinh khiết, biểu lộ một con tim không chia sẻ dâng hiến cho Thiên Chúa (x. 1 Cr 7,32-34), là phản ảnh của tình yêu vô biên đang nối kết Ba Ngôi Vị Thần Linh trong chiều sâu nhiệm mầu của đời sống Ba Ngôi ; tình yêu mà Ngôi Lời nhập thể làm chứng cho đến hy sinh mạng sống ; tình yêu “đã được đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần” (Rm 5,5), tình yêu thúc bách chúng ta đáp trả với trọn tình thương dành cho Thiên Chúa và anh em.

Sự nghèo khó tuyên xưng rằng Thiên Chúa là kho tàng đích thực duy nhất của con người. Sống theo gương Đức Ki-tô, Đấng “vốn giàu sang phú quý, đã tự ý trở nên nghèo khó” (2 Cr 8,9), sự nghèo khó trở thành một cách diễn tả việc Ba Ngôi Vị Thần Linh trao ban trọn vẹn cho nhau. Việc trao ban dạt dào ấy trào ra trong công cuộc sáng tạo và được biểu lộ viên mãn trong cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời và trong cái chết cứu chuộc của Người.

Sự vâng phục, thực hành theo gương Đức Ki-tô, lấy thánh ý Chúa Cha làm lương thực (x. Ga 4,34), biểu lộ vẻ đẹp giải phóng của sự lệ thuộc như con cái chứ không phải như nô lệ, một sự lệ thuộc chất chứa tinh thần trách nhiệm và được sống động bởi một niềm tin tưởng hỗ tương, phản ánh ra lịch sử mối hoà hợp tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Do đó, đời thánh hiến được kêu gọi hãy không ngừng đào sâu ân huệ các lời khuyên Phúc Âm nhờ một tình yêu ngày càng chân thành hơn và mạnh mẽ hơn trong chiều kích Ba Ngôi : tình yêu của Chúa Thánh Thần, Đấng mở rộng tâm hồn đón nhận những linh ứng của Người ; tình yêu của Chúa Cha, là nguồn mạch đầu tiên và mục tiêu tối hậu của đời sống thánh hiến (37). Như thế đời thánh hiến tuyên xưng và biểu lộ Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm được tỏ bày cho Giáo Hội làm mẫu mực và nguồn mạch cho hết mọi hình thức sống Ki-tô hữu.

Đời sống huynh đệ, nhờ vậy những người được thánh hiến cố gắng sống “một lòng một ý” trong Đức Ki-tô (Cv 4,32), cũng là một lời tuyên xưng về Ba Ngôi đậm đà ý nghĩa. Đời sống huynh đệ tuyên xưng Chúa Cha, Đấng muốn cho mọi người thành một gia đình duy nhất ; tuyên xưng Chúa Con nhập thể, Đấng quy tụ những người được cứu chuộc, và chỉ cho thấy con đường hợp nhất bằng gương sáng, kinh nguyện, lời nói và nhất là bằng cái chết của Người, là nguồn mạch ban ơn hoà giải cho nhân loại đã bị chia rẽ và phân tán ; tuyên xưng Chúa Thánh Thần là nguyên lý hiệp nhất trong Giáo Hội, nơi mà Người không ngừng khởi xướng những gia đình thiêng liêng và những cộng đoàn huynh đệ.

Được thánh hiến như Đức Ki-tô vì Nước Thiên Chúa

  1. Nhờ Thánh Thần thúc đẩy, đời thánh hiến “hoạ lại cách chính xác và thực hiện liên tục trong Giáo Hội” (38) lối sống mà Đức Giê-su, Đấng đầu tiên được Chúa Cha thánh hiến và sai đi phục vụ Nước Thiên Chúa. Đức Giê-su mời các môn đệ đi theo Người cũng sống như Người đã sống (x. Mt 4,18-22 ; Mc 1,16-20 ; Lc 5,10-11 ; Ga 15,16). Nhờ cuộc thánh hiến của Đức Giê-su soi dẫn, chúng ta có thể thấy nguồn gốc của đời thánh hiến nơi sáng kiến của Chúa Cha, nguồn mạch mọi sự thánh hiến. Quả thế, chính Đức Giê-su là Đấng “Thiên Chúa thánh hiến bằng Thánh Thần và quyền năng” (Cv 10,38), là “Đấng Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian” (Ga 10,36). Một khi đón nhận ơn thánh hiến của Chúa Cha, Chúa Con lại hiến dâng bản thân cho Chúa Cha để phục vụ nhân loại (x. Ga 17,19) : đời sống khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục của Người diễn tả lòng gắn bó thảo hiếu và trọn vẹn của Người với chương trình của Chúa Cha (x. Ga 10,30 ; 14,11). Chính vì cuộc hiến dâng hoàn hảo của Đức Ki-tô mà hết mọi biến cố trong cuộc đời tại thế của Người đều được thánh hiến.

Người là Đấng vâng phục tuyệt hảo, từ trời xuống không phải để làm theo ý mình, nhưng để làm theo ý Đấng sai phái Người (x. Ga 6,38 ; Dt 10,5.7). Người ký thác bản thân và hành động vào tay Chúa Cha (x. Lc 2,49). Bởi sự vâng phục thảo hiếu, Người chọn thân phận nô lệ : “Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ […], vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,7-8). Chính trong thái độ tuân phục đối với Chúa Cha, Đức Ki-tô đã chọn sống trinh khiết, tuy vẫn chuẩn nhận và bảo vệ phẩm giá và sự thánh thiện của đời sống hôn nhân, và như thế, cho thấy cái giá phi thường và sự phong phú nhiệm mầu của sự trinh khiết. Vì hoàn toàn gắn bó với chương trình của Chúa Cha, Đức Ki-tô có thái độ siêu thoát đối với của cải trần thế : “Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2 Cr 8,9). Chiều sâu của sự nghèo khó của Người được tỏ bày trong việc Người dâng trọn vẹn cho Chúa Cha tất cả những gì thuộc về Người.

Đời sống thánh hiến thật sự là một ký ức sống động về lối sống và hành động của Đức Giê-su, Ngôi Lời nhập thể, trong tương quan với Cha và với anh em Người. Đời sống thánh hiến là truyền thống sống động về cuộc sống và sứ điệp của Đấng Cứu Thế.

  1. TỪ PHỤC SINH ĐẾN THỜI VIÊN MÃN

Từ núi Ta-bo đến núi Sọ

  1. Biến cố lẫy lừng của cuộc biến hình chuẩn bị cho một biến cố khác, dẫu bi thương nhưng không kém phần vinh quang, ở núi Sọ. Ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và ông Gio-an được chiêm ngưỡng Chúa Giê-su có ông Mô-sê và ông Ê-li-a vây quanh ; theo Tin Mừng Lu-ca, Đức Giê-su đàm đạo với hai ông “về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem” (9,31). Do đó cái nhìn của các Tông Đồ nhắm vào Đức Giê-su đang nghỉ đến thập giá (x. Lc 9,43-45). Chính trên thập giá mà tình yêu khiết trinh của Người đối với Chúa Cha và đối với nhân loại sẽ được diễn tả mạnh mẽ nhất ; sự nghèo khó của Người sẽ đi đến chỗ lột bỏ hoàn toàn, sự vâng phục của Người sẽ đi đến chỗ hiến dâng mạng sống.

Các môn đệ được mời chiêm ngưỡng Đức Giê-su giương cao trên thập giá, nơi mà “Ngôi Lời xuất thân từ cõi thinh lặng” (39), đã khẳng định trong thinh lặng và cô đơn, theo kiểu các ngôn sứ, sự siêu việt tuyệt đối của Thiên Chúa trên mọi tạo vật, nơi mà Đức Giê-su đã chiến thắng tội lỗi của chúng ta, trong thân xác của Người, và nơi mà Người lôi kéo mọi người lên với mình, ban cho mỗi người sự sống mới của Phục Sinh (x. Ga 12,32 ; 19,34.37). Việc chiêm ngưỡng Đức Ki-tô chịu đóng đinh là một nguồn cảm hứng cho tất cả các ơn gọi là khởi điểm của mọi ân điển, tiên vàn là ơn Thánh Thần được trao ban, cũng như ơn sống đời thánh hiến.

Sau Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu của Đức Giê-su, người nhận được ơn này là thánh Gio-an, môn đệ được Đức Giê-su yêu mến, chứng nhân đã đứng dưới chân thập giá cùng với Đức Ma-ri-a (x. Ga 19,26-27). Quyết định tự hiến hoàn toàn của ông là hoa trái của tình yêu Chúa đang bao trùm, nâng đỡ, và tràn ngập trái tim ông. Bên cạnh Đức Ma-ri-a, ông Gio-an thuộc số những người đầu tiên trong đoàn người nam nữ đang nối nhau bước tới, kể từ thời khai nguyên Giáo Hội cho đến thời cuối cùng, họ là những người được tình yêu Thiên Chúa chiếm hữu, đang cảm thấy được kêu gọi bước theo Con Chiên đã bị sát tế và nay đang sống, để đến bất cứ nơi nào Người đi (x. Kh 14,1-5) (40).

Chiều kích vượt qua của đời sống thánh hiến

  1. Qua những dạng thức sinh sống khác nhau do Thánh Thần gợi lên theo dòng lịch sử, người tận hiến khám phá ra rằng họ càng gần thập giá Đức Ki-tô thì càng nghiệm được chân lý Thiên Chúa là Tình Yêu một cách trực tiếp và sâu xa. Trên thập giá, Đấng khi chết đã bị tan nát mặt mày, không còn gì là đẹp đẽ trước mắt người đời, đến nỗi những người trông thấy phải che mặt đi (x. Is 53,2-3), lại biểu lộ trọn vẹn vẻ tuyệt đẹp và quyền năng của tình yêu Thiên Chúa. Thánh Âu-tinh đã ca tụng Người như sau : “Ngôi Lời ở kề cận Thiên Chúa thật là tuyệt đẹp […]. Người tuyệt đẹp khi ở trên trời ; tuyệt đẹp khi ở dưới đất […] ; tuyệt đẹp khi làm các phép lạ, tuyệt đẹp khi chịu khổ hình ; tuyệt đẹp khi kêu gọi đến với sự sống và tuyệt đẹp khi không ngại gì cái chết […] ; tuyệt đẹp khi ở trên thập giá, tuyệt đẹp khi ở trong mộ, tuyệt đẹp khi lên trời […]. Bạn đừng để cho xác thịt yếu ớt quay mặt đi không thấy được vẻ đẹp rực rỡ của Người !” (41).

Đời sống thánh hiến phản ánh vẻ rực rỡ của tình yêu đó, bởi vì do lòng trung thành với mầu nhiệm Núi Sọ, họ tuyên xưng rằng họ tin và sống cho tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Như thế, họ giúp Giáo Hội ý thức mạnh mẽ rằng : Thập giá là tình yêu vô cùng dồi dào phong phú của Thiên Chúa được đổ chan hoà trên thế giới. Thập giá là dấu chỉ lớn lao cho thấy sự hiện diện cứu độ của Đức Ki-tô, nhất là trong các khó khăn và thử thách. Một số lớn những người tận hiến đang thường xuyên làm chứng về điều này cách can đảm đáng phục, khi họ thường phải sống trong những hoàn cảnh khó khăn, cho đến mức bị bách hại và tử đạo. Lòng trung thành của họ đối với Tình Yêu duy nhất được biểu lộ và củng cố qua một nếp sống ẩn mình khiêm tốn, qua việc chấp nhận những đau khổ để bổ túc nơi chính thân xác họ “những gì còn thiếu nơi những gian nan thử thách Đức Ki-tô phải chịu” (Cl 1,24), qua hy sinh thầm lặng, qua sự ký thác cho thánh ý của Thiên Chúa, qua sự trung thành thanh thản ngay cả khi sức lực và ảnh hưởng cá nhân đang suy giảm. Lòng trung thành với Thiên Chúa cũng đưa đến lòng tận tuỵ đối với tha nhân ; những người tận hiến chấp nhận hy sinh khi thường xuyên chuyển cầu cho những nhu cầu của anh em họ, khi phục vụ quảng đại những người nghèo khổ và những người đau ốm, khi chia sẻ những khó khăn của những người khác, khi tích cực tham dự vào các mối bận tâm và những thử thách của Giáo Hội.

Những chứng nhân của Đức Ki-tô trong thế giới 25. Mầu nhiệm vượt qua cũng là nguồn mạch của chiều hướng truyền giáo, gắn liền với bản chất đời sống Giáo Hội. Chiều hướng truyền giáo này được thực hiện đặc biệt trong đời thánh hiến. Quả thế, đừng kể những đoàn sủng riêng của các tu hội dấn thân cho sứ mạng truyền giáo cho dân ngoại – ad gentes – hoặc hoạt động tông đồ, người ta có thể nói rằng chiều hướng truyền giáo nằm ngay trong lòng mọi hình thức tận hiến. Trong mức độ người tận hiến sống một cuộc đời hoàn toàn hướng về Chúa Cha (x. Lc 2,49 ; Ga 4,34), chịu Đức Ki-tô chiếm hữu (x. Lc 24,49 ; Cv 1,8 ; 2,4), họ cộng tác hữu hiệu vào sứ mạng của Chúa Giê-su (x. Ga 20,21), góp phần sâu sắc đặc biệt vào việc canh tân thế giới.

Bổn phận truyền giáo tiên khởi của những người tận hiến nhắm tới bản thân họ, và được thực hiện bằng cách mở tâm hồn đón lấy tác động của Thần Khí Đức Ki-tô. Chứng tá của họ giúp toàn thể Giáo Hội nhớ lại rằng công tác đứng hàng đầu là việc phục vụ Thiên Chúa cách nhưng không, và điều này có thể làm được nhờ ân sủng của Đức Ki-tô được Thánh Thần thông ban cho người tín hữu. Chính nhờ đó mà thế giới được loan báo về sự bình an đến từ Chúa Cha, về sự tận tuỵ mà Đức Ki-tô đã nêu gương, và niềm vui là hoa trái của Chúa Thánh Thần.

Những người tận hiến sẽ trở thành những nhà truyền giáo trước tiên bằng việc thường xuyên ý thức sâu xa rằng họ đã được Thiên Chúa kêu gọi và chọn lựa, nên phải quy hướng và dâng hiến cho Người toàn thể cuộc đời của họ và tất cả những gì họ có, bằng cách tự giải thoát khỏi những trở ngại làm trì trệ việc đáp trả trọn vẹn trong tình yêu. Như thế họ sẽ trở thành một dấu chỉ trung thực về Đức Ki-tô trong thế giới. Lối sống của họ phải phản ánh lý tưởng họ tuyên xưng, khi xuất hiện như là những dấu chỉ sống động của Thiên Chúa và là những nhà rao giảng Tin Mừng đầy sức thuyết phục, cho dù họ thường im hơi lặng tiếng.

Giáo Hội phải luôn luôn quan tâm đến việc hiện diện hữu hình trong đời sống hằng ngày, đặc biệt trong nền văn hoá hiện đại, thường tuy đã bị tục hoá nhưng vẫn nhạy cảm với ngôn ngữ dấu chỉ. Muốn thế, Giáo Hội có quyền chờ đợi sự góp phần đặc biệt từ phía những người được thánh hiến, được kêu gọi làm chứng tá cụ thể rằng họ đã thuộc về Đức Ki-tô trong hết mọi hoàn cảnh.

Bởi vì tu phục là dấu chỉ của việc tận hiến, của sự nghèo khó và của thành viên của một hội dòng nhất định, cho nên cùng với các nghị phụ của Thượng hội đồng, tôi tha thiết khuyến cáo các tu sĩ nam nữ hãy mặc tu phục, được thích nghi xứng hợp với thời đại và nơi chốn (42). Khi các đòi hỏi hợp lý của đời sống tông đồ đòi buộc, họ có thể, tuỳ theo các luật lệ của tu hội, mặc một bộ áo đơn giản và xứng đáng, với một huy hiệu thích hợp, sao cho người ta có thể nhận ra tư cách thánh hiến của họ.

Những tu hội nào từ thuở khai nguyên hoặc do những quy định của hiến chương, không tiên liệu tu phục riêng, phải liệu sao cho y phục của thành viên họ mang tính cách đoan trang và đơn giản xứng với bản chất của ơn gọi (43).

Chiều kích cánh chung của đời thánh hiến

  1. Bởi vì ngày nay, các mối ưu tư hoạt động tông đồ ngày càng có vẻ cấp bách hơn và sự dấn thân vào các công việc trần thế ngày càng thu hút hơn, nên cần đặc biệt lưu ý về bản chất cánh chung của đời thánh hiến.

“Kho tàng của bạn ở đâu, thì lòng bạn cũng ở đó” (Mt 6,21) : kho tàng duy nhất là Nước Trời gợi lên nguyện ước, chờ mong, dấn thân và chứng tá. Trong Giáo Hội tiên khởi, người ta sống cao độ niềm chờ mong Đức Chúa ngự đến. Qua các thời đại, Giáo Hội không ngừng duy trì lòng trông mong đó : Giáo Hội tiếp tục mời gọi các tín hữu đưa mắt hướng về ơn cứu độ sắp tới lúc được biểu lộ rồi, “vì bộ mặt thế gian này đang biến đi” (1 Cr 7,31 ; 1 Pr 1,3-6) (44).

Trong viễn tượng này, ta hiểu rõ hơn vai trò của đời thánh hiến là làm dấu chỉ cánh chung. Quả thế, giáo lý vẫn trình bày đời sống này như là sự tiên báo về vương quốc đang đến. Công Đồng Va-ti-ca-nô II lấy lại giáo huấn này khi khẳng định rằng sự thánh hiến “tiên báo cuộc phục sinh tương lai và vinh quang của Nước Trời” (45). Điều này được áp dụng trước tiên cho lời khấn trinh khiết, được truyền thống luôn luôn hiểu như là một hé mở thực tại của cuộc đời vĩnh cửu, ngay từ bây giờ đang hoạt động và biến đổi toàn thể con người.

Những người hiến dâng cuộc đời cho Đức Ki-tô chỉ còn sống trong niềm ước mong được gặp Người, ngõ hầu được sống với Người mãi mãi. Từ đó lòng họ nôn nao, khát mong được “ngụp lặn trong Lò Lửa tình yêu đang cháy trong họ, và Lò Lửa đó không là gì khác ngoài Chúa Thánh Thần” (46), nỗi niềm chờ mong và ước vọng ấy được nâng đỡ bởi những ân huệ mà Chúa ban dồi dào cho những ai đi tìm những gì thuộc thượng giới (x. Cl 3,1).

Với cái nhìn gắn chặt vào những thực tại của Chúa, người tận hiến nhắc nhở rằng “trên đời này, chúng ta không có đô thành bền vững” (Dt 13,14), bởi vì “quê hương chúng ta ở trên trời” (Pl 3,20). Điều cần thiết duy nhất là tìm kiếm “Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người” (Mt 6,33), cùng với lời khẩn cầu không ngừng xin Chúa ngự đến.

Một sự chờ đợi tích cực : dấn thân và tỉnh thức

  1. “Lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến !” (Kh 22,20). Niềm chờ mong này không hề thụ động : tuy hướng về Nước Chúa sẽ đến, nhưng nó được diễn tả bằng việc làm và sứ vụ, bởi vì Nước Chúa hiện diện ngay từ bây giờ, qua việc thiết lập tinh thần các mối phúc, hầu khơi lên trong xã hội loài người những khát vọng đích thực muốn đạt tới công lý, hoà bình, tình liên đới và tha thứ.

Điều này thấy rõ trong lịch sử đời sống thánh hiến, xưa nay vốn sản sinh nhiều hoa trái cho thế giới. Do các đoàn sủng của họ, những người tận hiến trở thành dấu chỉ của Thánh Thần, hướng về một tương lai mới được soi sáng bởi đức tin và niềm hy vọng Ki-tô giáo. Chiều hướng cánh chung được diễn tả ra sứ vụ, ngõ hầu Nước Chúa được củng cố và tiến triển ngay ở đây và bây giờ. Lời khẩn cầu : “Lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến !” đi đôi với lời cầu nguyện khác nữa : “Xin cho Nước Cha mau đến !” (Mt 6,10).

Kẻ nào tỉnh thức chờ đợi những lời Đức Ki-tô hứa được thực hiện thì cũng có khả năng thông truyền niềm hy vọng cho anh chị em mình, những người thường bị nản chí và bi quan trước tương lai. Niềm hy vọng của người ấy dựa vào Lời Chúa hứa theo mạc khải : lịch sử của loài người đang tiến về “trời mới đất mới” (Kh 21,1), trong đó Chúa “sẽ lau sạch nước mắt họ ; sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4).

Đời thánh hiến có nhiệm vụ chiếu toả mãi mãi vinh quang Thiên Chúa, khi mọi phàm nhân được thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa (x. Lc 3,6 ; Is 40,5). Ki-tô giáo Đông Phương nhấn mạnh khía cạnh này, khi gọi các đan sĩ là những thiên thần của Thiên Chúa trên mặt đất, loan báo cuộc canh tân thế giới trong Đức Ki-tô. Bên Tây Phương, truyền thống đan tu cử hành việc tưởng niệm và canh thức : tưởng niệm những kỳ công Thiên Chúa thực hiện, canh thức chờ mong niềm hy vọng được thực hiện vĩnh viễn. Sứ điệp của truyền thống đan tu và của đời sống chiêm niệm không ngừng nhắc nhở rằng quyền tối thượng của Thiên Chúa mang lại cho cuộc sống con người ý nghĩa và niềm vui tràn đầy, bởi vì con người được tạo dựng cho Thiên Chúa và nó không được yên nghỉ bao lâu chưa được nghỉ yên trong Người (47).

Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, mẫu mực cho việc thánh hiến và đi theo Chúa, sequela Christi

  1. Ngay khi thành thai không mắc nguyên tội, Đức Ma-ri-a là Đấng phản ánh hoàn hảo nhất vẻ đẹp của Thiên Chúa. Giáo Hội kêu cầu Mẹ dưới danh hiệu “Tuyệt Mỹ”. Do việc kết hợp với Đức Ki-tô, người tín hữu nào cũng có liên hệ với Đức Ma-ri-a rất thánh. Điều này còn rõ ràng hơn nữa trong cuộc sống những người tận hiến (…). Tất cả các dòng tu đều xác tín rằng sự hiện diện của Đức Ma-ri-a có một tầm quan trọng cơ bản cho đời sống thiêng liêng của mỗi tâm hồn được thánh hiến, và cho sự bền vững, hợp nhất và tiến triển của toàn thể cộng đoàn (48).

Quả thật, Đức Ma-ri-a là một gương mẫu tuyệt vời về việc thánh hiến hoàn hảo, vì Mẹ hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và hiến dâng trọn vẹn bản thân. Được Thiên Chúa tuyển chọn vì muốn thực hiện nơi Mẹ mầu nhiệm Nhập Thể, Mẹ nhắc lại cho người được thánh hiến rằng Thiên Chúa luôn nắm phần chủ động. Đồng thời, khi đã ưng thuận để Lời Thiên Chúa xuống thế làm người nơi Mẹ, Đức Ma-ri-a là mẫu mực cho việc con người thụ tạo đón tiếp ân sủng của Thiên Chúa.

Gần gũi Đức Ki-tô, cùng với thánh Giu-se, trong đời sống ẩn dật tại Na-da-rét, hiện diện bên Con trong những lúc quyết liệt của cuộc đời công khai của Người, Đức Trinh Nữ là thầy dạy cách bước theo Đức Ki-tô vô điều kiện và chuyên cần phục vụ Người. Nơi Mẹ “đền thờ của Chúa Thánh Thần” toả rạng vẻ huy hoàng của tạo vật mới. Đời thánh hiến nhìn nhận Mẹ là gương mẫu tuyệt vời cho việc tận hiến cho Chúa Cha, kết hợp với Chúa Con và ngoan ngoãn nghe theo Chúa Thánh Thần, ý thức rằng nhận lấy “lối sống trinh khiết và nghèo khó” của Đức Ki-tô đồng thời cũng có nghĩa là bắt chước lối sống của Đức Ma-ri-a (50).

Ngoài ra, người tận hiến tìm được nơi Đức Trinh Nữ một người Mẹ với một danh nghĩa hoàn toàn đặc biệt. Thực vậy, nếu một tình mẹ mới đã được ban cho Đức Ma-ri-a trên Núi Sọ là một ân huệ cho tất cả các Ki-tô hữu, thì mẫu tính này có giá trị đặc biệt đối với những người dâng hiến trọn cuộc đời cho Đức Ki-tô. “Đây là Mẹ của anh” (Ga 19,27) : lời Đức Giê-su nói với “người môn đệ Người thương mến” (Ga 19,26) thật sâu sắc trong đời sống của người tận hiến. Quả thế, cũng như thánh Gio-an, họ được mời đón nhận Đức Trinh Nữ Ma-ri-a rất thánh về nhà mình (x. Ga 19,27) : họ sẽ yêu mến và bắt chước Mẹ một cách triệt để, theo ơn gọi riêng của mình, và bù lại, họ sẽ cảm nghiệm tình mẫu tử êm ái thật đặc biệt. Đức Trinh Nữ thông ban tình yêu để họ có thể hiến dâng cuộc sống cho Đức Ki-tô mỗi ngày, cộng tác với Người để cứu độ thế giới. Chính vì thế, lòng thảo hiếu với Đức Ma-ri-a là nẻo đường ưu tiên giúp trung thành với tiếng gọi đã nhận và là một trợ giúp rất hữu hiệu để tiến tới trong việc đáp trả và sống sung mãn ơn gọi của mình (51).

III. TRONG GIÁO HỘI VÀ CHO GIÁO HỘI

“Chúng con ở đây thật là đẹp” : đời thánh hiến trong mầu nhiệm Giáo Hội.

  1. Vào lúc Chúa biến hình, thánh Phê-rô đã nhân danh các tông đồ khác mà thốt lên : “Chúng con ở đây thật là đẹp” (Mt 17,4). Việc cảm nghiệm vinh quang của Đức Ki-tô dù đã khiến tâm trí và trái tim ông bị hoàn toàn thu hút nhưng đã không cô lập ông ; trái lại còn liên kết ông với “chúng con”, nghĩa là với các môn đệ kia.

Chiều kích của tiếng “chúng con” dẫn đưa chúng ta suy nghĩ về vị trí của đời thánh hiến trong mầu nhiệm Giáo Hội. Trong những năm gần đây, công cuộc suy tư thần học về bản chất của đời thánh hiến đã đào sâu những viễn tượng mới, phát xuất từ giáo lý của Công Đồng Va-ti-ca-nô II. Dưới ánh sáng của giáo lý này, người ta nhận thấy rằng việc tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm là một điều không thể chối cãi được thuộc về đời sống và sự thánh hiến của Giáo Hội (52). Điều đó có nghĩa là đời thánh hiến, đã hiện hữu từ buổi sơ khai, sẽ không bao giờ được thiếu vắng trong Giáo Hội, bởi vì nó là một yếu tố cấu tạo và đặc trưng, diễn tả chính bản tính của Giáo Hội.

Điều đó rõ ràng, vì việc tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm được liên kết mật thiết với mầu nhiệm Đức Ki-tô, có phận sự diễn lại cách nào đó lối sống Đức Ki-tô đã chọn, và cho thấy rằng lối sống ấy có một giá trị tuyệt đối và cánh chung. Chính Đức Giê-su, khi kêu gọi một số người từ bỏ mọi sự mà bước theo Người, đã khai mào một nếp sống được phát triển dần dần qua các thời đại, sống dưới tác động của Thánh Thần, thành những hình thức tận hiến khác nhau. Vậy quan niệm về một Giáo Hội chỉ gồm có giáo sĩ và giáo dân mà thôi thì không phù hợp với những ý hướng sáng lập của Chúa, như thấy được trong các sách Tin Mừng và những tác phẩm khác trong Tân Ước.

Sự thánh hiến mới và đặc biệt

  1. Trong truyền thống Giáo Hội, việc tuyên khấn tu trì được coi như việc đào sâu độc đáo và phong phú sự thánh hiến đã lãnh nhận trong bí tích thánh tẩy ; nhờ việc tuyên khấn ấy, sự kết hiệp thâm sâu với Đức Ki-tô đã khai mào trong bí tích rửa tội được phát triển thành hồng ân trở nên đồng hình đồng dạng với Người một cách rõ rệt và trọn vẹn hơn bằng việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm (53).

Tuy nhiên sự thánh hiến do việc tuyên khấn tu trì có một đặc điểm khác biệt so với sự thánh hiến do bí tích thánh tẩy ban cho, bởi vì nó không hẳn là hậu quả thiết yếu (54). Thực vậy, phàm ai đã được tái sinh trong Đức Ki-tô thì đều được kêu gọi nhờ sức mạnh Thánh Thần ban, sống khiết tịnh tương ứng với bậc sống mình, vâng phục Thiên Chúa và Giáo Hội, dứt bỏ lòng quyến luyến của cải vật chất, bởi vì mọi người đều được mời gọi sống thánh hiến trong việc đạt tới mức hoàn hảo của đức ái (55). Nhưng bí tích thánh tẩy tự nó không hàm chứa lời kêu gọi sống độc thân hoặc trinh khiết, từ bỏ sở hữu của cải, vâng phục một bề trên, dưới dạng cụ thể của các lời khuyên Phúc Âm. Vậy việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm giả thiết một ân huệ đặc biệt mà Thiên Chúa không ban cho tất cả mọi người, như chính Đức Giê-su đã nêu bật trong trường hợp độc thân tự nguyện (x. Mt 19,10-12).

Hơn nữa, khi Chúa gọi thì Người cũng ban ơn đặc biệt của Thánh Thần, ngõ hầu người được thánh hiến có thể đáp trả ơn gọi và chu toàn sứ mạng của mình. Chính vì thế, theo Phụng vụ Đông Phương và Tây Phương, trong nghi lễ tuyên khấn đan tu hoặc tu trì và trong nghi lễ thánh hiến trinh nữ, Giáo Hội kêu cầu Thánh Thần ban ơn xuống trên những người được chọn và liên kết lễ dâng của họ với hy tế của Đức Ki-tô (56).

Việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm cũng là một việc triển khai ân sủng của bí tích Thêm sức, nhưng điều này vượt quá những đòi hỏi thông thường của việc thánh hiến nhận trong bí tích Thêm sức. Cần có một ơn đặc biệt của Chúa Thần để phát triển những khả năng mới và sản sinh những hoa trái thánh thiện và tông đồ, như lịch sử đời thánh hiến đã chứng tỏ.

Đối với các linh mục tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm ; kinh nghiệm cho thấy rằng bí tích Truyền chức thánh thêm phong phú hơn nhờ sự tận hiến tu trì, bởi vì nó đòi hỏi và nâng đỡ việc sống liên kết mật thiết hơn với Chúa. Vị linh mục nào tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm thì được trợ giúp đặc biệt để hoạ lại trọn vẹn mầu nhiệm Đức Ki-tô trong cuộc sống, cũng như nhờ linh đạo riêng và nhờ chiều kích tông đồ do đoàn sủng của tu hội. Quả thế, ơn gọi chức linh mục và ơn gọi đời tận hiến kết hợp chặt chẽ với nhau nơi con người linh mục tạo ra một sự thống nhất sâu xa và năng động trong cuộc sống.

Các tu sĩ linh mục chuyên sống đời chiêm niệm, cũng mang lại cho Giáo Hội một ơn ích khôn lường. Đặc biệt khi cử hành Thánh Thể, họ chu toàn một hành vi của Giáo Hội và cho Giáo Hội ; họ liên kết việc dâng hiến bản thân với Thánh Thể, hiệp thông với Đức Ki-tô, Đấng dâng mình cho Chúa Cha để cứu độ toàn thể thế giới (57).

Các tương quan giữa các bậc sống khác nhau của người Ki-tô hữu

  1. Đức Giê-su đã muốn có những bậc sống khác nhau trong đời sống của Giáo Hội. Giữa các bậc sống đó : có những mối tương quan hỗ tương cần được cứu xét.

Tất cả các tín hữu, do việc được tái sinh trong Đức Ki-tô, đều có chung cùng một phẩm giá ; tất cả đều được kêu gọi nên thánh ; tất cả đều tham dự vào việc xây dựng Thân Thể duy nhất của Đức Ki-tô, mỗi người tuỳ theo ơn gọi của mình và những ân huệ Thánh Thần ban cho (x. Rm 12,3-8) (58). Sự bình đẳng về phẩm giá giữa tất cả các thành viên trong Giáo Hội là công trình của Thánh Thần, đặt trên nền tảng là bí tích Rửa tội và Thêm sức, và được củng cố nhờ bí tích Thánh Thể. Nhưng sự đa dạng cũng là công trình của Thánh Thần. Chính Người làm cho Giáo Hội thành một mối hiệp thông hữu cơ, giữa những đa dạng về các ơn gọi, các đoàn sủng và các thừa tác vụ (59).

Các ơn gọi vào đời sống giáo dân, vào hàng giáo sĩ và vào đời tận hiến đều có thể coi là kiểu mẫu, bởi lẽ tất cả các ơn gọi đặc thù – dù xét riêng rẽ hay tập thể – đều bắt nguồn và quy tụ về đó, thể theo ân huệ dồi dào của Thiên Chúa. Ngoài ra, chúng phục vụ lẫn nhau, để làm cho Nhiệm Thể Đức Ki-tô được tăng trưởng trong lịch sử và chu toàn sứ mạng trong thế giới. Trong Giáo Hội, mọi người đều được thánh hiến nhờ bí tích Rửa tội và Thêm sức, còn thừa tác vụ do truyền chức và đời tận hiến giả thiết là một ơn gọi riêng và một hình thái thánh hiến đặc biệt, nhằm chu toàn một sứ mạng riêng.

Sứ mạng của các giáo dân, những người “có nhiệm vụ tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách dấn thân vào các việc trần thế và xếp đặt chúng theo kế hoạch Thiên Chúa” (60), đặt nền tảng trên sự thánh hiến do bí tích Rửa tội và Thêm sức, chung cho tất cả các thành phần của Dân Thiên Chúa. Ngoài sự thánh hiến căn bản ấy, các giáo sĩ được thánh hiến bằng bí tích Truyền chức thánh để nối tiếp sứ vụ tông đồ qua dòng thời gian. Những người tận hiến cam kết sống các lời khuyên

Phúc Âm, được thánh hiến một cách mới mẻ và đặc biệt ; sự thánh hiến này, tuy không mang tính bí tích, nhưng ràng buộc khiến họ chấp nhận lối sống độc thân, khó nghèo, vâng phục đã được Đức Giê-su đích thân thể hiện và đề nghị cho các môn đệ. Cho dù cả ba bậc sống khác nhau đều biểu lộ mầu nhiệm duy nhất của Đức Ki-tô, nhưng các giáo dân thì có đặc tính riêng biệt tuy không độc hữu là sinh hoạt giữa trần thế ; còn các mục tử thì mang trách nhiệm về tác vụ, còn những người tận hiến thì cố gắng nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục.

Giá trị đặc biệt của đời thánh hiến

  1. Trong bối cảnh hài hoà của các ân sủng, mỗi bậc sống chủ yếu diễn tả, theo cách của mình, một chiều kích nào đó thuộc mầu nhiệm duy nhất của Đức Ki-tô. Nếu đời sống giáo dân có một sứ mạng đặc biệt là loan báo Tin Mừng trong các thực tại trần thế, thì những người đã lãnh nhận các chức thánh, đặc biệt các giám mục, thực thi một tác vụ không thể thay thế được trong khuôn khổ của sự hiệp thông Giáo Hội. Các giám mục có bổn phận hướng dẫn Dân Thiên Chúa bằng việc giảng dạy Lời Chúa, phân phát các bí tích và thi hành quyền bính thánh thiêng, để phục vụ sự thông hiệp Giáo Hội, là một hiệp thông hữu cơ, được xếp đặt theo phẩm trật (61).

Còn khi xét tới sứ mạng của Giáo Hội là phải biểu lộ sự thánh thiện, thì phải công nhận, với cái nhìn khách quan, là đời thánh hiến đứng ở một bình diện ưu việt, bởi vì phản ánh chính lối sống của Đức Ki-tô. Chính vì thế, đời thánh hiến biểu lộ phong phú những giá trị của Tin Mừng và làm sáng tỏ trọn vẹn hơn mục tiêu của Giáo Hội là thánh hoá nhân loại. Đời thánh hiến loan báo và ra như sống trước thời mai hậu, thời mà Nước Trời đang hiện diện ở dạng mầm mống và trong mầu nhiệm (62), sẽ đạt mức viên mãn ; thời mà các con cái của sự phục sinh sẽ không cưới vợ lấy chồng nữa, nhưng sẽ nên như các thiên thần của Thiên Chúa (x. Mt 22,30).

Quả thế, một điều mà Giáo Hội vốn hằng dạy là tính ưu việt của đức khiết tịnh toàn hảo vì Nước Trời (63), và có lý khi coi đó như là “cánh cửa” của đời thánh hiến (64). Đàng khác, Giáo Hội hết sức trân trọng ơn gọi hôn nhân, trong đó đôi vợ chồng “làm chứng và cộng tác vào việc sinh sản của Giáo Hội”, Mẹ chúng ta ; họ trở nên dấu chỉ và thông phần vào tình yêu của Đức Ki-tô đối với Hiền Thê Người, “bởi yêu thương mà Người đã hiến mạng sống vì Hiền Thê” (65).

Trong viễn ảnh vừa rồi, chung cho toàn thể đời thánh hiến, đã có những nẻo đường khác nhau nhưng bổ túc cho nhau. Các tu sĩ nam nữ hoàn toàn hiến mình cho đời sống chiêm niệm là những hình ảnh đặc biệt của Đức Ki-tô cầu nguyện trên núi (66). Những người tận hiến sống đời hoạt động diễn lại nếp sống của Người “loan báo Nước Thiên Chúa cho dân chúng, hoặc chữa lành những kẻ đau yếu tàn tật, hay hoán cải các tội nhân trở lại đời sống lương thiện, hoặc đang chúc phúc cho trẻ em và ban ơn lành cho mọi người” (67). Những người tận hiến trong các tu hội đời đóng góp theo cách thức riêng vào công cuộc làm cho Nước Thiên Chúa đến ; họ tổng hợp một cách đặc biệt những giá trị của sự thánh hiến và những giá trị của trần thế. Khi sống đời thánh hiến ở giữa trần gian và từ trần gian (68), họ “cố gắng […] thấm nhuần mọi sự bằng tinh thần Phúc Âm để củng cố và phát triển Thân Thể Đức Ki-tô” (69). Vì mục tiêu này, họ tham dự vào sứ mạng giữa Giáo Hội loan báo Tin Mừng bằng chứng tá cá nhân của một đời sống Ki-tô hữu, bằng những cuộc dấn thân nhằm quy hướng các trật tự trần thế theo ý Thiên Chúa, bằng sự cộng tác vào việc phục vụ cộng đoàn Giáo Hội, theo cách thức riêng biệt của nếp sống giữa đời (70).

Làm chứng về Tin Mừng các mối phúc 33. Một vai trò đặc biệt của đời thánh hiến là nhắc nhớ cho những người đã được rửa tội về các giá trị cơ bản của Tin Mừng, nhờ “chứng tá rạng rỡ và cao vời rằng thế giới không thể được biến hình đổi dạng và dâng hiến cho Thiên Chúa nếu thiếu tinh thần của các mối phúc” (71). Như thế đời thánh hiến làm cho Dân Thiên Chúa luôn ý thức rằng họ phải dùng đời sống thánh thiện để đáp trả tình yêu Thiên Chúa đã được Chúa Thánh Thần đổ chan hoà vào lòng (x. Rm 5,5), làm sao cho cung cách xử sự phát lộ sự thánh hiến Thiên Chúa đã thực hiện nơi họ qua bí tích Thánh tẩy, Thêm sức hay Truyền chức. Thực vậy, ơn thánh hoá do các bí tích truyền ban cần phải được chuyển thành ơn thánh trong cuộc sống hằng ngày. Đời thánh hiến, được sống trong Giáo Hội, cần phải giúp cho sự thánh hoá đời sống của các tín hữu, giáo dân và giáo sĩ.

Đàng khác ta không được quên rằng, những người tận hiến cũng cần được nâng đỡ nhờ chứng tá của các ơn gọi khác để sống trọn vẹn việc gắn bó với mầu nhiệm Đức Ki-tô và Giáo Hội trong những chiều kích đa dạng. Do khả năng làm phong phú lẫn nhau như thế, sứ mạng của đời tận hiến càng trở nên hùng hồn và hữu hiệu hơn ; đó là nhắc nhở cho các anh chị em khác hãy đưa mắt chăm chú tìm kiếm hoà bình tương lai, và cố gắng đạt tới hạnh phúc vĩnh viễn ở bên Thiên Chúa.

Hình ảnh sống động của Giáo Hội – Hiền Thê

  1. Ý nghĩa hôn ước của đời sống thánh hiến mang một tầm quan trọng đặc biệt vì nó nhắc cho Giáo Hội phải tận tâm tận tình phục vụ Đức Lang Quân của mình, Đấng đã ban cho Giáo Hội mọi điều thiện hảo. Chiều kích hôn ước là một nét đặc thù của hết mọi đời thánh hiến, nhưng nó có ý nghĩa riêng cho người phụ nữ, vì có thể nói là chị khám phá ra giá trị đặc biệt của nữ tính trong mối tương quan liên kết chị với Đức Ki-tô.

Về điều này, trong Tân Ước, có một trang rất súc tích trình bày Đức Ma-ri-a ở nhà Tiệc Ly với các Tông Đồ đang cầu nguyện chờ đợi Thánh Thần (x. Cv 1,13-14). Ta có thể thấy ở đó một hình ảnh sống động về Giáo Hội – Hiền Thê, đang chú ý đến những tín hiệu Đức Lang Quân gửi đến và sẵn sàng đón tiếp Người như một ân huệ. Thánh Phê-rô và các Tông Đồ tiêu biểu cho đặc tính phong nhiêu, được diễn tả qua thừa tác vụ Giáo Hội, được Thánh Thần sử dụng để sinh ra những con người mới, bằng cách giảng dạy Lời Chúa, cử hành các bí tích và hoạt động mục vụ. Đức Ma-ri-a tiêu biểu cho thái độ đón nhận của người hiền thê ; nhờ đó đời sống thần linh của Giáo Hội sinh hoa kết trái do một mối tình khiết trinh và trọn vẹn.

Đời thánh hiến luôn được đặt bên cạnh Đức Ma-ri-a, Trinh Nữ Hiền Thê. Tình yêu khiết trinh này mang một sức phong phú đặc biệt, góp phần vào việc sinh ra và gia tăng đời sống thần linh trong các tâm hồn (72). Theo chân Đức Ma-ri-a, bà E-và mới, người tận hiến thực hiện sự phong nhiêu thiêng liêng bằng cách sẵn sàng đón tiếp Lời Chúa, cộng tác vào việc xây dựng nhân loại mới nhờ việc xả thân vô điều kiện và chứng tá sống động của họ. Như thế, Giáo Hội biểu lộ đầy đủ mẫu tính của mình, vừa qua việc truyền thông tác động mà Chúa đã ký thác cho thánh Phê-rô, vừa qua việc đón tiếp ân huệ của Thiên Chúa với tinh thần trách nhiệm, theo gương của Đức Ma-ri-a.

Còn dân Thiên Chúa, họ tìm thấy nơi các giáo sĩ những phương tiện mang ơn cứu độ, và nơi đời thánh hiến một sức kích thích thúc đẩy họ sẵn sàng đáp lại tình yêu bằng mọi hình thức phục vụ (73).

  1. ĐƯỢC TINH THẦN THÁNH THIỆN HƯỚNG DẪN

Một cuộc đời “được biến hình” : lời gọi nên thánh

  1. “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất” (Mt 17,6). Trong bài tường thuật cuộc biến hình, các Tin Mừng nhất lãm, tuy với đôi chút dị biệt nhưng đều cho thấy nỗi sợ hãi tràn ngập các môn đệ. Sự thu hút mà dung nhan biến hình của Đức Ki-tô tác động trên các ông đã không ngăn cản được các ông cảm thấy sợ hãi trước vẻ uy nghi thần linh đang bao trùm các ông. Mỗi khi con người hé thấy vinh quang của Thiên Chúa, thì luôn luôn ý thức về sự nhỏ bé của mình và cảm thấy sợ hãi. Nỗi sợ hãi này mang tính chất cứu độ. Nó nhắc con người nhớ tới sự hoàn thiện của Thiên Chúa và đồng thời đòi con người nhận tiếng gọi thúc bách tiến tới “sự thánh thiện”.

Tất cả các con cái của Giáo Hội, được Chúa Cha kêu gọi “lắng nghe” Đức Ki-tô, tất nhiên cảm thấy đòi hỏi sâu xa là phải hoán cải và nên thánh. Tuy nhiên Thượng hội đồng giám mục đã nhấn mạnh rằng đòi hỏi hoán cải và nên thánh trước tiên liên hệ đến đời thánh hiến. Quả thế, ơn gọi của những người tận hiến hãy đi tìm kiếm Nước Thiên Chúa trên hết mọi sự, tiên vàn là một lời mời gọi hoán cải hoàn toàn, từ bỏ chính mình để sống hoàn toàn cho Chúa, ngõ hầu Thiên Chúa có toàn quyền trên mọi loài. Vì đã được kêu gọi chiêm ngưỡng và làm chứng cho dung nhan biến hình của Đức Ki-tô, những người tận hiến cũng được kêu gọi sống một cuộc đời “được biến hình”.

Về điểm này, bản báo cáo chung kết của phiên họp bất thường thứ hai của Thượng hội đồng đã có nhận xét chí lý như sau : “Suốt dòng lịch sử của Giáo Hội, các thánh nam nữ luôn luôn là một nguồn mạch từ đó phát ra bao đổi mới trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Ngày hôm nay, chúng ta rất cần những vị thánh và chúng ta không ngừng cầu xin Thiên Chúa ban những vị thánh. Các tu hội đời thánh hiến, khi tuyên khấn lời khuyên Phúc Âm, phải ý thức về sứ mạng đặc biệt của họ trong Giáo Hội ngày hôm nay, và chúng ta phải khuyến khích họ thi hành sứ mạng ấy” (74). Trong phiên họp thường lệ lần thứ chín của Thượng hội đồng giám mục, các nghị phụ đã làm vọng lại ý kiến đó khi tuyên bố : “Trải qua lịch sử Giáo Hội, đời thánh hiến vốn là nơi hiện diện sống động của Thánh Thần tác động, như thể đó là chỗ ưu tiên dành để yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân, làm chứng về kế hoạch Thiên Chúa muốn là quy tụ toàn thể nhân loại trở thành đại gia đình con cái Thiên Chúa, trong nền văn minh tình thương” (75).

Giáo Hội luôn luôn coi việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm là một con đường đặc biệt đưa tới sự thánh thiện. Chính những kiểu nói Giáo Hội dùng để chỉ định nó – như trường dạy phụng sự Chúa, trường dạy yêu thương và sống thánh thiện, đường hoặc bậc hoàn thiện -, cho thấy lối sống Tin Mừng này rất có hiệu năng và dồi dào phương tiện, đồng thời cũng cho thấy nghĩa vụ đặc biệt của những người cam kết gia nhập đời sống này (76). Không phải vô cớ mà qua các thời đại, một số lớn những người tận hiến đã để lại những chứng tá hùng hồn về sự thánh thiện và đã hoàn thành những công tác truyền giáo và phục vụ rất quảng đại và cam go.

Trung thành với đoàn sủng

  1. Trong việc đi theo làm môn đệ Đức Ki-tô, sequela Christi, và trong tình yêu dành cho bản thân Người, cần nêu lên một số điểm liên quan đến việc phải nên thánh trong đời thánh hiến vào ngày hôm nay.

Trước tiên trong mỗi tu hội, cần phải trung thành với đoàn sủng sáng lập và với gia sản thiêng liêng được gầy dựng lên tiếp sau. Việc trung thành với linh ứng của các đấng sáng lập, một ân huệ của Chúa Thánh Thần, giúp tìm lại và sống nhiệt thành những yếu tố cốt yếu của đời thánh hiến.

Quả thế, căn bản đoàn sủng nào cũng gồm ba chiều hướng : trước tiên, hướng về Chúa Cha, với lòng con thảo muốn tìm kiếm thánh ý Người qua việc hoán cải thường xuyên, nơi mà vâng phục là nguồn mạch đưa tới tự do đích thực, khiết tịnh diễn tả niềm thao thức của một con tim mà không một tình yêu hữu hạn nào thoả mãn được, nghèo khó nuôi dưỡng cơn đói khát công lý mà Thiên Chúa hứa làm no đầy (x. Mt 5,6). Trong viễn tượng này, đoàn sủng của bất cứ tu hội nào cũng thúc bách người tận hiến thuộc trọn về Thiên Chúa, nói với Thiên Chúa hoặc nói về Thiên Chúa, như người ta thường hay nhắc đến khi nói về thánh Đa-minh (77), để cảm nghiệm xem Thiên Chúa ngọt ngào dường bao (x. Tv 34 (33),9) trong hết mọi hoàn cảnh.

Các đoàn sủng của đời thánh hiến cũng hướng về Chúa Con ; chúng mời duy trì một sự hiệp thông với Người trong cuộc sống thân tình và vui tươi, học gương quảng đại của Người khi phụng sự Thiên Chúa và phục vụ anh em. “Cái nhìn dần dần được Ki-tô hoá, nhờ đó mà học biết tách mình khỏi những dáng vẻ bề ngoài, khỏi cơn lốc các giác quan, khỏi tất cả những gì ngăn cản con người trở nên nhẹ nhàng để cho Thánh Thần có thể nắm bắt” (78), và thúc đẩy họ ra đi chu toàn sứ mạng với Đức Ki-tô, làm việc và chịu đau khổ với Người, để cộng tác vào việc loan báo Vương Quốc của Người.

Sau cùng, bất cứ đoàn sủng nào cũng hướng về Chúa Thánh Thần, mời con người để cho Thánh Thần hướng dẫn và nâng đỡ trên con đường thiêng liêng cũng như trong đời sống hiệp thông và hoạt động tông đồ, ngõ hầu sống trong thái độ phục vụ, là thái độ phải soi dẫn mọi chọn lựa của người Ki-tô hữu chân chính.

Quả thế, cho dù các kiểu sống khác nhau có những đường nét riêng đi nữa, nhưng các đoàn sủng sáng lập vẫn luôn có ba chiều hướng vừa nói, bởi lẽ đoàn sủng nào cũng “nổi bật ước muốn sâu xa của tâm hồn là được nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, dầu làm chứng về một nét nào đó thuộc mầu nhiệm của Người” (79) ; nét độc đáo đó được cụ thể hoá và triển khai trong truyền thống trung thực nhất của tu hội, sao cho phù hợp với các quy luật, hiến chương và quy chế (80).

Trung thành và sáng tạo

  1. Vì vậy, các tu hội được mời gọi hãy can đảm tìm lại tinh thần xông xáo dám nghĩ dám làm, óc sáng tạo và sự thánh thiện của các đấng sáng lập, để đáp trả những “thời điềm” đang xuất hiện trong thế giới ngày nay (81). Lời mời gọi này tiên vàn nhắm đến việc kiên trì trên đường nên thánh, giữa những khó khăn vật chất và tinh thần gặp phải trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng đó cũng là lời mời gọi hãy thủ đắc cho được một khả năng chuyên môn trong việc làm và trung thành năng động trong sứ mạng của mình, bằng cách khi cần, biết thích nghi các hình thái với những hoàn cảnh mới và những nhu cầu khác nhau, trong thái độ hoàn toàn tuân phục sự soi sáng của Thiên Chúa và sự biện phân của Giáo Hội. Dù sao, phải xác tín vững chắc rằng việc cố gắng càng ngày càng nên đồng hình đồng dạng với Chúa hơn là điều kiện chân thực của mọi cuộc canh tân trung thành với linh ứng nguyên thuỷ của mỗi tu hội (82).

Trong tinh thần này, ngày nay mọi tu hội phải canh tân lối nhìn của họ về luật dòng, bởi vì, trong luật dòng và trong hiến chương, một lộ trình đã được phác hoạ để thực hiện việc đi theo Đức Ki-tô – sequela Christi – tương ứng với một đoàn sủng riêng đã được Giáo Hội chuẩn nhận. Càng trân trọng luật dòng, những người tận hiến càng có những tiêu chuẩn chắc chắn để tìm ra những phương thức thích đáng để làm chứng, đáp ứng những đòi hỏi của thời đại mà không xa rời linh ứng nguyên thuỷ.

Cầu nguyện và khổ chế : cuộc chiến đấu thiêng liêng

  1. Lời gọi nên thánh chỉ có thể nghe được và nuôi dưỡng trong thái độ thinh lặng thờ phượng trước Thiên Chúa siêu việt vô biên : “Chúng ta phải thú nhận rằng tất cả chúng ta đều cần đến thứ thinh lặng chất chứa sự hiện diện của Đấng mời ta tôn thờ : thinh lặng cần cho thần học để đề cao cái hồn khôn ngoan và tâm linh của nó ; thinh lặng cần cho kinh nguyện, để không bao giờ quên rằng nhìn thấy Thiên Chúa có nghĩa là xuống núi với một gương mặt chói lọi đến nỗi phải che mặt bằng một tấm khăn (x. Xh 34,33) […] ; thinh lặng cần cho kẻ dấn thân, để từ chối không để cho mình bị giam hãm trong một cuộc đấu tranh không có tình yêu cũng không có tha thứ […]. Tất cả mọi người, dù có tín ngưỡng hay không, đều phải học biết giá trị của thinh lặng để cho Vị Kia lên tiếng vào lúc nào và như thế nào tuỳ Người ; cũng như để cho chúng ta hiểu nổi lời Người” (83). Trong thực tế, điều này giả thiết phải hết sức trung thành với việc cầu nguyện phụng vụ và cầu nguyện cá nhân, trung thành với thời gian dành cho tâm nguyện và chiêm niệm, thờ phượng Thánh Thể, tĩnh tâm hàng tháng và linh thao.

Cũng cần phải khám phá lại những phương thế khổ chế điển hình trong truyền thống thiêng liêng của Giáo Hội và của mỗi tu hội. Các phương thế này đã và còn tiếp tục nâng đỡ vững vàng cuộc hành trình chân thực tiến đến sự thánh thiện. Khổ chế giúp chế ngự và sửa chữa những khuynh hướng của bản tính nhân loại đã bị tổn thương vì tội lỗi, khổ chế rất cần thiết để người tận hiến trung thành với ơn gọi của mình và bước theo Đức Giê-su trên con đường thập giá.

Ngoài ra cũng cần phải vạch trần và lướt thắng những chước cám dỗ đôi khi xuất hiện, do mưu mô ma quỷ, dưới những dáng vẻ bề ngoài của sự thiện. Chẳng hạn như nhu cầu chính đáng tìm hiểu xã hội đương thời để ứng phó với những thách đố của thời đại có thể đi tới chỗ chiều theo thời trang nhất thời, giảm bớt lòng nhiệt thành thiêng liêng hoặc sờn lòng nản chí. Vì được huấn luyện thiêng liêng kỹ càng hơn, nên những người tận hiến có thể có cảm giác mình khá hơn các tín hữu khác ; cũng thế, nhu cầu cấp bách phải đạt tới trình độ chuyên môn có thể trở thành một ưu tư quá độ về hiệu năng, như thể công tác tông đồ chỉ tuỳ thuộc vào những phương tiện con người chứ không tuỳ thuộc vào Thiên Chúa. Ước muốn gần gũi những con người thời đại chúng ta, nam và nữ, có tín ngưỡng hoặc vô tín ngưỡng, người nghèo và người giàu, là điều đáng khen, nhưng có thể dẫn đến một lối sống tục hoá, hoặc cổ võ những giá trị nhân bản hoàn toàn theo chiều ngang. Việc chia sẻ những khát vọng hợp pháp của dân tộc mình, hay của nền văn hoá mình có thể đưa đến chỗ chủ trương một số hình thức chủ nghĩa ái quốc cực đoan hoặc chấp nhận những phong tục lẽ ra phải được thanh lọc và hoàn chỉnh dưới sánh sáng của Tin Mừng.

Vì thế, con đường nên thánh bao hàm việc chấp nhận chiến đấu thiêng liêng. Đây là một đòi hỏi mà hiện nay không phải lúc nào người ta cũng quan tâm đúng mức. Truyền thống vẫn thường nhìn cuộc chiến đấu thiêng liêng qua hình ảnh ông Gia-cóp vật lộn với mầu nhiệm Thiên Chúa, ông đã phải đối đầu để được Người chúc lành và để được thấy Người (x. St 32,23-31). Những người tận hiến có thể coi câu chuyện này, xảy ra vào buổi nguyên sơ lịch sử Kinh Thánh, là một biểu tượng của việc khổ chế cần thiết cho việc mở rộng trái tim cho Chúa và anh chị em.

Cổ võ sự thánh thiện

  1. Ngày nay hơn bao giờ hết, những người tận hiến cần phải cam kết hướng đến sự thánh thiện hơn nữa, hầu trợ giúp và nâng đỡ bất cứ Ki-tô hữu nào đi tìm kiếm sự hoàn thiện. “Vậy cần phải khơi lên trong lòng các tín hữu một khát vọng chân thành đạt tới sự thánh thiện, một ước muốn mạnh mẽ hoán cải và canh tân bản thân, trong một bầu khí cầu nguyện càng ngày càng sâu đậm hơn, và trong tình liên đới tiếp đón tha nhân, đặc biệt những kẻ túng cực nhất” (84).

Càng sống mật thiết với Thiên Chúa, những người tận hiến càng sẵn sàng trợ giúp anh chị em mình nhờ có những sáng kiến tốt trên bình diện thiêng liêng, như những trường dạy cầu nguyện, những khoá linh thao hoặc những cuộc tĩnh tâm, những ngày cô tịch, lắng nghe và linh hướng. Nhờ thế họ giúp cho anh chị em mình tiến tới trên con đường cầu nguyện, có khả năng nhận ra ý Chúa đối với mình, và can đảm, đôi khi anh dũng, dấn thân vào sự lựa chọn mà đức tin đòi hỏi. Quả vậy, “từ cấp độ thâm sâu nhất của hữu thể của họ, những người tận hiến được gắn chặt vào đời sống năng động của Giáo Hội, một Giáo Hội khao khát Thiên Chúa tuyệt đối và được mời gọi nên thánh. Chính họ đang làm chứng về sự thánh thiện ấy” (85). Sự kiện tất cả mọi người đều được kêu mời trở thành những vị thánh, lại càng thôi thúc hơn nữa những con người đã chọn sống sứ mạng nhắc nhớ lời mời ấy cho anh chị em mình.

“Chỗi dậy đi, đừng sợ” : một sự tin tưởng mới mẻ

  1. “Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo : “Chỗi dậy đi, đừng sợ” (Mt 17,7). Cũng như ba Tông Đồ vào dịp biến hình, những người tận hiến đều kinh nghiệm rằng đời sống của họ không phải lúc nào cũng sáng rực nồng nàn đến nỗi thốt lên được : “Chúng con ở đây, thật là đẹp” (Mt 17,4). Tuy nhiên, đó vẫn là một cuộc đời luôn được bàn tay Đức Ki-tô “chạm đến”, được tiếng nói của Người nhắn nhủ, được ân sủng của Người nâng đỡ.

“Chỗi dậy đi, đừng sợ”. Dĩ nhiên, lời khuyến khích của Thầy chí thánh được ngỏ với bất cứ Ki-tô hữu nào. Nhưng nó lại càng có giá trị đối với những người được kêu gọi “từ bỏ mọi sự”, tức là “liều mọi sự” vì Đức Ki-tô. Điều này đặc biệt có giá trị mỗi lần ta xuống núi cùng với Thầy để đi theo con đường từ núi Ta-bo đến núi Sọ. Khi nói rằng ông Mô-sê và ông Ê-li-a đàm đạo với Đức Ki-tô về mầu nhiệm Vượt qua của Người, thánh Lu-ca đã sử dụng một từ rất súc tích, “cuộc xuất hành” (exodos) : hai vị : “nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem” (Lc 9,31). “Xuất hành”, là một từ ngữ then chốt của mạc khải ; nó gợi lên toàn bộ lịch sử cứu độ và diễn tả ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Vượt qua. Đề tài này được linh đạo đời thánh hiến ưa thích cách riêng, vì bộc lộ rõ ràng chiều hướng của đời sống này. Chắc chắn nó bao hàm những gì thuộc về mầu nhiệm thập giá, mysterium Crucis. Nhưng đặt trong viễn tượng Ta-bo, “con đường xuất hành” cam go được lồng giữa hai luồng ánh sáng : ánh sáng báo trước của cuộc biến hình và ánh sáng vĩnh viễn của cuộc Phục Sinh.

Nhìn trong viễn tượng của toàn thể đời sống Ki-tô hữu, ơn gọi sống đời thánh hiến mặc dù có những từ bỏ và những thử thách, hoặc đúng hơn chính nhờ những từ bỏ và thử thách, là một con đường “ánh sáng”, trên đó Đấng Cứu Chuộc hằng đưa mắt trông chừng : “Chỗi dậy đi, đừng sợ”.

CHƯƠNG II – SIGNUM FRATERNITATIS

ĐỜI THÁNH HIẾN, DẤU CHỈ HIỆP THÔNG TRONG GIÁO HỘI

  1. NHỮNG GIÁ TRỊ THƯỜNG HẰNG

Theo hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi

  1. Trong cuộc sống trần thế, Chúa Giê-su đã kêu gọi những ai Người muốn, để giữ họ lại bên Người và chuẩn bị cho họ theo gương Người sống cho Chúa Cha và cho sứ mạng Người đã nhận lãnh (x. Mc 3,13-15). Như vậy, Người đã tạo ra gia đình mới, gia đình sẽ quy tụ qua dòng thời gian hết những ai sẵn sàng “thi hành ý muốn của Thiên Chúa” (x. Mc 3,32-35). Sau khi Đức Giê-su lên trời, nhờ ân ban Thánh Thần, một cộng đoàn huynh đệ đã thành hình quanh các Tông Đồ, họ tụ họp lại để ca ngợi Thiên Chúa và sống kinh nghiệm hiệp thông cụ thể (x. Cv 2,42-47 ; 4,32-35). Đời sống của cộng đoàn này, và hơn nữa, kinh nghiệm của Nhóm Mười Hai đã chia sẻ mọi sự với Đức Ki-tô, luôn luôn là khuôn mẫu cảm hứng cho Giáo Hội mỗi khi Giáo Hội muốn sống với lòng sốt sắng của thời nguyên thuỷ và kín múc thêm sức lực Tin Mừng cho cuộc hành trình của mình trong lịch sử (86).

Trong thực tế, Giáo Hội chủ yếu là mầu nhiệm hiệp thông, “đoàn dân được kết hiệp nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (87). Đời sống huynh đệ nhằm phản ánh chiều sâu và sự phong phú của mầu nhiệm này, bằng cách tạo ra một nơi cư ngụ cho Thiên Chúa Ba Ngôi giữa môi trường nhân loại, nhằm tiếp tục đưa vào lịch sử những ân huệ hiệp thông mà chỉ duy Ba Ngôi Thiên Chúa mới có. Trong đời sống Giáo Hội hẳn có nhiều cơ chế và hình thức diễn tả tình hiệp thông huynh đệ. Chắc hẳn đời thánh hiến đã có công duy trì trong Giáo Hội đời sống huynh đệ như một cách tuyên xưng Thiên Chúa. Khi thường xuyên cổ võ tình yêu huynh đệ, nhất là dưới dạng đời sống chung, đời thánh hiến cho thấy rằng việc tham dự vào tình hiệp thông Ba Ngôi có thể thay đổi những mối tương quan nhân loại, và tạo ra một kiểu tình liên đới mới. Nhờ thế, đời thánh hiến làm cho loài người thấy được vẻ đẹp của sự hiệp thông huynh đệ và của những con đường cụ thể đưa tới đó. Quả thế, những con người tận hiến sống “cho” Thiên Chúa và sống “bởi” Thiên Chúa, và chính vì thế, họ có thể tuyên xưng quyền năng hoà giải của ân sủng, là tiêu diệt các lực lượng gây chia rẽ nằm trong trái tim con người và trong những tương quan xã hội.

Đời sống huynh đệ trong tình yêu

  1. Đời sống huynh đệ, hiểu như là một đời sống chia sẻ trong tình yêu, là một dấu chỉ hùng hồn về sự hiệp thông Giáo Hội. Nó được vun trồng kỹ càng trong các dòng tu và các tu đoàn tông đồ, những nơi mà đời sống cộng đoàn mang một ý nghĩa đặc biệt (88). Nhưng chiều kích hiệp thông huynh đệ cũng không thiếu nơi những tu hội đời, hoặc những hình thái cá nhân của đời thánh hiến. Các ẩn sĩ lắng chìm trong cô tịch không đứng ngoài sự hiệp thông Giáo Hội, nhưng họ phục vụ sự hiệp thông này bằng đoàn sủng chiêm niệm chuyên biệt của họ ; các trinh nữ tận hiến giữa đời sống ơn thánh hiến của họ trong mối tương quan đích thực hiệp thông với Giáo Hội địa phương và phổ quát. Điều này cũng đúng với các quả phụ và người goá vợ được thánh hiến.

Khi sống thân phận làm môn đệ theo Tin Mừng, tất cả những con người ấy dấn thân thực thi “điều răn mới” của Chúa, bằng cách yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta (x. Ga 13,34). Tình yêu đã đưa Đức Ki-tô đến trao hiến thân mình, hy sinh tận cùng trên thập giá. Giữa các môn đệ cũng thế, không có sự hiệp nhất đích thực nếu không có tình yêu hỗ tương vô điều kiện ấy, một tình yêu đòi hỏi phải sẵn sàng phục vụ không tính toán, sẵn sàng đón tiếp người khác dù họ thế nào đi nữa, không “xét đoán” họ (x. Mt 7,1-2), có khả năng tha thứ dù cả tới “bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22). Những người tận hiến, hợp nhau nên “một lòng một ý” (Cv 4,32) nhờ tình yêu đã được Chúa Thánh Thần đổ chan hoà vào trong các tâm hồn (x. Rm 5,5), cảm thấy trong lòng yêu sách là đặt mọi sự làm của chung : những tài sản vật chất và những kinh nghiệm thiêng liêng, những tài năng và những cảm hứng, kể cả những lý tưởng tông đồ và việc phục vụ bác ái : “Trong đời sống cộng đoàn, sức mạnh Thánh Thần tác động trong một người, thì cũng được chuyển thông cho hết mọi người […]. Mỗi người không những chỉ được hưởng những ân ban riêng cho mình nhưng còn gia tăng chúng lên bằng cách thông chia với những người khác, và như thế mỗi người được hưởng những ân huệ của kẻ khác như là những ân huệ của chính mình” (89).

Trong đời sống cộng đoàn, người ta phải xác tín rằng sự hiệp thông huynh đệ không chỉ là một phương tiện giúp thi hành một sứ mạng nào đó, mà còn là nơi Thiên Chúa ngự, nơi mà người ta có thể kinh nghiệm được sự hiện diện bí nhiệm của Chúa phục sinh (x. Mt 18,20) (90). Điều này được thực hiện nhờ tình yêu hỗ tương của các phần tử trong cộng đoàn, tình yêu được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa và Thánh thể, được thanh luyện nhờ bí tích Hoà giải, được nâng đỡ nhờ lời nguyện xin ơn hiệp nhất, là một ân huệ Thánh Thần ban cho những ai biết sẵn sàng lắng nghe Tin Mừng với lòng vâng phục. Chính Thánh Thần là Đấng dẫn đưa tâm hồn vào trong sự hiệp thông với Chúa Cha và với Con của Chúa Cha là Đức Giê-su Ki-tô (x. 1 Ga 1,3), sự hiệp thông này là nguồn mạch của đời sống huynh đệ. Nhờ Thánh Thần, các cộng đoàn sống đời thánh hiến được hướng dẫn trong nỗ lực chu toàn sứ mạng của họ, là phục vụ Giáo Hội và toàn thể nhân loại theo linh ứng nguyên thuỷ của mình.

Trong viễn tượng này, các “tu nghị” toàn dòng, hoặc các “tu nghị” riêng (hoặc các cuộc hội họp tương tự), mang một tầm quan trọng đặc biệt ; trong những buổi họp đó, mỗi tu hội được kêu gọi bầu chọn những bề trên, thể theo những quy tắc được hiến chương xác định, và biện phân, dưới ánh sáng của Thánh Thần, những hình thái nào tốt nhất để bảo tồn và thích nghi đoàn sủng và gia sản thiêng liêng riêng của mỗi tu hội cho hợp với những hoàn cảnh xã hội và văn hoá khác nhau (91).

Trách nhiệm của quyền bính

  1. Trong đời thánh hiến, vai trò của các bề trên nam nữ, trung ương cũng như địa phương, luôn luôn có một tầm quan trọng lớn đối với đời sống thiêng liêng cũng như đối với sứ vụ. Trong những năm thử nghiệm và thay đổi gần đây, đôi khi người ta cảm thấy cần kiểm điểm về chức năng này. Nhưng phải nhìn nhận rằng những người hành sử quyền bính không thể từ khước bổn phận của họ, là những người hữu trách đầu tiên trong cộng đoàn giữ vai trò hướng dẫn anh chị em trên con đường thiêng liêng và tông đồ.

Trong những khung cảnh quá nặng chủ nghĩa cá nhân, không dễ gì giúp người ta nhìn nhận và đón tiếp vai trò quyền bính phải có nhằm mưu ích cho mọi người. Dù vậy, phải tái khẳng định tầm quan trọng của nhiệm vụ này, rất cần thiết để củng cố sự hiệp thông huynh đệ, và để đừng cho lời khấn vâng phục trở nên vô nghĩa. Nếu quyền bính trước hết phải có tính huynh đệ và thiêng liêng, và do đó, nếu những ai giữ quyền bính phải biết dùng đối thoại để đưa anh chị em mình vào trong tiến trình quyết định, thì cũng nên nhớ rằng, lời nói cuối cùng thuộc về quyền bính, và sau đó quyền bính có nhiệm vụ giúp người ta tôn trọng những điều đã quyết định (92).

Vai trò của những người cao niên

  1. Việc chăm sóc những người già cả bệnh tật mang tầm quan trọng trong đời sống huynh đệ, nhất là vào thời đại chúng ta, khi tại một số miền trên thế giới, con số những người tận hiến cao niên ngày càng gia tăng. Họ đáng được trân trọng và ân cần săn sóc không phải chỉ vì do một bổn phận công bằng bác ái và do lòng tri ân, nhưng những cử chỉ đó muốn diễn tả niềm xác tín là chứng tá của những vị cao niên rất có ích cho Giáo Hội và tu hội, và sứ mạng của họ vẫn còn đáng giá và đầy công đức, cho dù vì tuổi tác và bệnh tật, họ đã phải rời bỏ việc làm. Chắc chắn các vị đó có nhiều kho tàng khôn ngoan và kinh nghiệm để cống hiến cho cộng đoàn, nếu cộng đoàn biết gần gũi, ân cần săn sóc họ và lắng nghe họ.

Trong thực tế, sứ mạng tông đồ, trước khi là hoạt động, phải là một chứng tá phó thác toàn thân cho ý muốn cứu độ của Chúa, kín múc nơi những nguồn mạch của kinh nguyện và sám hối. Do đó những người cao niên có thể được kêu mời sống ơn gọi của họ theo nhiều cách : chuyên cần cầu nguyện, kiên nhẫn chịu đựng hoàn cảnh, sẵn sàng phục vụ trong tư cách linh hướng, cha giải tội hoặc hướng dẫn cầu nguyện (93).

Theo hình ảnh cộng đoàn tông đồ

  1. Đời sống huynh đệ là một yếu tố cơ bản trong hành trình thiêng liêng của những người tận hiến, để họ tự canh tân thường xuyên và để họ hoàn tất trọn vẹn sứ mạng của họ trong thế giới. Xác tín này dựa trên những nền tảng thần học, và đã được chính kinh nghiệm củng cố. Vậy tôi khuyến khích những người tận hiến hãy nhiệt thành vun trồng đời sống huynh đệ, theo gương các Ki-tô hữu tiên khởi Giê-ru-sa-lem, chuyên cần trong việc lắng nghe giáo huấn của các Tông Đồ, cầu nguyện chung, tham dự bí tích Thánh Thể, chia sẻ của cải vật chất và thiêng liêng (x. Cv 2,42-47). Tôi đặc biệt khuyến khích các thành viên của các tu đoàn tông đồ, hãy sống cho trọn tình yêu hỗ tương, diễn tả tình yêu ấy theo cách phù hợp với bản tính của mỗi tu hội, ngõ hầu mỗi cộng đoàn là một dấu chỉ sáng ngời của thành Giê-ru-sa-lem mới, “nhà của Thiên Chúa giữa lòng nhân loại” (Kh 21,3).

Toàn thể Giáo Hội trông chờ nhiều nơi chứng tá của các cộng đoàn tràn ngập “niềm hoan lạc và Thánh Thần” (Cv 13,52). Giáo Hội ước muốn giới thiệu cho thế giới gương sáng của những cộng đoàn, trong đó việc quan tâm giúp đỡ nhau giúp vượt thắng cảnh cô đơn. Sự thông hảo thúc đẩy mỗi người cảm thấy đồng trách nhiệm, sự tha thứ giúp hàn gắn những vết thương, và quyết tâm sống hiệp thông của mỗi người được kiện toàn. Trong các cộng đoàn như vậy, bản chất các đoàn sủng đang điều động các năng lực, nâng đỡ lòng trung thành và hướng dẫn công việc tông đồ của mọi người nhắm tới một sứ mạng duy nhất. Để giới thiệu cho nhân loại hôm nay gương mặt đích thực của mình, Giáo Hội thực sự cần có những cộng đoàn huynh đệ như thế ; bằng chính cuộc sống của mình, họ đang góp phần vào công cuộc tái tuyền giảng Tin Mừng, bởi vì họ đang cho thấy cách cụ thể những hoa trái của “điều răn mới”.

Sentire cum Ecclesia : Đồng cảm với Giáo Hội

  1. Một nhiệm vụ quan trọng được giao phó cho đời sống thánh hiến, dưới ánh sáng của đạo lý về Giáo Hội xét như là hiệp thông đã được Công Đồng Va-ti-ca-nô II khẳng định. Những người tận hiến được yêu cầu trở thành thực sự những chuyên viên về hiệp thông và thực hành linh đạo hiệp thông (94), như “những chứng nhân và những người kiến tạo kế hoạch hiệp thông, đỉnh cao của lịch sử nhân loại theo ý muốn của Thiên Chúa” (95). Cảm thức về hiệp thông trong Giáo Hội, khi trở thành linh đạo hiệp thông, cổ võ một lối suy nghĩ, nói năng và hành động giúp cho Giáo Hội tiến về chiều sâu và chiều rộng. Quả thật, đời sống hiệp thông “trở thành một dấu chỉ cho thế giới và một sức mạnh thu hút người ta tin vào Đức Ki-tô […]. Như thế, sự hiệp thông đưa tới sứ vụ, và biến thành sứ mạng, hoặc đúng hơn “sự hiệp thông sinh ra sự hiệp thông và chủ yếu của nó là hiệp thông sứ vụ” (96).

Các đấng sáng lập dòng luôn tỏ ra một cảm thức nhạy bén về Giáo Hội, cảm thức này được biểu lộ bằng việc họ tham dự trọn vẹn vào đời sống Giáo Hội trong mọi chiều kích và bằng sự vâng phục mau mắn đối với các vị mục tử, đặc biệt với Đức thánh cha Rô-ma. Chính vì tình yêu đối với Hội Thánh, “cột trụ và điểm tựa của chân lý” (1 Tm 3,15), mà ta hiểu được lòng sùng kính của thánh Phan-xi-cô Át-xi-di đối với “ngài giáo hoàng” (97), sự táo bạo đầy tình con thảo của thánh Ca-ta-ri-na Xi-ê-na đối với đấng mà nữ thánh gọi là “Đức Ki-tô hiền lành trên mặt đất” (98), lòng vâng phục tông đồ và đồng cảm với Giáo Hội, sentire cum Ecclesia, của thánh I-nha-xi-ô Lôi-ô-la (99), việc hân hoan tuyên xưng đức tin của thánh Tê-rê-xa Giê-su : “Tôi là con của Giáo Hội” (100). Chúng ta cũng có thể hiểu được ước ao mãnh liệt của thánh Tê-rê-xa Lisieux : “Trong lòng Giáo Hội, Mẹ của con, con sẽ là tình yêu …” (101). Những chứng từ này nói lên sự hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội mà các thánh nam nữ, các đấng sáng lập dòng, đã sống vào những thời đại và trong những hoàn cảnh khác nhau và thường rất khó khăn. Đó là những gương sáng mà những người tận hiến phải thường xuyên quy chiếu, để kháng cự lại những sức ly tâm và huỷ hoại đang hoành hành ngày nay.

Một khía cạnh nổi bật của sự hiệp thông với Giáo Hội là gắn bó bằng cả trí tuệ và con tim với huấn quyền của các giám mục ; tất cả những người tận hiến, đặc biệt những ai dấn thân trong công việc nghiên cứu thần học, trong việc giảng dạy, trong việc xuất bản sách vở, trong huấn giáo, trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội (102), phải nghiêm chỉnh thi hành và minh chứng rõ ràng điều này trước mắt Dân Thiên Chúa. Bởi vì những người tận hiến giữ một vị trí đặc biệt trong Giáo Hội, cho nên thái độ của họ đối với huấn quyền có một tầm quan trọng lớn trước toàn thể Dân Thiên Chúa. Chứng tá của lòng mến yêu hiếu thảo của họ mang lại sức mạnh và sinh khí cho hoạt động tông đồ của họ. Trong khuôn khổ của sứ mạng ngôn sứ chung cho hết mọi tín hữu, đặc điểm chung của hoạt động tông đồ là những hình thức hợp tác chặt chẽ với hàng giáo phẩm (103). Như thế, với những đoàn sủng phong phú, các người tận hiến giúp Giáo Hội thể hiện ngày một sâu xa hơn bản tính của mình là bí tích của “sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và sự hợp nhất toàn thể nhân loại” (104).

Tình huynh đệ trong Giáo Hội phổ quát

  1. Những người tận hiến được kêu gọi trở thành chất men hiệp thông sứ vụ trong Giáo Hội phổ quát, vì các đoàn sủng khác nhau của các tu hội khác nhau được Chúa Thánh Thần ban cho là để mưu ích cho toàn Nhiệm Thể, nên họ phải phục vụ công việc xây dựng Nhiệm Thể (x. 1 Cr 12,4-11). Theo lời thánh Tông Đồ, “con đường trổi vượt hơn cả” (1 Cr 12,31), điều “cao trọng hơn cả” (1 Cr 13,13) là đức mến, vì đức mến dung hoà mọi khác biệt, thúc đẩy mọi người nâng đỡ nhau để hăng hái dấn thân trong công việc tông đồ. Chính là để đạt tới lòng mến mà đời thánh hiến dưới nhiều hình thức khác nhau và các tu đoàn tông đồ, muốn được liên kết trong tình hiệp thông đặc biệt với đấng kế vị thánh Phê-rô trong tác vụ kiến tạo sự hiệp nhất và thúc đẩy công cuộc truyền giáo phổ quát. Lịch sử linh đạo cho thấy mối liên kết này đã có một vai trò quan phòng trong việc bảo đảm chân tính đời thánh hiến và phát triển công cuộc loan báo Tin Mừng. Như các nghị phụ Thượng hội đồng đã nhận xét, nếu không có sự đóng góp của các tu hội tận hiến và các tu đoàn tông đồ, thì khó mường tượng được làm sao Tin Mừng có thể được phổ biến rộng rãi, Giáo Hội bén rễ vững chắc tại nhiều nơi trên thế giới, làm sao có được mùa xuân Ki-tô giáo nở rộ tại các Giáo Hội trẻ như vậy. Qua các thời đại, các tu hội giữ vững sự hiệp thông với các đấng kế vị thánh Phê-rô, và các ngài luôn tìm gặp nơi họ những người quảng đại mau mắn tận tuỵ truyền giáo và sẵn sàng hy sinh đến mức anh hùng khi hoàn cảnh đòi hỏi.

Như thế có thể thấy rõ đặc tính phổ quát và hiệp thông của các tu hội tận hiến và các tu đoàn tông đồ. Do bản tính không bị ràng buộc vào một giáo phận, dựa trên tương quan đặc biệt với tác vụ của thánh Phê-rô, họ cũng sẵn sàng phục vụ công cuộc hợp tác giữa các Giáo Hội địa phương (105) ; nhờ khả năng cổ võ hữu hiệu việc “trao đổi các ân sủng” và góp phần vào việc hội nhập Tin Mừng vào văn hoá, nhờ vậy các giá trị phong phú của các dân tộc được Phúc Âm thanh lọc, đánh giá và hấp thụ (106). Ngày nay, trong các Giáo Hội trẻ, hiện tượng nở rộ các ơn gọi đời thánh hiến cho thấy rằng đời thánh hiến diễn tả được những khát vọng của các dân tộc và các nền văn hoá khác biệt trong sự duy nhất của Giáo Hội Công Giáo.

Đời thánh hiến và Giáo Hội địa phương

  1. Giữa lòng các Giáo Hội địa phương, những người tận hiến cũng có một vai trò đầy ý nghĩa. Khởi đi từ đạo lý của Công Đồng về Giáo Hội như hiệp thông và mầu nhiệm, về các Giáo Hội địa phương như là những phần của Dân Thiên Chúa trong đó “Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền của Đức Ki-tô hiện diện và hành động thực sự” (107), sự kiện này đã được đào sâu và quy định thành luật trong nhiều văn kiện. Các bản văn này nêu rõ tầm quan trọng cơ bản của sự cộng tác giữa những người tận hiến với các giám mục, để phát triển hài hoà công việc mục vụ giáo phận. Các đoàn sủng của đời thánh hiến có thể góp phần đắc lực vào việc xây dựng đức mến trong Giáo Hội địa phương.

Quả vậy, những hình thái đa dạng của việc sống các lời khuyên Phúc Âm biểu lộ và kết tụ các ân huệ thiêng liêng mà các đấng sáng lập nam nữ đã nhận được. Như vậy, các hình thái ấy làm nên “một cảm nghiệm Thần Khí được trao lại cho các đồ đệ để họ sống, gìn giữ, đào sâu, triển khai thường xuyên hoà nhịp với Thân Thể Đức Ki-tô đang tăng tưởng không ngừng” (108). Bản sắc của mỗi tu hội bao hàm một linh đạo và hoạt động tông đồ riêng, quy định dần dần trong một truyền thống nhất định, với những yếu tố khách quan (109). Theo chiều hướng này, Giáo Hội quan tâm lo cho các tu hội được tăng trưởng và phát triển trong sự trung thành với tinh thần của các đấng sáng lập và với những truyền thống lành mạnh của họ (110).

Do đó, mỗi tu hội vẫn có một quyền tự trị chính đáng, nhờ vậy họ có thể duy trì một kỷ luật riêng và bảo toàn một gia sản thiêng liêng và tông đồ. Các đấng bản quyền có bổn phận bảo toàn và che chở quyền tự trị này (111). Vậy các giám mục được yêu cầu đón tiếp và trân trọng các đoàn sủng của đời thánh hiến, dành cho chúng một chỗ trong các kế hoạch mục vụ giáo phận. Các ngài phải đặc biệt quan tâm đến các tu hội thuộc quyền giáo phận, được giao phó cho giám mục sở tại chăm sóc đặc biệt. Một giáo phận không có đời thánh hiến hẳn sẽ thiếu mất nhiều ân huệ thiêng liêng, thiếu những nơi dành cho việc tìm kiếm Thiên Chúa, thiếu những hoạt động tông đồ và những phương pháp mục vụ chuyên biệt ; hơn nữa giáo phận ấy có thể suy yếu đi rất nhiều bởi thiếu vắng tinh thần truyền giáo là đặc trưng của đa số các tu hội (112). Vậy cần biết đón nhận hồng ân đời thánh hiến mà Thánh Thần khơi lên trong Giáo Hội địa phương, bằng cách quảng đại tiếp nhận với tâm tình quảng đại và tri ân.

Hiệp thông phong phú và quy mô trong Giáo Hội

  1. Giám mục là cha và mục tử của toàn thể Giáo Hội địa phương. Người có nhiệm vụ nhìn nhận và tôn trọng những đoàn sủng khác biệt, thăng tiến và phối hợp chúng. Vậy trong tình bác ái mục vụ, người phải đón tiếp đoàn sủng đời thánh hiến như một ân huệ, không phải chỉ liên hệ đến một tu hội, mà còn có lợi cho toàn thể Giáo Hội. Như thế người phải tìm cách nâng đỡ và trợ giúp những người tận hiến, hầu họ sống hiệp thông với Giáo Hội, mở ra những viễn tượng thiêng liêng và mục vụ đáp ứng những đòi hỏi của thời đại chúng ta, mà vẫn trung thành với đoàn sủng sáng lập của họ. Phần họ, những người tận hiến đừng quên quảng đại cộng tác với Giáo Hội địa phương, tuỳ theo sức lực của họ và tôn trọng đoàn sủng của họ, hoạt động trong tinh thần hiệp thông trọn vẹn với giám mục ở các lãnh vực truyền giảng Phúc Âm, huấn giáo, sinh hoạt giáo xứ.

Nên nhắc lại rằng khi điều phối việc phục vụ Giáo Hội phổ quát với việc phục vụ Giáo Hội địa phương, các tu hội không thể nại đến quyền tự trị chính đáng của mình, và thậm chí quyền miễn trừ (113) mà nhiều tu hội được hưởng, để biện minh cho những chọn lựa đi ngược lại những đòi hỏi của sự hiệp thông hữu cơ cần thiết cho đời sống lành mạnh của Giáo Hội. Ngược lại, phải làm sao cho các sáng kiến mục vụ của những người tận hiến được quyết định và thực hành trong một cuộc đối thoại thân ái và cởi mở giữa các giám mục và các bề trên của các tu hội khác nhau. Thái độ quan tâm của các giám mục đối với ơn gọi và sứ mạng của các tu hội và thái độ kính trọng của các tu hội đối với thừa tác vụ của các giám mục, được diễn tả qua việc mau mắn đón nhận những chỉ thị cụ thể về mục vụ giáo phận, diễn tả hai hình thái liên kết chặt chẽ của một đức ái duy nhất trong Giáo Hội, đức ái đòi hỏi mỗi bên phải phục vụ sự hiệp thông hữu cơ – vừa mang tính đoàn sủng, vừa được kết cấu theo phẩm trật – của toàn Dân Thiên Chúa.

Liên lỉ đối thoại nhờ đức ái linh hoạt

  1. Việc đối thoại liên lỉ giữa các bề trên các hội dòng tận hiến và tu đoàn tông đồ với các giám mục là điều rất hữu ích. Hiểu biết nhau là điều kiện cần thiết để hợp tác hữu hiệu, nhất là trong lãnh vực mục vụ. Nhờ các cuộc trao đổi thường xuyên như vậy, các bề trên nam nữ có thể thông báo cho các giám mục biết những dự án tông đồ mình đang nhắm đến trong các giáo phận của các ngài, để cùng đi tới những thoả thuận cần thiết cho việc thực hiện. Cũng thế, nên mời những đại biểu của các Hiệp hội các bề trên nam nữ thượng cấp tham dự các cuộc họp của Hội đồng giám mục và ngược lại, nên mời những đại biểu của các Hội đồng giám mục tham dự các Hội nghị của bề trên nam nữ thượng cấp, dựa theo những thể thức cần được xác định. Trong viễn tượng đó, một điều rất có lợi là thành lập – tại những nơi nào chưa có – những uỷ ban hỗn hợp gồm các giám mục và các bề trên thượng cấp ở bình diện quốc gia (114), để làm việc và sẽ cùng nhau cứu xét những vấn đề đem lại lợi ích chung. Cũng vậy, nhằm phát động việc hiểu biết giữa đôi bên, nên đưa thần học và linh đạo đời thánh hiến vào chương trình thần học của các linh mục giáo phận, cũng như nên tiên liệu trong chương trình huấn luyện những người tận hiến việc nghiên cữu kỹ càng nền thần học Giáo Hội địa phương và linh đạo giáo sĩ giáo phận (115).

Sau cùng, thật là an ủi khi nhắc lại rằng tại Thượng hội đồng đã có nhiều tham luận về đạo lý hiệp thông, và người ta vui sướng chứng kiến các giám mục và các nam nữ tu sĩ hiện diện đã đối thoại với nhau trong một bầu không khí tin tưởng và cởi mở. Ước gì kinh nghiệm thiêng liêng này, về hiệp thông và cộng tác, được mở rộng ra toàn thể Giáo Hội, (116) cả sau phiên họp Thượng hội đồng nữa. Đó cũng là nguyện vọng của tôi : mong sao mọi người tấn tới trong thái độ hiệp thông và linh đạo hiệp thông.

Tình huynh đệ trong một thế giới chia rẽ và bất công

  1. Giáo Hội ký thác cho các cộng đoàn sống đời thánh hiến bổn phận đặc biệt : đó là phát triển linh đạo hiệp thông trước tiên trong chính cộng đoàn của họ, kế đến trong cộng đồng Giáo Hội và vượt cả biên giới này nữa, bằng cách kiên trì theo đuổi cuộc đối thoại bác ái, nhất là tại những nơi hiện đang bị xâu xé bởi sự hận thù chủng tộc hay nạn bạo lực điên rồ. Được tháp nhập vào trong những xã hội của thế giới, – những xã hội thường bị cày xới bởi những đam mê và quyền lợi xung đột nhau, đang khao khát hiệp nhất nhưng lại ngập ngừng về những đường lối phải theo -, các cộng đoàn sống đời thánh hiến, nơi mà những con người khác nhau về tuổi tác, ngôn ngữ và văn hoá lại gặp nhau như những anh em chị em, trở thành những dấu chỉ chứng minh rằng luôn luôn có thể đối thoại được với nhau, và có thể hài hoà được nhờ có hiệp thông.

Các cộng đoàn sống đời thánh hiến được sai đi để qua chứng tá đời sống, loan báo giá trị của tình huynh đệ Ki-tô giáo và sức mạnh biến đổi của Tin Mừng (117), nhìn nhận mỗi người là con cái Thiên Chúa, và thúc đẩy đi tới tình yêu dâng hiến đối với hết mọi người, cách riêng với những người thấp kém nhất. Các cộng đoàn này là những nơi sống niềm hy vọng và khám phá ra các mối phúc, những nơi mà tình yêu được bồi dưỡng nhờ kinh nguyện, nguồn hiệp thông, được kêu gọi trở thành khuôn mẫu của cuộc sống và nguồn mạch niềm vui.

Vào thời đại chúng ta, với đặc điểm là các vấn đề mang tính toàn cầu và các thần tượng của chủ nghĩa quốc gia lại xuất hiện, các tu hội quốc tế có trách nhiệm đặc biệt là duy trì cảm thức về sự hiệp thông giữa các dân tộc, các màu da, các nền văn hoá, và làm chứng về các điều đó. Trong một bầu khí huynh đệ, thái độ cởi mở với chiều kích toàn cầu của các vấn đề sẽ không bóp nghẹt những nét phong phú địa phương, và việc khẳng định một sắc thái địa phương không xung khắc với các sắc thái khác hoặc với sự hiệp nhất. Các tu hội quốc tế có thể thực hiện điều đó cách hữu hiệu, bởi vì chính họ phải chấp nhận thách đố hội nhập văn hoá bằng cách vừa chứng tỏ có óc sáng tạo vừa vẫn bảo toàn được căn tính của mình.

Hiệp thông giữa các tu hội khác nhau

  1. Các mối quan hệ thiêng liêng huynh đệ và sự cộng tác giữa các hội dòng tận hiến và tu đoàn tông đồ khác nhau được củng cố và nuôi dưỡng bởi cảm thức về sự hiệp thông trong Giáo Hội. Những con người hiệp nhất với nhau vì đã cùng cam kết bước theo Đức Ki-tô – sequela Christi – và được thúc đẩy bởi cùng một Thánh Thần, không thể nào không biểu lộ cách hữu hình sự viên mãn của Tin Mừng tình yêu, như là những cành của một Cây Nho duy nhất. Khi nhắc lại gương các đấng lập dòng nam nữ, lúc còn sống ở trần gian, đã kết thân với nhau trong một tình bạn thiêng liêng mà vẫn trung thành với bản tính của tu hội mình, thì những người tận hiến cũng được kêu mời sống trong một tình huynh đệ gương mẫu, có sức khích lệ các thành phần khác nhau trong Giáo Hội làm chứng cho Tin Mừng trong việc dấn thân hằng ngày.

Lời của thánh Bê-na-đô về các hội dòng khác nhau vẫn luôn luôn mang tính hiện đại : “Tôi thán phục tất cả các dòng […]. Tôi thuộc về một trong các dòng đó do kỷ luật, nhưng thuộc về tất cả do đức mến. Tất cả chúng ta đều cần đến nhau : điều thiện hảo thiêng liêng mà tôi không có, hay không chiếm hữu, thì tôi nhận được từ những dòng khác […]. Trong cuộc lưu đày này, khi mà Giáo Hội còn đang lữ hành, có thể nói rằng tính duy nhất của Giáo Hội thì đa dạng và tính đa dạng của Giáo Hội thì duy nhất […]. Và tất cả những khác biệt của chúng ta, biểu lộ các ân huệ phong phú của Thiên Chúa, sẽ còn tồn tại trong nhà Cha, vì nơi đây có nhiều chỗ ở. Ngày nay thì có sự phân phối các ân sủng, ngày ấy sẽ có sự phân biệt các vinh dự. Sự hiệp nhất, ở dưới thế này cũng như ở trên đó, là do cùng một đức mến” (118).

Các cơ quan điều phối

  1. Những Hiệp hội bề trên nam nữ thượng cấp và Hiệp hội các tu hội đời có thể góp phần đáng kể vào sự hiệp thông. Được Công Đồng Va-ti-ca-nô II (119) và các văn kiện sau này (120) khích lệ và ra những quy tắc, các cơ quan ấy có mục tiêu chính là cổ võ đời sống thánh hiến tháp nhập vào toàn thể sứ mạng của Giáo Hội.

Do trung gian các Hiệp hội kể trên, các tu hội biểu lộ sự hiệp thông giữa các tu hội và tìm kiếm những phương tiện để củng cố sự hiệp thông này mà vẫn tôn trọng và nêu bật giá trị các đặc điểm riêng của những đoàn sủng khác nhau, phản ánh mầu nhiệm Giáo Hội và sự khôn ngoan muôn hình vạn trạng của Thiên Chúa (121). Tôi khuyến khích các tu hội tận hiến cộng tác với nhau, nhất là tại những quốc gia vì gặp những khó khăn riêng, nên dễ bị cám dỗ co quắp lại chính mình, làm hại cho chính đời thánh hiến và cho Giáo Hội. Trái lại, họ phải giúp nhau tìm hiểu chương trình của Thiên Chúa trong những thăng trầm hiện tại của lịch sử (122), hầu đáp trả trọn vẹn hơn bằng những sáng kiến tông đồ thích hợp. Trong viễn tượng hiệp thông và cởi mở trước những thách đố của thời đại chúng ta, các bề trên nam nữ, “trong khi làm việc hài hoà với hàng giám mục”, hãy “biết sử dụng những cộng sự viên khá nhất của mỗi tu hội và hãy tạo ra những chương trình không chỉ nhằm giải quyết những giới hạn tạm thời mà còn nhằm tạo ra một kiểu huấn luyện đời thánh hiến cho có phẩm chất” (123).

Tôi mời các Hiệp hội bề trên nam nữ thượng cấp tìm cách tiếp xúc thường xuyên và đều đặn với Bộ hội dòng tận hiến và các tu đoàn tông đồ, để biểu lộ sự hiệp thông của họ với Toà Thánh. Cũng nên duy trì những quan hệ tích cực và tin tưởng với các Hội đồng giám mục của mỗi quốc gia. Trong tinh thần của văn kiện “Các liên hệ hỗ tương”, Mutuae relationes, nên thiết lập một hình thức liên hệ bền vững, ngõ hầu có thể duy trì một sự điều phối thường xuyên và thích hợp mỗi khi nảy ra sáng kiến mới. Nếu kiên trì làm đúng những điều này trong tinh thần gắn bó trung thành với các chỉ thị của Huấn quyền, thì các cơ quan điều phối và hiệp thông sẽ rất hữu ích, giúp tìm ra những giải pháp tránh được bao hiểu lầm và căng thẳng cả trên bình diện lý thuyết lẫn thực hành (124) : Như vậy các cơ quan ấy sẽ góp phần vào việc phát huy sự hiệp thông giữa các hội dòng tận hiến và các giám mục, cũng như vào việc hoàn tất chính sứ mạng của các Giáo Hội địa phương.

Hiệp thông và cộng tác với các giáo dân

  1. Vào những năm gần đây, đạo lý về Giáo Hội là hiệp thông đã giúp hiểu rõ hơn rằng các thành phần khác nhau trong Giáo Hội có thể và phải hiệp lực, trong tinh thần cộng tác và trao đổi các ân huệ, để tham gia hữu hiệu hơn vào sứ mạng Giáo Hội. Chúng ta sẽ có một hình ảnh đúng đắn và đầy đủ hơn về Giáo Hội, và nhất là chúng ta sẽ vững mạnh hơn để giải đáp những thách đố lớn của thời đại chúng ta, nhờ sự góp phần hài hoà của các ân huệ khác nhau.

Đối với các dòng đan tu và chiêm niệm, mối quan hệ với các giáo dân chủ yếu nằm ở bình diện thiêng liêng, còn đối với các tu hội dấn thân vào việc tông đồ thì mối quan hệ ấy được diễn tả qua sự hợp tác mục vụ. Những thành viên các tu hội đời, giáo dân hoặc giáo sĩ, duy trì những quan hệ với các tín hữu khác, trong những hình thức thông thường của cuộc sống hằng ngày. Ngày nay, nhiều tu hội, thường là do những hoàn cảnh mới, xác tín rằng đoàn sủng của họ có thể được chia sẻ với giáo dân ; do đó, các giáo dân được mời gọi tham dự nhiều hơn vào linh đạo và sứ mạng của chính tu hội. Ta có thể nói rằng, dựa trên kinh nghiệm lịch sử tựa như kinh nghiệm của các dòng ba hoặc huynh đoàn giáo dân khác nhau, một chương mới, đầy hy vọng, đang được mở ra về những tương quan giữa những người tận hiến và giáo dân.

Để đi tới một năng động thiêng liêng và tông đồ mới mẻ

  1. Những kinh nghiệm mới về hiệp thông và cộng tác này đáng được khuyến khích vì nhiều lý do. Thật vậy, tiên vàn chúng giúp phổ biến linh đạo đưa tới hoạt động vượt qua biên giới của tu hội : nhờ đó mà tu hội có thêm nhân lực mới, có thể bảo đảm tiếp tục trong Giáo Hội những sinh hoạt tiêu biểu của tu hội. Một hiệu quả nữa rất tích cực là những người tận hiến và giáo dân sẽ dễ hợp tác với nhau chặt chẽ hơn, dựa trên sứ mạng của tu hội ; nhờ gương thánh thiện của những người tận hiến, giáo dân sẽ có kinh nghiệm trực tiếp về tinh thần của các lời khuyên Phúc Âm, và được khích lệ sống và làm chứng cho tinh thần các mối phúc (125), hầu có thể biến đổi thế giới theo chương trình của Chúa.

Việc tham gia của các giáo dân thường mang lại một số cái nhìn mới mẻ và sâu sắc hơn về một vài khía cạnh của đoàn sủng, đưa tới việc giải thích nó một cách thiêng liêng hơn và rút ra những hướng đi mới cho sinh hoạt tông đồ. Khi tham gia bất cứ hoạt động hoặc tác vụ nào, những người tận hiến nên nhớ rằng, trước hết họ phải là những người có khả năng hướng dẫn đời sống thiêng liêng, do đó, họ phải làm sao vun trồng cho “tài năng quý báu nhất : đó là tinh thần” (126). Về phần mình, giáo dân mang lại cho các dòng tu một phần đóng góp quý báu của họ là sống giữa đời và phục vụ chuyên biệt.

Các giáo dân tình nguyện và hội viên

  1. Một hình thức rất ý nghĩa để giáo dân tham gia vào sự phong phú của đời thánh hiến là cho các tín hữu giáo dân được kết nạp vào các tu hội dưới hình thức mới gọi là “hội viên”, hoặc tuỳ theo nhu cầu của từng bối cảnh văn hoá, có thể là một hình thức tham gia trong một thời gian vào đời sống cộng đoàn và một cam kết đặc biệt tham gia vào việc chiêm niệm hay hoạt động tông đồ của tu hội. Dĩ nhiên với điều kiện là những hình thức vừa nói không được làm phương hại bản chất đời sống nội bộ của tu hội (127).

Thật đáng trân trọng thể thức tình nguyện này phát sinh từ sự phong phú của đời thánh hiến : tuy nhiên phải quan tâm đến việc huấn luyện những người tình nguyện, để ngoài sự đóng góp bằng khả năng chuyên môn, họ luôn có những động lực thiêng liêng sâu sắc trong ý hướng và một cảm thức sắc bén về cộng đoàn và Giáo Hội trong các dự phóng của họ (128). Cũng nên nhớ rằng, nếu những sáng kiến trong đó giáo dân tham gia ở cấp quyết định muốn được công nhận là những công việc của một tu hội nào đó, thì sáng kiến ấy phải theo sát mục tiêu của tu hội và phải được thực hiện dưới sự trách nhiệm của tu hội. Vì thế, nếu giáo dân đảm nhận điều hành những công việc đó thì họ phải báo cáo với các bề trên nam nữ có thẩm quyền. Tất cả các điều này cần được cứu xét rõ ràng và quy định thể theo những hướng dẫn riêng của mỗi tu hội, được quyền bính thượng cấp chuẩn nhận. Trong các văn bản đó, cần xác định thẩm quyền của tu hội, của cộng đoàn, và thẩm quyền của các hội viên hoặc của những người tình nguyện.

Những người tận hiến, được các bề trên phái đi và luôn vẫn tuỳ thuộc các ngài, có thể cộng tác theo các thể thức thích hợp với những sáng kiến của giáo dân, đặc biệt trong những tổ chức và những định chế đang phục vụ những người ở bên lề, và có mục tiêu xoa dịu nỗi đau khổ của nhân loại. Nếu sự cộng tác này được thúc đẩy và hỗ trợ bởi một bản sắc Ki-tô hữu trong sáng và mạnh mẽ, và nếu tôn trọng những đặc tính của đời thánh hiến, thì sự cộng tác này có thể chiếu toả sức mạnh và ánh sáng của Tin Mừng vào những hoàn cảnh tăm tối nhất của cuộc sống con người.

Trong những năm gần đây, nhiều người tận hiến đã tham gia vào một vài phong trào Giáo Hội hiện nay đang thịnh hành. Nói chung, những người ở trong các phong trào đó cũng được hưởng nhiều điều tốt qua kinh nghiệm này, đặc biệt là một sự đổi mới thiêng liêng. Tuy vậy, cũng không thể chối cãi là có những trường hợp, việc tham gia đó đã gây phiền toái, khiến cho có những cá nhân và cộng đoàn đi lạc hướng, nhất là khi có những xung đột với đời sống cộng đoàn và linh đạo của tu hội. Vậy phải làm sao để cho việc tham gia các phong trào Giáo Hội được thực hiện trong sự tôn trọng đoàn sủng và kỷ luật của tu hội (129), với phép của các bề trên và vẫn hoàn toàn đón nhận những quyết định của các ngài.

Phẩm giá và vai trò của người phụ nữ tận hiến

  1. Giáo Hội chứng tỏ sự phong phú thiên hình vạn trạng của mình về mặt thiêng liêng, khi biết vượt lên mọi thứ kỳ thị và biết đón nhận như một hồng phúc đích thực những ân huệ Thiên Chúa ban cho những người nam và người nữ, bởi vì đôi bên đều bình đẳng về nhân phẩm. Những phụ nữ tận hiến được mời một cách rất đặc biệt hãy sống đời thánh hiến thật viên mãn và vui tươi. hầu trở nên dấu chỉ của lòng âu yếm Thiên Chúa dành cho loài người và làm chứng một cách đặc biệt về mầu nhiệm Giáo Hội là trinh nữ, hiền thê, hiền mẫu (130). Sứ mạng của phụ nữ tận hiến được nêu lên tại Thượng hội đồng, tại đây một số đông đã tham gia, đã lên tiếng và được mọi người trân trọng lắng nghe. Nhờ những đóng góp của họ mà có thêm những đề nghị hữu ích cho đời sống Giáo Hội và cho sứ mạng loan báo Tin Mừng của Giáo Hội. Không thể chối cãi tính cách hợp lý của nhiều đòi hỏi liên quan đến vị trí của người nữ trong nhiều môi trường xã hội và Giáo Hội. Cũng nên ghi nhận rằng ý thức mới của các phụ nữ về chính mình đã giúp những người nam xét lại não trạng, cách hiểu biết về chính bản thân họ, cách họ tự định vị trong lịch sử và cách họ giải thích lịch sử, tổ chức đời sống xã hội, chính trị, kinh tế, tôn giáo và đời sống Giáo Hội.

Đức Ki-tô đã trao cho Giáo Hội một sứ điệp có sức giải phóng, vậy Giáo Hội có sứ mạng ngôn sứ là phổ biến sứ điệp ấy, bằng cách khuyến khích người ta có những đường lối suy nghĩ và xử sự phù hợp với ý muốn của Chúa. Trong bối cảnh này, người phụ nữ tận hiến có thể khởi đi từ kinh nghiệm của mình về Giáo Hội và từ đời sống phụ nữ của mình trong Giáo Hội, mà góp phần loại trừ một số quan niệm một chiều không giúp nhìn nhận trọn vẹn phẩm giá của người nữ, nhìn nhận phần đóng góp chuyên biệt của họ vào đời sống, vào hoạt động mục vụ và truyền giáo của Giáo Hội. Như thế, thật là hợp pháp khi người nữ tận hiến khao khát muốn thấy căn tính của mình, khả năng chuyên môn, sứ mạng và trách nhiệm của mình được nhìn nhận rõ ràng hơn, cả trong tâm thức của Giáo Hội lẫn trong đời sống hằng ngày.

Không thể nào nghĩ đến tương lai của công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng, cũng như của tất cả hình thái hoạt động truyền giáo khác, nếu không có phần đóng góp mới mẻ của các phụ nữ, đặc biệt của những phụ nữ tận hiến.

Những viễn tượng mới về hiện diện và hoạt động

  1. Bởi vậy, cần có ngay một vài hành động cụ thể, bắt đầu bằng cách mở cho phụ nữ những cơ hội tham gia những lãnh vực khác nhau và trên mọi bình diện, kể cả tham gia vào tiến trình quyết nghị quyết định, và đặc biệt trong những vấn đề liên quan đến phụ nữ.

Việc huấn luyện những phụ nữ tận hiến, ngang với việc huấn luyện những người nam, cần phải được thích nghi với những đòi hỏi khẩn cấp mới xuất hiện, và phải tiên liệu một thời gian và một cơ chế đầy đủ để thực hiện một sự đào tạo có hệ thống, bao trùm mọi lãnh vực, từ lãnh vực thần học và mục vụ đến lãnh vực nghề nghiệp. Việc huấn luyện mục vụ và huấn giáo vốn dĩ rất quan trọng, lại càng hữu dụng cho cuộc tái truyền giảng Tin Mừng, đang chờ mong phụ nữ tham gia một cách mới mẻ.

Dĩ nhiên, một sự đào tạo vững chắc sẽ giúp người phụ nữ được thánh hiến hiểu rõ những ơn huệ họ đã lãnh nhận, đồng thời sẽ khích lệ một sự trao đổi hai chiều trong lòng Giáo Hội. Trong lãnh vực suy tư thần học, văn hoá và tâm linh, người ta chờ đợi nhiều ở thiên tài của người nữ, không những liên quan đến những khía cạnh chuyên biệt của đời tận hiến nữ giới, mà còn trong mọi hiểu biết về những phương thức diễn tả đức tin. Về điểm này, lịch sử linh đạo rất mang ơn các thánh nữ như Tê-rê-xa Giê-su và Ca-ta-ri-na Xi-ê-na, hai phụ nữ đầu tiên được tôn phong danh hiệu tiến sĩ Giáo Hội, và biết bao nhà thần bí khác đã đào sâu mầu nhiệm Thiên Chúa và phân tích đường lối Thiên Chúa hành động nơi các tín hữu ! Giáo Hội trông chờ nhiều vào phần đóng góp độc đáo của các phụ nữ tận hiến để phát triển đạo lý, phong hoá, đời sống gia đình và xã hội, đặc biệt trong những gì liên quan đến phẩm giá phụ nữ và việc tôn trọng đời sống con người (131). Quả thế, “các phụ nữ đóng một vai trò độc đáo và hẳn là quyết định cả về tư tưởng lẫn về hành động : họ có nhiệm vụ thăng tiến một phong trào nữ quyền mới, không bị cám dỗ hoạ lại những mẫu điển hình trọng nam, ngõ hầu nhìn nhận và diễn tả thiên tài chân thực của nữ giới qua phong cách sống trong xã hội, biết chống lại mọi hình thức kỳ thị, bạo động và bóc lột” (132).

Có những lý do để hy vọng rằng, một khi sứ mạng của người nữ được công nhận rõ ràng hơn, thì đời thánh hiến của nữ giới sẽ ý thức sống động hơn về chính vai trò của mình, và sẽ tận tâm tận lực sống cho Nước Thiên Chúa hơn. Điều này được minh hoạ qua nhiều công trình, như dấn thân vào việc truyền giảng Phúc Âm, hoạt động giáo dục, tham gia vào việc huấn luyện các linh mục tương lai và những người tận hiến, linh hoạt các cộng đoàn Ki-tô hữu, đồng hành thiêng liêng, thăng tiến những điều thiện cơ bản của đời sống và hoà bình. Ngỏ lời với các phụ nữ tận hiến với khả năng tận tâm phi thường của họ, tôi nói lên một lần nữa sự thán phục và lòng biết ơn của toàn thể Giáo Hội ; Giáo Hội nâng đỡ họ bởi vì họ đang sống viên mãn và vui tươi ơn gọi của họ và họ đang cảm thấy được kêu mời chu toàn một nhiệm vụ cao cả, đó là huấn luyện người phụ nữ hôm nay.

  1. TIẾP TỤC CÔNG TRÌNH CỦA THÁNH THẦN : TRUNG THÀNH TRONG ĐỔI MỚI

Các nữ đan sĩ sống trong dòng kín

  1. Đời sống đan tu nữ giới và nội vi của các đan sĩ đáng được quan tâm đặc biệt, vì cộng đoàn Ki-tô giáo vẫn rất trân trọng lối sống ấy, là dấu chỉ về sự hiệp nhất tuyệt đối của Giáo Hội – Hiền Thê với Chúa của mình, Đấng được yêu mến trên hết mọi sự. Quả thật, các nữ đan sĩ dòng kín chủ yếu sống đời cầu nguyện, khổ chế và ra sức tiến lên trong đời sống thiêng liêng, “là một con đường đưa về Giê-ru-sa-lem thiên quốc và một sự tiền dự vào Giáo Hội cánh chung, khi được sở hữu và chiêm ngưỡng Thiên Chúa” (133). Dưới ánh sáng của ơn gọi và sứ mạng ấy trong Giáo Hội, nội vi đáp lại đòi hỏi được nhìn nhận là ưu tiên, đó là được ở với Chúa. Khi chọn một không gian giới hạn làm nơi sống, các nữ tu dòng kín tham dự vào sự tự huỷ của Đức Ki-tô, trong một sự nghèo khó triệt để, không những từ bỏ các sự vật vật chất, mà cả “không gian”,cảnhững cuộc tiếp xúc và những điều thiện hảo của công trình sáng tạo nữa. Việc hiến dâng “thân xác” mình một cách chuyên biệt như thế đưa các chị đi vào mầu nhiệm Thánh Thể cách khả giác hơn. Các nữ tu dòng kín cùng dâng mình với Đức Giê-su để cứu độ thế giới. Ngoài chiều kích hy lễ và đền tạ, lễ dâng của các chị cũng mang ý nghĩa một lễ tạ ơn dâng lên Chúa Cha, trong sự tham dự vào lễ tạ ơn của Chúa Con yêu dấu.

Bám rễ trong một khát vọng thiêng liêng sâu xa như thế, nội vi không chỉ là một phương thế khổ chế có giá trị vô song, nhưng cũng là một cách sống cuộc vượt qua của Đức Ki-tô (134). Từ kinh nghiệm là “cái chết”, nội vi trở thành sự sống vô cùng dồi dào, và xuất hiện như một lời loan báo vui tươi và một cuộc tiền dự, mang tính ngôn sứ, vào khả năng được ban cho mọi người và cho toàn thể nhân loại, đó là sống chỉ riêng cho một mình Thiên Chúa, trong Đức Giê-su Ki-tô (x. Rm 6,11). Vậy nội vi gợi lên phòng kín của con tim trong đó mỗi người được kêu gọi sống kết hợp với Chúa. Được đón nhận như một ân huệ và được lựa chọn như một đáp trả tự do trong tình yêu, nội vi là nơi sống hiệp thông thiêng liêng với Thiên Chúa và với anh chị em, nơi mà không gian và các tiếp xúc bị giới hạn nhằm cổ võ việc nội tâm hoá các giá trị Tin mừng (x. Ga 13,34 ; Mt 5,3.8).

Các cộng đoàn dòng kín, được đặt như một thành phố trên núi và như một ngọn đèn trên giá đèn (x. Mt 5,14-15), dù trong nếp sống đơn giản, vẫn gợi lên cách hữu hình mục tiêu toàn thể cộng đoàn Giáo Hội đang hướng đến, một Giáo Hội “vừa nhiệt thành hoạt động vừa chuyên cần chiêm niệm” (135), đang tiến trên những nẻo đường của đời này, mắt đăm đăm hướng về cuộc chung kết tương lai của tất cả mọi sự trong Đức Ki-tô, khi Giáo Hội “xuất hiện với Đức Lang Quân của mình để hưởng phúc vinh quang” (x. Cl 3,1-4), và khi Đức Ki-tô “trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha, sau khi đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần […], và như vậy Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,24.28).

Vậy tôi xin tỏ lòng biết ơn đối với các chị em rất thân yêu này và tôi khuyến khích chị em trung thành với đời sống dòng kín theo đoàn sủng riêng biệt của chị em. Nhờ gương sáng của chị em, lối sống này vẫn còn nhận được nhiều ơn gọi, vì được lôi cuốn bởi tính triệt để của một cuộc sống “hôn ước” hoàn toàn dành cho Thiên Chúa trong chiêm niệm. Đời sống chiêm niệm là một cách diễn tả tình yêu thuần tuý có giá trị hơn mọi hoạt động, phát sinh hiệu năng tông đồ và truyền giáo phi thường (137).

Các nghị phụ Thượng hội đồng rất trân trọng giá trị của nội vi, đồng thời các ngài quan tâm cứu xét những thỉnh cầu chỗ này chỗ kia nêu lên về kỷ luật cụ thể của nội vi. Các góp ý của Thượng hội đồng về vấn đề này và, đặc biệt, nguyện ước trao trách nhiệm bao quát hơn cho các bề trên thượng cấp về những liên hệ đến việc huỷ bỏ nội vi vì những lý do nghiêm trọng và chính đáng (138), sẽ được cứu xét kỹ càng, trong chiều hướng cuộc canh tân được thực hiện kể từ Công Đồng Va-ti-ca-nô II (139). Theo chiều hướng này, nội vi được phân thành hình thức khác nhau và mức độ khác nhau – từ nội vi giáo hoàng, và theo hiến chương cho tới nội vi đan viện – sẽ phù hợp hơn với các tu hội chiêm niệm và các truyền thống đan viện rất khác nhau.

Như Thượng hội đồng nhắc lại, cần cổ võ các hiệp hội và liên hiệp giữa các đan viện, điều mà Đức Pi-ô XII và Công Đồng Va-ti-ca-nô II khuyến khích (140), nhất là tại những nơi không có những hình thức hữu hiệu để điều phối và tương trợ, hầu bảo toàn và thăng tiến những giá trị của đời sống chiêm niệm. Tuy vẫn bảo vệ tính tự trị hợp pháp của các đan viện, các cơ chế đó giúp giải quyết thoả đáng các vấn đề chung, chẳng hạn như công việc canh tân thích hợp, huấn luyện sơ khởi và huấn luyện thường xuyên, việc tương trợ về mặt kinh tế, và cả việc tổ chức lại các đan viện nữa.

Các tu huynh

  1. Thể theo đạo lý truyền thống của Giáo Hội, đời thánh hiến do bản tính không mang tính giáo dân hoặc giáo sĩ (141) và, do đó, “sự thánh hiến giáo dân” nam giới hoặc nữ giới, tự nó là một bậc sống đầy đủ với việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm (142). Vì vậy, đời sống thánh hiến có một giá trị chuyên biệt cho cá nhân cũng như cho Giáo Hội, không gắn liền với tác vụ chức thánh.

Theo giáo huấn Công Đồng Va-ti-ca-nô II (143), Thượng hội đồng rất trân trọng lối sống đời thánh hiến của các tu huynh. Các anh em đang chu toàn những việc phục vụ quý báu và đa dạng ở trong hay ngoài các cộng đoàn ; như thế là tham gia vào sứ mạng loan báo Tin Mừng và làm chứng về sứ mạng ấy bằng đức mến trong đời sống hằng ngày. Quả thế, một số những việc phục vụ ấy đã được coi như những thừa tác vụ Giáo Hội thực thụ, mà quyền bính hợp pháp ký thác cho họ. Điều này đòi hỏi được huấn luyện thích hợp và toàn diện : huấn luyện nhân bản, thiêng liêng, thần học, mục vụ và nghề nghiệp.

Theo từ ngữ hiện hành, các tu hội, do ý hướng của đấng sáng lập và một truyền thống hợp pháp, có đặc tính và mục tiêu không hàm chứa việc thi hành chức thánh, được gọi là các “dòng giáo dân” (144). Tuy nhiên, tại Thượng hội đồng, người ta cho thấy là các từ ngữ này không diễn tả thích hợp đặc tính riêng của ơn gọi các thành viên thuộc các tu hội ấy. Quả thế, cho dù vẫn thực hiện nhiều hoạt động giống như các tín hữu giáo dân, các tu sĩ làm theo căn tính của họ là những người tận hiến và như thế họ diễn tả một tinh thần hiến dâng trọn vẹn cho Đức Ki-tô và cho Giáo Hội, thể theo đoàn sủng chuyên biệt của họ.

Vì lý do đó, để tránh hàm hồ và lẫn lộn với đặc tính trần thế của các tín hữu giáo dân (145), các nghị phụ tại Thượng hội đồng muốn đề nghị từ ngữ các dòng anh em (dòng các tu huynh) (146). Đề nghị này thật ý nghĩa, nhất là khi người ta nhận rằng từ ngữ “anh em” cũng gợi lên một nội dung thiêng liêng phong phú. “Các tu sĩ này được kêu gọi trở thành những anh em của Đức Ki-tô, kết hợp sâu xa với Người, “trưởng tử giữa một đoàn anh em đông đúc” (Rm 8,29) ; trở thành anh em với nhau, trong tình yêu mến nhau và trong sự cộng tác vào cùng một công việc phục vụ để mưu ích cho Giáo Hội ; trở thành anh em của từng người bằng việc làm chứng về đức mến của Đức Ki-tô đối với tất cả mọi người, đặc biệt đối với những người nhỏ bé và những người nghèo túng nhất ; trở thành anh em để đạt tới một tình huynh đệ lớn lao hơn trong Giáo Hội” (147). Khi sống cách đặc biệt đặc điểm chung của đời Ki-tô hữu và đời thánh hiến, “tu huynh” nhắc nhở cho các tu sĩ linh mục cách hữu hiệu về chiều kích căn bản của tình huynh đệ trong Đức Ki-tô, vì họ phải sống với nhau và với bất cứ người nào, và họ công bố cho mọi người lời của Chúa : “Tất cả các con đều là anh em với nhau” (Mt 23,8).

Trong các dòng tu huynh, khi tu nghị toàn dòng đã biểu quyết, thì không có gì cấm cản một số thành viên nhận các chức thánh để phục vụ cộng đoàn tu sĩ trong tư cách linh mục (148). Tuy nhiên, Công Đồng Va-ti-ca-nô II không minh nhiên khuyến khích theo chiều hướng này, nhất là bởi vì Công Đồng ước muốn các dòng anh em cứ trung thành với ơn gọi và với sứ mạng của họ. Điều này rõ ràng khi nói tới tư cách để đảm nhận nhiệm vụ bề trên, lý do vì nhiệm vụ này phản ánh cách đặc biệt bản tính của chính tu hội.

Ơn gọi của các tu huynh trong các dòng gọi là “giáo sĩ” thì khác ; bởi vì, theo dự phóng của đấng sáng lập hoặc theo một truyền thống hợp pháp, các tu hội này tiên liệu việc thi hành các chức thánh, trao quyền cai quản cho các giáo sĩ và quyền bính của Giáo Hội công nhận như thế (149). Trong các tu hội này, tác vụ chức thánh cấu thành yếu tố của đoàn sủng, xác định bản tính, mục tiêu và tinh thần của đoàn sủng. Các tu huynh hiện diện trong tu hội tham gia một cách khác vào sứ mạng của tu hội, bằng việc đảm nhận những việc phục vụ bên trong cộng đoàn hoặc những công tác tông đồ, họ cộng tác những người thi hành tác vụ linh mục.

Các tu hội hỗn hợp

  1. Có vài tu hội, theo dự định nguyên thuỷ của đấng sáng lập, là những huynh đệ đoàn, trong đó mọi thành viên, linh mục và không linh mục, được coi như bình đẳng ; nhưng qua dòng thời gian, họ đã mang một hình thái khác. Các tu hội ấy mang danh là “hỗn hợp”, cần phải đào sâu đoàn sủng sáng lập, để cứu xét có nên và có thể trở lại với cảm hứng nguyên thuỷ chăng.

Các nghị phụ tại Thượng hội đồng bày tỏ nguyện ước là trong các tu hội ấy, tất cả các tu sĩ được nhìn nhận là có những quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, ngoại trừ những quyền lợi và nghĩa vụ xuất phát từ chức thánh (150). Để cứu xét và giải quyết các vấn đề liên hệ đến điều này, một uỷ ban đặc biệt đã được thiết lập, chúng ta nên chờ kết luận của uỷ ban này để chọn lựa cho thích hợp, thể theo những gì sẽ được xác định cách hợp pháp.

Những hình thái mới của đời sống Phúc Âm

  1. Nếu ở những thời đại trước đây, Thánh Thần đã luôn luôn khơi dậy nhiều hình thức đời thánh hiến, thì ngày nay Người cũng vẫn không ngừng trợ giúp Giáo Hội, hoặc là khích lệ các tu hội hiện hành quyết tâm tự canh tân đời sống để trung thành với đoàn sủng nguyên thuỷ, hoặc là ban dồi dào những ân sủng mới cho những người nam nữ thuộc thời đại này để họ làm nảy sinh những định chế đáp ứng được những thách đố của ngày hôm nay. Một dấu chỉ của việc Thiên Chúa can thiệp có thể nhận thấy nơi cái được gọi là những cơ sở mới, với điểm độc đáo khác so với những gì đã có từ trước tới nay.

Tính độc đáo của những cộng đoàn mới mẻ thường hệ tại chỗ họ gồm người nam và nữ, giáo sĩ và giáo dân, người đã lập gia đình và những người độc thân, chọn một nếp sống đặc biệt, có khi thì dựa theo một nếp sống cổ truyền nào đó, có khi thì thích ứng nếp sống cho phù hợp với những đòi hỏi của xã hội hiện đại. Họ cam kết sống Tin Mừng dưới những hình thức khác nhau, nhưng ý hướng chung là khao khát mãnh liệt sống cộng đoàn, khó nghèo và cầu nguyện. Giáo sĩ và giáo dân tham gia vào việc quản lý các cộng đoàn này, tuỳ theo khả năng chuyên môn của họ. Các công việc tông đồ của các cộng đoàn này chú trọng đến những đòi hỏi của việc tái truyền giảng Tin Mừng.

Dưới một mặt nào đó thì đáng vui mừng vì thấy Thánh Thần hoạt động, còn dưới mặt khác thì thấy cần phải sử dụng việc biện phân các đoàn sủng. Để có thể gọi là đời thánh hiến, điều căn bản là những nét chuyên biệt của các cộng đoàn mới và các nếp sống mới ra đời cần phải căn cứ trên những yếu tố thần học và giáo luật chính yếu thuộc đời thánh hiến (151). Cần phải biện phân ở cấp độ địa phương lẫn cấp độ toàn cầu, nhằm đi tới chỗ cùng vâng phục một Thánh Thần duy nhất. Trong mỗi giáo phận, giám mục sẽ cứu xét tính chính thống và chứng tá đời sống của các vị sáng lập các cộng đoàn ấy, linh đạo của họ và cách họ cảm thức về Giáo Hội khi họ thực hiện sứ mạng, các phương pháp huấn luyện và cách gia nhập cộng đoàn ; người phải khôn ngoan lượng định những nhược điểm nếu có, trong khi kiên nhẫn chờ đợi hoa trái (x. Mt 7,16), để có thể xác nhận tính trung thực của đoàn sủng (152). Cách riêng, căn cứ trên những tiêu chuẩn rõ ràng, người phải xác định được khả năng của những thành phần trong các cộng đoàn này muốn lãnh chức thánh (153).

Đời thánh hiến là một thể loại chuyên biệt, vậy thể theo nguyên tắc biện phân vừa nói, người ta không thể xếp vào loại đời thánh hiến những hình thức dấn thân rất đáng ca ngợi của những cặp vợ chồng tìm gia nhập một hiệp hội hay một phong trào. Vì muốn đưa tình yêu đã được “thánh hiến” một cách nào đó trong bí tích hôn nhân đến mức toàn hảo của đức ái (154), nên họ xác nhận ý muốn đó bằng một lời khấn sống đức khiết tịnh trong đời hôn nhân, rồi tuy không sao nhãng bổn phận đối với con cái, họ tuyên khấn khó nghèo và vâng phục (155). Việc xác định bản chất những thử nghiệm này không nhằm đánh giá thấp con đường nên thánh đặc biệt trong đó chắc hẳn có sự can thiệp của Thánh Thần, Đấng ban muôn vàn ân huệ và cảm hứng.

Trước hiện trạng các ân huệ và đà tiến canh tân đang nở rộ, thiết tưởng nên lập ra một uỷ ban đặc trách các vấn đề liên quan đến những hình thái mới sống đời thánh hiến, hầu nêu lên những tiêu chuẩn xác nhận tính trung thực, giúp cho việc biện phân và quyết định (156). Một trong số những công tác phải làm là, sau khi rút kinh nghiệm của những thập niên vừa qua, uỷ ban phải nhận định những hình thức thánh hiến nào có thể được giáo quyền chính thức công nhận, với sự cẩn trọng mục vụ và nhằm ích lợi chung, để giới thiệu cho các tín hữu đang khao khát sống một đời Ki-tô hữu hoàn hảo hơn.

Các hiệp hội mới xuất hiện để sống theo Tin Mừng không thay thế những tu hội đã có từ trước đến nay ; các định chế này vẫn giữ một vị trí cao mà truyền thống đã dành cho chúng. Dù vậy, các hình thái mới cũng là ân huệ của Thánh Thần, giúp cho Giáo Hội đi theo Chúa với tâm tình quảng đại, chăm chú lắng nghe lời mời gọi của Thiên Chúa được diễn tả qua những dấu chỉ của thời đại. Như thế, Giáo Hội tỏ mình ra cho thế giới, với vô vàn những lối sống thánh thiện và phục vụ khác nhau, như là dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại” (157). Các tu hội cổ điển, trong số đó nhiều tu hội đã trải qua những thử thách rất đau đớn mà vẫn can đảm chịu đựng qua các thời đại, có thể được trau dồi kinh nghiệm nhờ đối thoại và trao đổi ân huệ với các tu hội mới chào đời trong thời đại chúng ta.

Như thế, sinh lực của những hình thức khác nhau thuộc đời thánh hiến, từ những hình thái cổ nhất cho đến những hình thái mới nhất, cũng như sức năng động của những cộng đoàn mới, sẽ duy trì được lòng trung thành với Chúa Thánh Thần, là nguyên lý hiệp thông và ban sự sống đổi mới thường xuyên.

III. NHÌN VỀ TƯƠNG LAI

Những khó khăn và viễn tượng

  1. Trong nhiều vùng trên thế giới, đời thánh hiến phải đương đầu với những đổi thay hiện nay của xã hội và sự giảm sút số ơn gọi. Các công cuộc tông đồ của nhiều tu hội và ngay cả sự hiện diện của họ tại một vài Giáo Hội địa phương cũng bị đe doạ. Như đã từng xảy ra trong lịch sử, thậm chí một số tu hội còn có cơ nguy bị xoá sổ. Giáo Hội phổ quát rất biết ơn các tu hội đó đã góp phần lớn lao vào việc xây dựng Giáo Hội, bằng chứng tá và việc phục vụ của họ (158). Những gian truân hiện nay của họ không xoá bỏ các công lao và kết quả đạt được nhờ cố gắng của họ.

Đối với một số tu hội khác thì vấn đề lại là tổ chức lại các công việc. Việc này khó khăn và thường gây đau khổ, đòi hỏi phải tìm kiếm và biết biện phân, dựa vào một số tiêu chuẩn. Chẳng hạn, nên bảo toàn ý nghĩa của đoàn sủng riêng, thăng tiến đời sống huynh đệ, quan tâm tới những nhu cầu của Giáo Hội phổ quát và Giáo Hội địa phương, chú trọng tới những gì mà thế gian xao lãng, đáp lại một cách quảng đại và táo bạo, ngay cả bằng những hành động dĩ nhiên là có giới hạn, những hình thức mới của nghèo khó, nhất là ở những nơi xa xôi hẻo lánh nhất (159).

Các khó khăn đủ loại, phát xuất do việc giảm bớt nhân sự và công tác không bao giờ được làm mất niềm tin vào sức mạnh Tin Mừng của đời thánh hiến, một đời sống luôn luôn có ý nghĩa và không ngừng tác động trong Giáo Hội. Nếu không một tu hội nào dám nghĩ mình sẽ sống mãi, đời thánh hiến không vì thế mà không tiếp tục nuôi dưỡng nơi các tín hữu lời đáp trả của tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với anh em. Vì vậy, cần phân biệt giữa định mệnh lịch sử của một tu hội nhất định, hay của một hình thức đời thánh hiến, với sứ mạng Giáo Hội của đời thánh hiến xét như đời thánh hiến. Hình thức có thể đổi theo hoàn cảnh nhưng sứ mạng vẫn tồn tại.

Điều này đúng cho hình thức chiêm niệm cũng như cho hình thức dấn thân vào các công cuộc tông đồ. Cách chung, dưới tác động luôn luôn mới mẻ của Thần Khí, đời thánh hiến luôn luôn làm chứng xán lạn về sự kết hiệp bất khả phân ly giữa tình yêu Thiên Chúa và tình yêu anh em. Đời thánh hiến tỏ ra là ký ức sống động của sự phong nhiêu của tình yêu Thiên Chúa, kể cả trên bình diện nhân bản và xã hội. Nhưng hoàn cảnh khan hiếm cần được giải quyết với thái độ bình thản của những người biết rằng Thiên Chúa đòi nơi mỗi người sự trung tín dấn thân hơn là sự thành công. Tuyệt đối phải tránh sự thất bại thực sự của đời thánh hiến, tức là thất bại không phải do số ơn gọi giảm sút mà do việc kém gắn bó với Thiên Chúa, với ơn gọi riêng và với sứ mạng. Ngược lại, khi trung tín bền đỗ trong sự gắn bó nói trên, người ta công bố rõ ràng, trước mặt thế giới, niềm trông cậy vững vàng nơi Đấng là Chủ lịch sử. Người nắm trong tay thời gian và định mệnh con người, các cơ chế và các dân tộc và do đó, Người sắp đặt việc ban ơn vào những thời điểm khác nhau. Các tình trạng khủng hoảng đau khổ thúc đẩy người tận hiến tuyên xưng một cách mạnh mẽ niềm tin vào sự chết và sống lại của Đức Ki-tô, để trở nên những dấu chỉ hữu hình của cuộc vượt qua từ sự chết đến sự sống.

Những nỗ lực mới cho mục vụ ơn gọi

  1. Sứ mạng của đời thánh hiến và sức sống của các tu hội hẳn là tuỳ thuộc vào sự hăng say trung tín của những người tận hiến đáp lại ơn gọi của họ, nhưng tương lai của họ tuỳ thuộc vào sự kiện là cần có những người nam nữ khác sẵn sàng đón nhận tiếng Chúa gọi. Vấn đề ơn gọi là một thách thức trực tiếp cho các tu hội, nhưng cũng liên quan tới toàn thể Giáo Hội. Nhiều sức lực tinh thần và vật chất quan trọng đã được đem dùng vào mục vụ ơn gọi, nhưng kết quả không luôn luôn đáp ứng những mong đợi và cố gắng. Mặc dầu có sự gia tăng trong những Giáo Hội trẻ và trong những Giáo Hội đã bị các chế độ độc tài bách hại, các ơn gọi sống đời thánh hiến đôi khi trở nên hiếm hoi tại các nước mà theo truyền thống vẫn có nhiều ơn gọi, nhất là ơn gọi truyền giáo.

Hoàn cảnh khó khăn trên làm các người tận hiến đôi khi tự hỏi : có lẽ chúng ta không còn khả năng thu hút được các ơn gọi mới nữa chăng ? Phải tin vào Chúa Giê-su, Người vẫn còn tiếp tục gọi người ta theo Người, và phải trông cậy nơi Chúa Thánh Thần là nguồn mạch và là Đấng ban phát các đoàn sủng của đời thánh hiến. Vì thế, đang khi vui sướng khi thấy tác động của Thần Khí làm trẻ lại Hiền Thê của Đức Ki-tô bằng cách cho đời thánh hiến nảy nở trong nhiều nước, chúng ta phải dâng lên lời tha thiết khẩn cầu Chủ gặt, xin Người sai thợ tới cánh đồng Giáo Hội, hầu đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết của việc tái truyền giảng Phúc Âm (x. Mt 9,37-38). Ngoài việc cổ võ cầu nguyện cho ơn gọi, còn phải cấp thời trình bày rõ ràng và huấn giáo thích hợp để khuyến khích những ai được gọi vào đời thánh hiến, biết đáp lại một cách tự do, mau mắn và quảng đại, nhờ vậy ơn gọi đạt được kết quả.

Lời mời của Đức Giê-su “Hãy đến mà xem” (Ga 1,39) vẫn còn là quy luật vàng cho mục vụ ơn gọi. Theo gương các đấng sáng lập, mục vụ ơn gọi nhằm cho thấy sức thu hút của bản thân Chúa Giê-su và vẻ đẹp của việc tận hiến vì Tin Mừng. Như vậy, nhiệm vụ đầu tiên của tất cả mọi người tận hiến là can đảm công bố bằng lời nói và gương sáng lý tưởng theo Chúa Ki-tô, sequela Christi, và tiếp đó nâng đỡ lời đáp trả những thôi thúc của Thần Khí trong lòng các người được gọi.

Sau những giây phút phấn khởi của lần gặp gỡ đầu tiên với Đức Ki-tô, dĩ nhiên cần phải cố gắng kiên trì đáp trả mỗi ngày hầu biến ơn gọi thành một mối tình bằng hữu với Chúa. Để đạt mục đích đó, mục vụ ơn gọi phải dùng các phương tiện thích hợp, như linh hướng, để nuôi dưỡng lời đáp trả yêu thương của mỗi người với Chúa, điều kiện chính yếu để trở thành môn đệ và tông đồ của Nước Chúa. Nếu việc gia tăng số ơn gọi trong nhiều vùng trên thế giới cho phép lạc quan, thì việc giảm sút tại một số vùng khác không được đưa tới chỗ ngã lòng, hay bị cám dỗ chiêu mộ cách dễ dàng và thiếu thận trọng. Nhiệm vụ cổ võ ơn gọi cần được thực hiện sao cho người ta thấy rõ hơn, đây là công việc chung của cả Giáo Hội (160). Cho nên nhiệm vụ này đòi hỏi sự cộng tác tích cực của các chủ chăn, các tu sĩ, các gia đình, các nhà giáo dục, bởi vì nó tương ứng với một việc phục vụ nằm trong toàn bộ chương trình mục vụ của mỗi Giáo Hội địa phương. Trong mỗi giáo phận, nên có một tổ chức chung để phối hợp và tăng cường năng lực, không những không gây thiệt hại mà còn tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho hoạt động cổ động ơn gọi của từng tu hội (161).

Sự cộng tác tích cực của toàn thể Dân Thiên Chúa, được Chúa Quan Phòng nâng đỡ, thế nào cũng thu hút dồi dào ơn huệ của Thiên Chúa. Tình liên đới Ki-tô hữu giúp giải quyết các nhu cầu đào tạo ơn gọi trong các nước nghèo về kinh tế. Việc cổ võ ơn gọi tại các nước này phải được các tu hội thực hiện trong sự hoà hợp với các Giáo Hội địa phương, khởi đầu bằng sự hội nhập tích cực và bền bỉ vào sinh hoạt mục vụ của các Giáo Hội địa phương (162). Cách trung thực nhất để góp phần vào công việc của Chúa Thánh Thần là đầu tư rộng rãi các tài lực xuất sắc nhất vào công tác cổ động ơn gọi, và đặc biệt là tận tình quan tâm tới mục vụ giới trẻ.

Đào tạo sơ khởi

  1. Thượng hội đồng đặc biệt quan tâm tới việc đào tạo những người muốn hiến mình cho Chúa (163) vì Thượng hội đồng nhận thấy việc này có tầm quan trọng quyết định. Mục tiêu chính của tiến trình đào tạo là chuẩn bị một người dâng trót mình cho Thiên Chúa trong việc theo Chúa Ki-tô, để phục vụ sứ mạng của Giáo Hội. Trả lời “xin vâng” đáp lại tiếng Chúa gọi bằng cách chính mình dấn thân làm cho ơn gọi của mình ngày một trưởng thành thêm, việc này thuộc trách nhiệm không thể thoái thác được của những người được gọi, họ phải mở lòng cho Chúa Thánh Thần tác động ; điều này giả thiết quảng đại theo lộ trình đào tạo, đón nhận, trong đức tin, các trung gian mà Chúa và Giáo Hội đề nghị (164).

Do đó, việc đào tạo phải thấm nhập sâu xa chính con người, sao cho toàn bộ cách ăn ở, trong những lúc quan trọng và trong những lúc bình thường của cuộc sống, cho thấy người đó vui sướng thuộc về Chúa cách trọn vẹn (165). Do cứu cánh của đời thánh hiến là trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su trong lễ dâng trọn vẹn của Người (166), việc đào tạo phải hướng về đó. Đây là một lộ trình giúp từ từ có được những tâm tình của Đức Ki-tô đối với Chúa Cha.

Nếu mục đích của đời thánh hiến là vậy, thì quy trình đưa tới đó cần phải có và cho thấy tính toàn diện : việc đào tạo phải bao trùm toàn diện con người (167) trong mọi khía cạnh nhân cách người đó, trong cách ăn ở cũng như trong các ý hướng. Vì nó nhằm biến cải toàn bộ con người, nên nhiệm vụ đào tạo không bao giờ chấm dứt. Thật vậy, nên luôn luôn tạo cho những người tận hiến những cơ hội củng cố sự gắn bó của họ với đoàn sủng và sứ mạng của tu hội họ.

Việc đào tạo toàn diện phải bao gồm mọi lãnh vực của đời sống Ki-tô hữu và đời sống thánh hiến. Do đó phải tiên liệu việc chuẩn bị nhân bản, văn hoá, thiêng liêng, mục vụ, sao cho các yếu tố đó được hội nhập hài hoà với nhau. Phải dành cho việc đào tạo sơ khởi một thời gian khá dài, vì đây là một tiến trình tiệm tiến, trải qua tất cả các giai đoạn trưởng thành của con người, – từ trưởng thành tâm lý và thiêng liêng đến trưởng thành thần học và mục vụ -. Đối với các ứng sinh tiến lên chức linh mục, thời gian này sẽ trùng hợp và hoà hợp với một chương trình học chuyên môn, đặt vào trong một quy trình đào tạo rộng hơn.

Nhiệm vụ của các người phụ trách đào tạo

  1. Qua việc không ngừng ban phát Đức Ki-tô và Thánh Thần, Chúa Cha là Đấng đào tạo siêu việt những người tận hiến cho Người. Nhưng trong một tiến trình như thế, Người dùng trung gian con người và đặt bên cạnh những người được Người gọi, một vài anh, chị từng trải. Như vậy, đào tạo là tham gia vào công việc của Chúa Cha ; qua Thánh Thần, Chúa Cha phát huy trong lòng người trẻ, thanh niên, thiếu nữ, những tâm tình Người Con. Các người phụ trách đào tạo phải là những người có bước đi vững chắc trên con đường tìm kiếm Thiên Chúa, để có thể đồng hành với những người khác trong cuộc hành trình. Quan tâm tới tác động của ơn sủng, họ chỉ cho thấy các trở ngại kín đáo nhất, nhưng nhất là họ cho thấy vẻ đẹp của việc theo Chúa Ki-tô và giá trị của đoàn sủng thể hiện việc theo Chúa. Các kiến thức do sự khôn ngoan thiêng liêng được liên kết với những kiến thức do các phương tiện loài người cung cấp, sẽ giúp biện phân ơn gọi và đào tạo con người mới thành một con người thực sự tự do. Việc gặp gỡ riêng là một phương tiện đào tạo căn bản cần được sử dụng một cách đều đặn theo một nhịp độ nào đó, vì đây là một việc làm được coi là hữu hiệu và không thể thay thế được.

Trước những nhiệm vụ tế nhị như vậy, cần phải chuẩn bị những người phụ trách đào tạo có khả năng, biết lo thi hành nhiệm vụ một cách hài hoà, cùng một nhịp bước với toàn thể Giáo Hội. Nên có những cơ chế thích hợp để đào tạo các vị đào tạo, nếu được, tại những nơi có thể tiếp xúc với môi trường văn hoá trong đó các nhà đào tạo sẽ phải thi hành công tác mục vụ. Trong nhiệm vụ đào tạo, các tu hội đã có nền tảng vững vàng phải giúp các tu hội mới lập, bằng cách cho mượn một vài thành phần ưu tú của mình (168).

Một việc đào tạo có tính cộng đoàn và tông đồ

  1. Nếu việc đào tạo cũng phải có tính cộng đoàn, thì cộng đoàn là nơi đào tạo chính đối với các hội dòng tận hiến và các tu đoàn tông đồ. Cộng đoàn tập cho biết cố gắng và hưởng niềm vui của đời sống chung. Trong đời sống huynh đệ, mỗi người học sống với những người mà Thiên Chúa đặt bên cạnh mình, chấp nhận những tính tình cùng với những khác biệt và giới hạn của họ. Cách riêng, mỗi người tập chia sẻ các ân huệ đã lĩnh nhận, hầu xây dựng mọi người, vì “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (1 Cr 12,7) (169). Đồng thời, đời sống cộng đoàn, ngay bước đầu đào tạo, phải cho thấy chiều kích truyền giáo tất yếu của việc thánh hiến. Để được vậy, trong các hội dòng tận hiến, trong thời kỳ đào tạo sơ khởi, nên có những thử nghiệm cụ thể, với sự đồng hành thận trọng của người phụ trách, hầu phát huy tinh thần tông đồ, các khả năng thích nghi và óc sáng tạo, tuỳ theo khung cảnh văn hoá địa phương.

Một điều quan trọng là người tận hiến phải dần dần tạo cho mình một trí phán đoán dựa vào Tin Mừng, để phê phán những giá trị tích cực và tiêu cực trong nền văn hoá của họ, và trong những nền văn hoá họ sẽ tiếp xúc trong môi trường hoạt động tương lai. Mặt khác, họ phải luyện tập nghệ thuật khó khăn là thống nhất đời sống của họ, biết kết hợp chặt chẽ lòng yêu mến Thiên Chúa với lòng yêu mến anh chị em mình, cần ý thức rằng cầu nguyện là linh hồn của công việc tông đồ, còn công việc tông đồ lại thêm sức sống cho cầu nguyện và thúc đẩy cầu nguyện.

Cần có một chương trình đào tạo đầy đủ và cập nhật hoá

  1. Trong các dòng nữ cũng như các dòng tu huynh, nên sắp đặt một thời kỳ dành cho việc đào tạo, kéo dài cho tới khi khấn trọn. Điều này về cơ bản cũng áp dụng cho những cộng đoàn dòng kín ; phải soạn một chương trình thích hợp để thực sự đào tạo sống đời tu chiêm niệm và thi hành sứ mạng đặc thù của đời chiêm niệm trong Giáo Hội.

Các nghị phụ ân cần mời gọi tất cả các hội dòng tận hiến và các tu đoàn tông đồ hãy sớm soạn một chương trình đào tạo dựa theo đoàn sủng sáng lập, trình bày rõ ràng và năng động con đường phải theo để được thấm nhuần linh đạo tu hội. Chương trình đào tạo đáp ứng một nhu cầu khẩn cấp ngày nay : một đàng nó cho thấy cách truyền đạt tinh thần tu hội để các thế hệ mới sống tinh thần ấy một cách trung thực, trong sự khác biệt về văn hoá và hoàn cảnh địa lý ; đàng khác, giới thiệu cho các người tận hiến những phương tiện sống tinh thần này trong những giai đoạn khác nhau của cuộc sống, tiến dần tới một niềm tin thật trưởng thành vào Đức Ki-tô.

Như vậy, nếu quả là cuộc đổi mới đời thánh hiến tuỳ thuộc vào việc đào tạo thì cũng đúng là việc đào tạo lại tuỳ thuộc vào khả năng đưa ra được một phương pháp đầy khôn ngoan thiêng liêng và sư phạm, dẫn đưa dần dần những ai khao khát tận hiến đến chỗ thấm nhuần tâm tình Chúa Ki-tô. Đào tạo là những quy trình sống đưa người ta tới chỗ hoán cải, trở về với Ngôi Lời Thiên Chúa từ trong thâm tâm, và đồng thời học được nghệ thuật nhận ra dấu chỉ của Thiên Chúa giữa các thực tại trần thế. Vào một thời mà văn hoá ngày một tách khỏi các giá trị tôn giáo, quy trình đào tạo đó quan trọng gấp đôi : nhờ đó, người tận hiến có thể không những tiếp tục “thấy” Thiên Chúa với cặp mắt đức tin trong một thế giới không nhận ra sự hiện diện của Người, mà còn làm cho người khác, một cách nào đó, “cảm nhận” được sự hiện diện của Thiên Chúa, nhờ một chứng tá tuỳ theo đoàn sủng của mỗi dòng.

Thường huấn

  1. Đối với các tu hội tông đồ cũng như những tu hội chiêm niệm, thường huấn là một đòi hỏi của việc thánh hiến tu trì. Tiến trình đào tạo, như đã nói, không bị giới hạn vào giai đoạn sơ khởi : Do các giới hạn của con người, người tận hiến không bao giờ có thể coi là đã hoàn tất nơi mình việc thai nghén “con người mới”, con người mà trong mọi hoàn cảnh sống đều phải mang chính những tâm tình của Đức Ki-tô. Do đó, việc đào tạo sơ khởi phải được củng cố bằng việc thường huấn, đặt người tận hiến trong thế sẵn sàng để được đào tạo mỗi ngày trong đời mình (170).

Vì thế điều rất quan trọng là mỗi tu hội phải tiên liệu trong khuôn khổ của chương trình đào tạo, việc ấn định – càng chính xác và càng có hệ thống càng tốt – dự phóng thường huấn mà mục đích chính là hướng dẫn tất cả mọi người tận hiến bằng một chương trình liên tục, kéo dài suốt cuộc đời. Không ai có thể miễn cho mình khỏi phải quan tâm tới việc tăng trưởng về mặt nhân bản và về mặt tu trì ; cũng vậy, không ai có thể tự mãn và muốn sống cô lập được. Không giai đoạn nào trong cuộc đời người ta có thể tự coi như đủ tự tin, đủ sốt sắng để không cần có những cố gắng cụ thể nhằm bảo đảm sự trung tín bền đỗ, cũng như không có tuổi nào mà người ta có thể coi là mình đã hoàn toàn trưởng thành.

Trong sự trung tín năng động

  1. Có một sự trẻ trung của tinh thần mà thời gian không thể xoá được : đó là khi đương sự tìm và thấy được trong mọi giai đoạn của cuộc sống, một nhiệm vụ mới cần thực hiện, một phong cách riêng biệt khi sống phục vụ và yêu mến (171).

Trong đời thánh hiến, những năm đầu của việc hội nhập trọn vẹn vào hoạt động tông đồ là một thời kỳ đầy khó khăn, vì chuyển từ một đời sống được hướng dẫn sang một đời sống mà mình phải lãnh trách nhiệm hoàn toàn về công việc. Người trẻ tận hiến cần được nâng đỡ và đồng hành với một người anh hay một người chị giúp họ sống trọn vẹn mối tình tươi trẻ và lòng hăng say nồng nhiệt đối với Đức Ki-tô.

Giai đoạn tiếp theo có thể có nguy cơ sống theo thói quen và do đó, bị cám dỗ chán nản trước những kết quả sơ sài. Lúc đó cần giúp những người tận hiến ở tuổi trung niên, xét lại sự lựa chọn ban đầu của họ dưới ánh sáng của Tin Mừng và của đoàn sủng, không lẫn lộn cái tuyệt đối của tận hiến với cái tuyệt đối của kết quả. Điều này sẽ giúp tìm lại một đà tiến mới và những động lực mới cho việc chọn lựa cá nhân. Đây là thời gian tìm kiếm cái cốt yếu.

Cùng với việc tăng trưởng bản lĩnh, giai đoạn đứng tuổi có thể có nguy cơ rơi vào một nếp sống cá nhân chủ nghĩa nào đó, kèm theo sự lo sợ không thích nghi được với thời thế ; hoặc tật cứng cỏi, khép kín và buông thả. Việc thường huấn ở đây có mục đích không những giúp sống đời thiêng liêng và tông đồ sốt sắng hơn, mà còn khám phá ra tính đặc thù của giai đoạn này trong cuộc sống. Thật vậy, nhờ một vài khía cạnh của nhân cách được thanh luyện, việc tận hiến cho Thiên Chúa trở nên trong sáng hơn, quảng đại hơn ; và tuôn trào ra cho anh em chị em mình một cung cách an bình hơn, kín đáo hơn, và dồi dào ơn Chúa hơn. Đó là hồng ân và là kinh nghiệm của sự làm cha làm mẹ thiêng liêng.

Với tuổi cao niên, một số vấn đề mới sẽ được đặt ra, và cần được chuẩn bị đối phó, nhờ một chương trình hỗ trợ thiêng liêng khôn ngoan. Việc bớt dần sinh hoạt và, trong một số trường hợp, bệnh tật và bị buộc ngưng hoạt động, là một kinh nghiệm có thể có tính cách giáo dục sâu xa. Giai đoạn này thường là một giai đoạn đau khổ, nhưng người tận hiến cao niên được tôi luyện bởi kinh nghiệm vượt qua này (172) để nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô chịu đóng đinh, Đấng làm theo ý Chúa Cha đến mức trao cho Người hơi thở cuối cùng. Sự đồng hình với Đức Ki-tô là một cách mới mẻ để sống việc tận hiến lúc này không còn gắn liền với tính hữu hiệu của một trách nhiệm quản trị hay một công tác tông đồ nữa.

Khi tới lúc kết hiệp với giờ cao điểm của cuộc thương khó Đức Ki-tô, người tận hiến biết rằng từ nay Chúa Cha hoàn tất nơi mình con đường đào tạo nhiệm mầu đã bắt đầu từ lâu. Cái chết lúc đó sẽ được chờ đón và chuẩn bị như hành vi tối hậu của tình yêu và dâng hiến.

Nên thêm rằng người ta có thể gặp những hoàn cảnh khó khăn trong mọi giai đoạn của cuộc sống, do những yếu tố bên ngoài – như chuyển công tác, khó khăn trong công việc hay thất bại trong công cuộc tông đồ, bị hiểu lầm hay bị đặt ra ngoài lề …-, hoặc do những nguyên nhân có tính cách cá nhân hơn, – như bệnh hoạn thể lý hay tinh thần, khô khan thiêng liêng, tang tóc, các vấn đề thuộc phạm vi tương giao nhân bản, cơn cám dỗ mạnh mẽ, khủng hoảng đức tin hay khủng hoảng căn tính, cảm thấy mình vô dụng … – Khi người nào thấy khó giữ lòng trung tín thì họ phải được nâng đỡ bằng một sự tin cậy lớn hơn, một tình yêu đặm nồng hơn, ở bình diện cá nhân cũng như ở bình diện cộng đoàn. Lúc ấy, sự gần gũi âu yếm của bề trên rất cần, sự giúp đỡ đầy kinh nghiệm của một người anh hay một người chị sẽ là một trợ lực quý báu. Sự hiện diện ân cần và thái độ sẵn sàng của họ có thể giúp tìm lại được ý nghĩa của giao ước mà Thiên Chúa đã có sáng kiến và Người không muốn từ bỏ. Nhờ đó, người bị thử thách sẽ đi tới chỗ chấp nhận được thanh luyện và lột xác, như con đường ưu việt để đi theo Đức Ki-tô bị đóng đinh. Chính thử thách cũng sẽ hiện ra như một phương tiện đào tạo trong tay Chúa Cha an bài sắp đặt, như một chuộc chiến không chỉ có tính cách tâm lý của cái tôi đối diện với chính mình và với những yếu đuối của mình, mà còn có tính cách đạo đức, vì hàng ngày mang dấu hiện diện của Thiên Chúa và quyền năng của thập giá.

Chiều kích của thường huấn

  1. Nếu trong mọi giai đoạn của cuộc sống, con người phải chủ động trong việc đào tạo mình, thì cứu cánh của việc đào tạo phải nhắm tới toàn thể con người, được mời gọi tìm kiếm và yêu mến Thiên Chúa “hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực” (Đnl 6,5) và yêu tha nhân như chính mình (x. Lv 19,18 ; Mt 22,37-39). Tình yêu Thiên Chúa và anh em là một sức mạnh năng động, luôn luôn có thể làm nguồn cảm hứng cho tiến trình tăng trưởng và trung tín.

Đời sống trong Thần Khí hiển nhiên phải được đặt lên hàng đầu. Sống trong Thần Khí, người tận hiến tìm lại được căn tính của mình và một sự thanh thản sâu xa, quan tâm nhiều hơn tới những lời mời gọi thường nhật của Lời Thiên Chúa, và để cho trực giác nguyên thuỷ của tu hội hướng dẫn. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, các buổi nguyện gẫm, thinh lặng và cô tịch phải được kiên trì bảo toàn, khẩn khoản nài xin Đấng Tối Cao ơn khôn ngoan trong công việc mỗi ngày (x. Kn 9,10).

Chiều kích nhân loại và huynh đệ bao hàm sự biết mình và biết giới hạn của mình, để được khích lệ và nâng đỡ trên đường giải phóng hoàn toàn. Trong bối cảnh ngày nay, phải đặc biệt quan tâm đến tự do nội tâm của người tận hiến, sự trưởng thành tình cảm, khả năng thông đạt với mọi người, đặc biệt trong chính cộng đoàn của mình, sự thanh thản của tinh thần, sự thông cảm với những người đau khổ, lòng yêu mến sự thật và sự hoà hợp giữa lời nói và việc làm.

Chiều kích tông đồ mở lòng mở trí người tận hiến và chuẩn bị cho họ liên tục cố gắng trong hoạt động tông đồ, đó là dấu chỉ của tình yêu Đức Ki-tô thúc đẩy (x. 2 Cr 5,1-4). Trên thực tế, điều này có nghĩa là phải cập nhật hoá các phương pháp và các mục tiêu hoạt động tông đồ, trong sự trung tín với tinh thần và ý định của đấng sáng lập và với những truyền thống đã được thành hình sau này, nhưng cũng biết để ý tới những thay đổi trong các điều kiện lịch sử và văn hoá phổ quát hay địa phương tại môi trường làm việc.

Dựa trên một huấn luyện thần học vững chắc giúp biện phân, chiều kích văn hoá và nghề nghiệp cần được cập nhật hoá liên tục và quan tâm đặc biệt tới những lãnh vực khác nhau, tuỳ theo mỗi đoàn sủng. Vì thế, cần phải giữ tinh thần cởi mở và sẵn sàng học hỏi, để việc phục vụ được quan niệm và thực hiện theo những đòi hỏi của thời nay, biết dùng những phương tiện mà tiến bộ văn hoá cung cấp.

Sau hết, xét theo chiều kích đoàn sủng của mỗi tu hội, tất cả các yếu tố khác được kết lại, làm thành một tổng hợp, tổng hợp này đòi không ngừng đào sâu việc thánh hiến riêng, trong những chiều kích tông đồ, tu đức và thần bí. Điều này có nghĩa là mọi phần <%7>tử phải chuyên cần học hỏi về tinh thần tu hội mình, về lịch sử sứ mạng của tu hội, để cá nhân và cộng đoàn cùng thấm nhuần (173).

 

CHƯƠNG III – SERVITIUM CARITATIS

ĐỜI THÁNH HIẾN TỎ BÀY TÌNH YÊU THIÊN CHÚA TRONG THẾ GIỚI

Được thánh hiến cho sứ mạng

  1. Theo hình ảnh Đức Giê-su, Con yêu dấu “mà Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian” (Ga 10,36), những người Thiên Chúa gọi theo Người, cũng được thánh hiến và sai đến thế gian để bắt chước gương Người và tiếp tục sứ mạng của Người. Điều này được áp dụng cho mọi môn đệ nói chung. Tuy nhiên, nó được áp dụng cách riêng cho những ai được mời gọi theo Chúa Ki-tô “sát hơn” trong hình thức đặc thù là đời thánh hiến và lấy Người làm “tất cả” của đời mình. Như vậy, lời mời gọi, đối với họ, bao hàm cam kết dâng hiến toàn thân cho sứ mạng ; hơn nữa, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, nguồn gốc mọi ơn gọi và mọi đoàn sủng, chính đời thánh hiến trở thành một sứ mạng, như cả cuộc đời Đức Giê-su đã là một sứ mạng. Nhìn từ góc độ đó, chúng ta càng thấy rõ tầm quan trọng của việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm, giúp cho con người hoàn toàn tự do để phục vụ Tin Mừng. Vì vậy, phải khẳng định rằng sứ mạng là thiết yếu cho mọi tu hội, không những cho những tu hội hoạt động tông đồ mà còn cho cả những tu hội chiêm niệm nữa. Thật vậy, trước khi được thể hiện bằng những công việc bề ngoài, sứ mạng cốt ở việc làm cho chính Đức Ki-tô hiện diện bằng chứng tá bản thân. Đó là thách đố, đó là mục đích đầu tiên của đời thánh hiến ! Càng để cho mình đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, người tận hiến càng làm cho Người hiện diện và hành động trong thế giới, để cứu độ nhân loại.

Do đó, có thể nói rằng người tận hiến “được sai đi” do chính sự thánh hiến của mình, người ấy làm chứng cho sứ mạng theo lý tưởng của tu hội mình. Khi đoàn sủng sáng lập tiên liệu có những hoạt động mục vụ, hiển nhiên là chứng tá đời sống và chứng tá hoạt động tông đồ hay thăng tiến con người đều cần thiết : cả hai đều nhằm làm cho Đức Ki-tô hiện diện, Người là Đấng vừa được thánh hiến cho vinh quang của Chúa Cha, vừa được sai đến với thế gian nhằm cứu độ anh chị em mình (174).

Hơn nữa, đời tu lại còn tham gia vào sứ mạng của Đức Ki-tô bằng một yếu tố khác, riêng của mình, đó là đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, hướng về sứ mạng. Như vậy, việc hiến dâng cho Chúa Giê-su càng đi vào nội tâm, cách sống cộng đoàn càng đậm tình huynh đệ, sự dấn thân vào sứ mạng đặc thù của tu hội càng hăng say, thì đời tu càng có giá trị tông đồ.

Phục vụ Thiên Chúa và con người

  1. Đời thánh hiến nhận lãnh sứ mạng ngôn sứ là nhắc nhở và phục vụ ý định của Thiên Chúa đối với loài người, như được Kinh Thánh loan báo và như việc chăm chú đọc dấu chỉ của hoạt động Chúa Quan Phòng trong lịch sử cho thấy. Đó là kế hoạch của một nhân loại được cứu thoát và giải hoà (x. Cl 2,20-22). Để chu toàn nhiệm vụ đó, những người tận hiến phải có một kinh nghiệm sâu xa về Thiên Chúa và ý thức được các thách đố của thời đại mình, khám phá ra ý nghĩa thần học sâu xa của chúng, nhờ biết biện phân với sự trợ lực của Thần Khí. Thật vậy, trong những biến cố lịch sử, thường ẩn giấu tiếng Thiên Chúa mời gọi làm việc theo ý định của Người, bằng việc quan tâm một cách năng động và hữu hiệu tới những vấn đề của thời đại chúng ta (175).

Như Công Đồng đã nói, việc biện phân các dấu chỉ thời đại phải được thực hiện dưới ánh sáng của Tin Mừng để có thể “giải đáp những thắc mắc muôn thuở của con người về ý nghĩa cuộc sống hiện tại và mai hậu, cũng như về mối tương quan giữa hai cuộc sống ấy” (176). Cho nên cần mở tâm hồn đón nhận những lời khuyên bảo bên trong của Chúa Thánh Thần, Người mời gọi đi sâu vào những ý định của Chúa Quan Phòng. Chúa Thánh Thần kêu gọi các người tận hiến đưa ra những câu giải đáp mới cho những vấn đề mới của thế giới hôm nay. Đó là những lời mời gọi của Thiên Chúa mà chỉ những tâm hồn quen tìm kiếm ý muốn của Thiên Chúa mới biết đón nhận cách trung tín và rồi can đảm đem ra thực thi, bằng những lựa chọn phù hợp với đoàn sủng nguyên thuỷ và với những đòi hỏi của hoàn cảnh lịch sử cụ thể.

Trước bao nhiêu vấn đề và những tình trạng khẩn cấp đôi khi ra như gây thiệt hại và đe doạ đời thánh hiến, những người có ơn gọi này không thể không cảm thấy cần phải dấn thân, mang theo trong lòng và trong lời cầu nguyện những nhu cầu đa dạng của toàn thể thế giới, tuy vẫn hoạt động hăng say trong những lãnh vực hạn chế bởi đoàn sủng sáng lập. Dĩ nhiên là lòng nhiệt thành tông đồ của họ phải được hướng dẫn bởi việc biện phân siêu nhiên, biết phân biệt cái gì đến từ Thần Khí và cái gì nghịch với Thần Khí (x. Gl 5,16 – 17,22 ; 1 Ga 4,6). Trung thành với tu luật và hiến chương, sự biện phân phải được thực hiện trong mối hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội (177).

Như vậy, đời thánh hiến sẽ không chỉ tìm đọc các dấu chỉ thời đại mà còn góp phần soạn và đem ra thi hành những dự phóng mới cho việc truyền giảng Phúc Âm ở những hoàn cảnh hiện tại. Tất cả những điều đó được làm với xác tín của niềm tin rằng Chúa Thánh Thần biết đem lại những giải đáp thích hợp cho những vấn đề tế nhị nhất. Về việc này, nên nhớ điều mà các bậc thầy về hoạt động tông đồ vẫn dạy, đó là phải tin cậy vào Thiên Chúa như thể mọi sự đều tuỳ thuộc vào Người, và đồng thời phải hết mình hoạt động như thể tất cả tuỳ thuộc vào ta.

Sự cộng tác trong Giáo hội và linh đạo tông đồ

  1. Tất cả mọi việc phải được làm trong hiệp thông và trong đối thoại với những thành phần khác trong Giáo Hội. Các thách đố của sứ mạng quan trọng đến nỗi không thể đương đầu hữu hiệu được nếu không có sự hợp tác của tất cả các thành phần của Giáo Hội, khi biện phân cũng như lúc hành động. Cá nhân khó mà có được những câu trả lời thích đáng ; trái lại những giải đáp có thể nảy sinh từ chỗ so sánh quan điểm, trao đổi. Cách riêng, sự hiệp thông tích cực giữa các đoàn sủng khác nhau không những làm cho đôi bên thêm phong phú mà còn bảo đảm cho sứ mạng thêm hữu hiệu. Kinh nghiệm những năm vừa qua xác nhận rộng rãi rằng “đối thoại là danh hiệu mới của đức ái” (178) nhất là đức ái sống trong Giáo Hội ; đối thoại giúp cho thấy những vấn đề trong những chiều kích đích thật và khi phải đương đầu thì có nhiều cơ may thành công nhất. Nhờ vun trồng đời sống huynh đệ, đời thánh hiến là một kinh nghiệm đặc biệt về đối thoại. Như vậy nó có thể góp phần tạo nên một bầu khí chấp nhận lẫn nhau, trong đó các thành phần của Giáo Hội, khi cảm thấy con người mình được kính nể, sẽ tới gặp nhau cách xác tín hơn trong sự hiệp thông của Giáo Hội, sẵn sàng nhắm tới sứ mạng phổ quát lớn lao.

Do đó, các tu hội dấn thân vào những hình thức phục vụ tông đồ khác biệt cần phải vun trồng một linh đạo vững chắc về hành động, bằng cách thấy Thiên Chúa trong mọi sự và mọi sự trong Thiên Chúa. Thật vậy, “cần phải biết rằng nếu muốn sống cho có trật tự thì cần biết chuyển từ đời sống hoạt động sang đời sống chiêm niệm ; nhiều khi cũng nên từ đời chiêm niệm trở lại đời sống hoạt động, để cho ngọn lửa thắp lên trong tâm trí nhờ chiêm niệm sẽ toả lan trọn vẹn trong hành động. Như thế đời sống hoạt động phải đưa tới đời sống chiêm niệm và từ đó đời sống chiêm niệm, dựa trên những gì tâm trí chúng ta đã nhận biết, đưa chúng ta trở lại hành động một cách chắc chắn hơn” (179). Chính Đức Giê-su đã cho chúng ta thấy rõ làm thế nào để có thể sống kết hợp với Chúa Cha, đồng thời lại có một đời sống với nhiều hoạt động tông đồ. Nếu không liên tục tìm kiếm sự thống nhất nói trên thì luôn có nguy cơ bị suy sụp bên trong, hoang mang và chán nản. Sự kết hợp mật thiết giữa chiêm niệm và hành động, ngày nay cũng như ngày xưa, giúp người ta đương đầu với những sứ mạng khó khăn nhất.

  1. YÊU THƯƠNG TỚI CÙNG

Yêu thương với trái tim của Đức Ki-tô

  1. “Người đã yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian và Người yêu thương họ đến cùng. Trong bữa ăn tối, Người đứng dậy […] và bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau” (Ga 13,1-2.4-5).

Trong khi rửa chân, Đức Giê-su hé cho thấy Thiên Chúa thương yêu con người đến mức độ nào : nơi Người, chính Thiên Chúa đã muốn phục vụ loài người. Đồng thời, Người mạc khải ý nghĩa của đời sống Ki-tô hữu và tất nhiên của đời thánh hiến, đó phải là một đời sống yêu thương trao hiến, một cuộc đời phục vụ cụ thể và quảng đại. Khi muốn theo chân Con Người, Đấng “đã đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ” (Mt 20,28), đời thánh hiến có một lịch sử thật dài, và trong những thời kỳ tốt đẹp nhất của lịch sử này, người ta quen nhận biết đời thánh hiến qua việc “rửa chân” nghĩa là qua việc phục vụ, ưu tiên cho những người nghèo khổ và thiếu thốn nhất. Nếu một bên, đời thánh hiến chiêm ngưỡng mầu nhiệm cao cả của Ngôi Lời trong lòng Chúa Cha (x. Ga 1,1) thì bên kia, đời thánh hiến cũng theo gót Ngôi Lời trong mầu nhiệm làm người (x. Ga 1,14), hạ mình để phục vụ loài người. Ngày hôm nay, những người theo Đức Ki-tô trên con đường các lời khuyên Phúc Âm cũng muốn đi tới nơi Người đã đi và làm điều Người đã làm.

Người không ngừng mời gọi những người nam nữ và đổ Thần Khí xuống trên họ (x. Rm 5,5) và nhờ đó, thông ban cho họ lòng mến – agape – của Thiên Chúa, tức là cách Thiên Chúa yêu mến, và thúc đẩy họ phục vụ người khác trong sự hiến mình khiêm hạ không tính toán ích kỷ. Thánh Phê-rô, xuất thần trước ánh sáng của cuộc Biến Hình, đã kêu lớn tiếng “Lạy Chúa, chúng con ở đây thật đẹp” (Mt 17,4) nhưng ông đã được mời trở lại con đường trần thế, để tiếp tục phục vụ Nước Thiên Chúa. “Hãy xuống đi, Phê-rô ! Anh cứ muốn nghỉ lại trên núi, nhưng xin hãy xuống. Hãy công bố Lời Chúa, hãy can thiệp lúc nghịch như lúc thuận, hãy răn bảo, dạy dỗ, khuyến khích với đầy lòng nhân hậu và bằng mọi kiểu giáo huấn ! Hãy làm việc, hãy chịu khó, hãy nhẫn nhục trong đau khổ, ngõ hầu nhờ vẻ trắng đẹp của hành động chân chính do lòng mến thúc đẩy, anh có thể đạt được điều được tượng trưng qua tấm áo trắng tinh của Chúa” (180). Vị tông đồ không ngớt ngắm dung nhan Chúa, nhưng không vì thế mà ông giảm bớt việc dấn thân mưu ích cho con người ; trái lại, việc chiêm ngắm tăng cường sự dấn thân, tăng thêm khả năng tác động trên lịch sử, giải thoát nó khỏi những gì làm nó ra méo mó.

Việc tìm kiếm vẻ đẹp của Thiên Chúa thúc đẩy người được thánh hiến chăm sóc hình ảnh Thiên Chúa đã bị bóp méo trên bộ mặt anh chị em mình, những bộ mặt hốc hác vì đói khổ, những bộ mặt thất vọng vì những lời hứa hẹn chính trị, những bộ mặt tủi hổ vì thấy văn hoá của mình bị chà đạp, những bộ mặt kinh đảm vì bạo lực mù quáng xảy ra thường ngày, những bộ mặt lo âu của người trẻ, những bộ mặt của những phụ nữ bị xúc phạm và hạ giá, những bộ mặt mệt mỏi của những người di dân không được ai tiếp nhận, những bộ mặt u buồn của những người có tuổi không có những điều kiện tối thiểu để sống cho ra sống (181). Đời thánh hiến dùng ngôn ngữ của việc làm để nói rằng lòng mến Thiên Chúa là nền tảng và là thuốc kích thích một tình yêu nhưng không và ân cần. Thánh Vinh Sơn Phao-lô đã xác tín điều đó khi mở cho các nữ tử bác ái chương trình sống sau đây : “Tinh thần của dòng cốt ở việc hiến mình cho Thiên Chúa để yêu mến Chúa Ki-tô và phục vụ Người trong bản thân những người nghèo, thể xác và tinh thần, tại nhà họ hay ở nơi khác, để dạy dỗ những thiếu nữ nghèo túng, những trẻ nhỏ và, nói chung, tất cả những ai mà Chúa Quan Phòng gửi tới cho chị em” (182).

Thời nay, trong số nhiều lãnh vực để thực thi lòng mến, lãnh vực tỏ bày cho thế giới một cách đặc biệt lòng yêu thương “đến cùng” hẳn phải là việc say mê loan báo Chúa Giê-su Ki-tô cho những ai chưa biết Người, cho những ai đã quên Người, và một cách ưu tiên cho người nghèo.

Đóng góp đặc thù của đời thánh hiến vào việc truyền giảng Phúc Âm

  1. Những người tận hiến có nhiệm vụ đặc biệt đóng góp vào việc Phúc Âm hoá, trước hết bằng chứng tá một cuộc đời hoàn toàn sống cho Thiên Chúa và cho anh chị em mình, bằng cách bắt chước Chúa là Đấng vì yêu thương con người đã muốn hạ mình làm kẻ nô lệ. Thật vậy, trong công trình cứu độ, tất cả đều bắt nguồn từ sự thông phần vào lòng mến của Thiên Chúa – agapê. Các người tận hiến, nhờ việc thánh hiến và việc hoàn toàn hiến mình, làm cho người khác thấy được sự hiện diện yêu thương và cứu độ của Đức Ki-tô, Đấng được Chúa Cha thánh hiến và sai đi (183). Khi để Đức Ki-tô chiếm đoạt (x. Pl 3,12) họ chuẩn bị trở thành, cách nào đó, nhân tính kéo dài của Chúa Ki-tô (184). Đời thánh hiến cho thấy cách hùng hồn rằng, càng sống trong Đức Ki-tô, người ta càng phục vụ người khác tốt hơn, sẵn sàng đi tới những tiền trạm truyền giáo và dám đương đầu với những nguy cơ lớn nhất.

Việc loan truyền Tin Mừng : loan báo Đức Ki-tô cho muôn dân

  1. Khi người ta yêu mến Thiên Chúa, Đấng là Cha của mọi người, thì người ta không thể không yêu mến đồng loại, nhận ra họ là anh em chị em mình. Vì vậy, khi thấy nhiều người chưa được biết tình yêu Thiên Chúa tỏ bày trọn vẹn trong Đức Ki-tô thì người ta không thể ngồi yên. Chính từ chỗ đó mà, vâng lệnh Đức Ki-tô, xuất phát phong trào truyền giáo cho dân ngoại – ad gentes – mọi Ki-tô hữu có ý thức đều chia sẻ với Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo. Nỗi thao thức này được nuôi dưỡng đặc biệt nơi các người tận hiến, dù là thành viên tu hội chiêm niệm hay hoạt động (186). Thật vậy, các người tận hiến phục vụ sứ mạng làm cho Đức Ki-tô khiết tịnh, khó nghèo, vâng phục, cầu nguyện và truyền giáo (187) được hiện diện ngay cả giữa những người không phải là Ki-tô hữu (188). Tuy vẫn trung thành gắn bó với đoàn sủng riêng, nhưng bởi vì được tận hiến cho Thiên Chúa (189) nên họ có thể cảm thấy được đặc biệt thúc đẩy cộng tác vào hoạt động truyền giáo của Giáo Hội. Có thể thấy nơi nhiều vị thánh nhiệt tình truyền giáo cao độ vốn là đặc tính và niềm vinh dự của đời thánh hiến : người ta còn nhớ thánh nữ Tê-rê-xa Lisieux năng nói tới ước nguyện được “yêu mến Ngài và làm cho Ngài được yêu mến”, thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e nôn nóng vì thấy “nhiều người nghĩ tới việc tính sổ với Chúa và cách mình đã dùng những nén bạc Người ban, nên bằng nhiều phương tiện và nhờ linh thao, lo tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa và nghe <%5>những gì Người nói trong tâm hồn. Ước gì họ làm như Chúa muốn thay vì làm theo ý riêng ; chớ gì họ nói : “Này con đây, lạy Chúa, Chúa muốn dùng con làm gì ? Xin Chúa sai con đi nơi Ngài muốn” (190).

Hiện diện khắp nơi trên mặt đất

  1. “Tình yêu Chúa Ki-tô thúc đẩy chúng ta” (2 Cr 5,14) : các thành viên của mỗi tu hội phải có thể lập lại lời trên của vị Tông Đồ, bởi vì đời thánh hiến có sứ mạng làm việc ở mọi nơi trên trái đất, để củng cố và mở rộng Nước của Chúa Ki-tô, rao giảng Tin Mừng khắp nơi, cả ở những vùng xa xôi nhất (191). Thực vậy, lịch sử truyền giáo làm chứng rằng những người tận hiến đã đóng góp nhiều vào việc loan truyền Phúc Âm cho các dân tộc : từ những gia đình đan viện xưa tới những tổ chức được thành lập gần đây, chuyên đi truyền giáo cho dân ngoại – ad gentes – từ những tu hội sống đời hoạt động tới các tu hội chiêm niệm (192), bao nhiêu người đã hy sinh cho “hoạt động cơ bản của Giáo Hội, hoạt động chính yếu và không bao giờ kết thúc” (193), bởi vì nhắm vào đám đông ngày một gia tăng những người không biết Đức Ki-tô.

Ngày hôm nay, các hội dòng tận hiến và các tu đoàn tông đồ vẫn có bổn phận thực thi một cách khẩn trương điều đó ; người ta trông chờ họ dấn thân hết mình vào việc rao giảng Tin Mừng của Đức Ki-tô. Các tu hội đang nảy sinh hay đang hoạt động trong các Giáo Hội trẻ cũng được mời gọi hướng về sứ mạng giữa những người ngoài Ki-tô giáo, tại quê hương họ hay ở ngoại quốc. Mặc dù những khó khăn có thể gặp phải, vẫn nên nhắc cho mọi người biết rằng, cũng như “đức tin được củng cố khi được chia sẻ” (194) thì việc truyền giáo củng cố đời thánh hiến, đem lại cho nó một nguồn hăng say mới và những động cơ mới, thúc giục sống trung thành. Đối lại, hoạt động truyền giáo cung cấp một cánh đồng bao la trong đó các hình thức khác nhau của đời thánh hiến đều có chỗ đứng và phát triển.

Sứ mạng truyền giáo cho dân ngoại ad gentes cống hiến những cơ hội đặc biệt hăng say dấn thân làm việc tông đồ cho những phụ nữ tận hiến, những tu huynh và những thành viên các tu hội đời. Những thành viên các tu hội đời, do sự có mặt của họ trong nhiều lãnh vực khác nhau dành cho ơn gọi giáo dân, có thể thực hiện một công cuộc cao quý nhằm Phúc Âm hoá các môi trường, các cơ cấu và ngay cả các luật lệ chi phối đời sống xã hội. Ngoài ra, họ có thể làm chứng về các giá trị Tin Mừng cho những người chưa biết Đức Giê-su ; bằng cách đó họ đóng góp đặc biệt cho sứ mạng truyền giáo.

Phải nhấn mạnh rằng tại những quốc gia có các tôn giáo ngoài Ki-tô giáo đã ăn sâu, sự hiện diện của đời thánh hiến có một tầm quan trọng rất lớn, vừa do các hoạt động giáo dục, từ thiện và văn hoá, vừa do chứng tá của đời chiêm niệm. Cho nên trong những giáo hội mới thành lập, phải đặc biệt khuyến khích việc lập các cộng đoàn chuyên lo chiêm niệm vì “đời sống chiêm niệm thuộc về sự hiện diện đầy đủ của Giáo Hội” (195). Kế đó, cần cổ võ, bằng những phương tiện thích hợp, một sự phân phối quân bình đời sống thánh hiến trong những hình thức khác nhau, để khơi lên một phong trào mới đi truyền giáo, hoặc cắt cử các thừa sai nam nữ, hoặc nhờ các hội dòng tận hiến đến giúp cho các giáo phận thiếu thốn (196).

Loan báo Đức Ki-tô và hội nhập văn hoá

  1. Việc loan báo Đức Ki-tô “được thường xuyên dành chỗ ưu tiên trong sứ mạng của Giáo Hội” (197), với mục đích nhắm tới việc hoán cải, nghĩa là gắn bó hoàn toàn và thật lòng với Đức Ki-tô và Tin Mừng của Người (198). Tiến trình hội nhập văn hoá và cuộc đối thoại liên tôn cũng nằm trong khuôn khổ của hoạt động truyền giáo. Các người tận hiến phải coi việc hội nhập văn hoá như một lời mời gọi cộng tác hữu hiệu với ơn Chúa trong việc tiếp xúc với các nền văn hoá dị biệt. Điều này giả thiết đương sự được chuẩn bị nghiêm túc, có ơn biện phân đã được chứng thực, gắn bó trung thành với những tiêu chuẩn phải có : giáo lý chính thống, luân lý nguyên tuyền, hiệp thông với Giáo Hội (199). Được nâng đỡ bởi đoàn sủng của các đấng sáng lập, nhiều người tận hiến đã đến gặp gỡ những nền văn hoá khác nhau với thái độ của Đức Giê-su là Đấng “huỷ mình đi, mang lấy thân phận tôi đòi” (Pl 2,7). Nhờ cố gắng đối thoại kiên trì và táo bạo, họ đã tạo được những quan hệ hữu ích với các dân tộc khác nhau, loan báo cho mọi người con đường cứu độ. Ngày nay cũng vậy, có bao nhiêu người tận hiến biết tìm ra, trong lịch sử của các cá nhân và của các dân tộc, những vết tích sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng muốn đưa toàn thể nhân loại tới chỗ nhận ra các dấu chỉ của ý định cứu độ của Người. Việc tìm kiếm này có lợi cho chính người tận hiến : thật vậy, các giá trị khám phá được trong các nền văn hoá khác nhau có thể thúc đẩy họ đào sâu truyền thống Ki-tô giáo về chiêm niệm và cầu nguyện, trung thành hơn với việc chia sẻ cộng đoàn và đón tiếp khách lạ, mau mắn quan tâm tới con người và tôn trọng thiên nhiên.

Để đạt được một sự hội nhập văn hoá đích thực, cần phải có thái độ giống như Chúa, Đấng đã làm người và sống giữa chúng ta, đầy tình thương và khiêm hạ. Theo nghĩa đó, đời thánh hiến làm cho người ta đặc biệt có khả năng đối phó với công việc hội nhập phức tạp, vì nó tập cho người ta thanh thoát với các thực tại vật chất và thanh thoát cả với nhiều khía cạnh của chính nền văn hoá của mình. Khi cố gắng nghiên cứu, tìm hiểu các nền văn hoá như thế, những người tận hiến có thể nhận biết rõ hơn đâu là những giá trị trung thực của chúng và thấy phải đón nhận và kiện toàn chúng nhờ đoàn sủng riêng như thế nào (200). Dẫu sao không nên quên rằng trong nhiều nền văn hoá cổ, cách biểu thị tôn giáo đã được hội nhập sâu xa đến mức độ tôn giáo thường biểu lộ chiều kích siêu việt của chính văn hoá. Trong trường hợp đó, sự hội nhập đích thực nhất thiết phải đi kèm với một cuộc đối thoại liên tôn, cuộc đối thoại này “không nghịch với sứ mạng truyền giáo ad gentes” và “không chuẩn miễn việc loan truyền Phúc Âm” (201).

Hội nhập đời thánh hiến

  1. Đời thánh hiến mang sẵn những giá trị Tin Mừng, cho nên khi sống đời thánh hiến một cách trung thực, thì quả là góp phần độc đáo vào việc chấp nhận những thách đố của việc hội nhập. Thật vậy, vì đời thánh hiến là dấu chỉ của địa vị tối thượng của Thiên Chúa và của Nước Thiên Chúa, nó hiện ra như một sự thách thức có thể làm lung lay lương tâm con người đang khi đối thoại. Nếu đời thánh hiến duy trì được sức mạnh ngôn sứ của mình, nó sẽ trở nên một thứ men Phúc Âm bên trong một nền văn hoá, có khả năng thanh luyện và biến đổi nền văn hoá. Lịch sử nhiều vị thánh nam nữ thuộc các thời đại khác nhau đã cho thấy điều đó ; các ngài đã biết trầm mình vào thời đại của mình mà không bị nhận chìm, nhưng lại vạch ra những con đường mới cho thế hệ đương thời. Một kiểu sống theo Tin Mừng là một nguồn cảm hứng quan trọng cho một khuôn mẫu văn hoá mới. Bao nhiêu đấng sáng lập nam nữ đã đón nhận một số đòi hỏi của thời đại các ngài, nhưng cũng nhận biết giới hạn của chúng, nên đã đưa ra được một câu trả lời, và câu trả lời đã trở thành một đề xuất văn hoá có sức đổi mới.

Thật vậy, những cộng đoàn của các dòng tu và các tu đoàn tông đồ có thể đưa ra cách cụ thể những đề xuất văn hoá có ý nghĩa, khi họ làm chứng cho lối sống theo tinh thần Phúc Âm, đón nhận lẫn nhau trong sự khác biệt và cách thi hành quyền bính, việc chia sẻ của cải vật chất lẫn tinh thần, chiều kích quốc tế, sự hợp tác giữa các dòng, việc lắng nghe những con người nam nữ của thời đại chúng ta. Thật vậy, cách suy tư và hành động của những người theo Đức Ki-tô sát hơn tạo nên một chuẩn mực văn hoá, làm sáng tỏ cái gì không phù hợp với con người, làm chứng rằng chỉ có Thiên Chúa mới làm cho các giá trị được củng cố và kiện toàn. Đối lại, một sự hội nhập văn hoá đích thực sẽ giúp những người tận hiến sống tính triệt để của Tin Mừng, theo đoàn sủng riêng của tu hội và bản sắc của dân tộc mình tiếp xúc. Quan hệ phong phú sẽ làm nảy sinh các kiểu sống và những phương pháp mục vụ, chúng sẽ là một kho tàng cho toàn thể tu hội, nếu chúng phù hợp với đoàn sủng sáng lập và với hành động thống nhất của Chúa Thánh Thần. Trong tiến trình đó, – bao hàm biện phân, táo bạo, đối thoại và chấp nhận những thách thức của Tin Mừng -, Toà Thánh giữ vai trò hướng đạo, khuyến khích việc Phúc Âm hoá các nền văn hoá cùng kiểm nhận việc tiến triển, phê chuẩn các kết quả đã đạt được nhờ việc hội nhập (202) : Công việc “thật khó khăn và tế nhị, vì liên quan tới sự trung tín của Giáo Hội đối với Tin Mừng và truyền thống các tông đồ, trong sự tiến hoá không ngừng của các nền văn hoá” (203).

Việc tái truyền giảng Phúc Âm

  1. Để đáp lại cách hữu hiệu những thách đố lớn lao mà lịch sử cận đại đặt ra cho việc tái truyền giảng Phúc Âm, trước nhất, đời thánh hiến phải không ngừng để cho lời mặc khải và những dấu chỉ thời đại chất vấn (204) Chúng ta hãy nhớ lại những nhà rao giảng Phúc Âm nam nữ nổi tiếng. Trước khi đi loan truyền Phúc Âm, họ đã được Phúc Âm hoá. Điều này cho thấy rằng để nói với thế gian hôm nay, phải có những con người tha thiết gắn bó với Chúa và Tin Mừng của Người. “Do ơn gọi riêng, những người tận hiến được mời gọi thống nhất việc Phúc Âm hoá chính mình với chứng tá, thống nhất việc đổi mới nội tâm và việc canh tân tông đồ, thống nhất đời sống và hoạt động, bằng cách cho thấy rằng trong những cặp yếu tố trên, sức mạnh năng động luôn luôn tới từ yếu tố thứ nhất” (205).

Việc tái truyền giảng Phúc Âm, cũng như việc truyền giảng Phúc Âm ở các thời khác, sẽ chỉ hữu hiệu nếu biết công bố cho mọi người điều mà trước đó mình đã sống trong tình thân với Chúa. Nó cần những con người có bản lĩnh vững chắc, có lòng nhiệt thành của các thánh. Công cuộc tái truyền giảng Phúc Âm đòi những con người tận hiến ý thức đầy đủ về ý nghĩa thần học của những thách đố thuộc thời đại chúng ta. Các thách đố đó phải được phân tích kỹ trong một biện phân chung, nhằm canh tân sứ mạng. Phải can đảm loan báo Chúa Giê-su đồng thời tin tưởng vào hành động của Chúa Quan Phòng, Đấng hành động trong thế giới và “sắp đặt mọi sự vì ích lợi của Giáo Hội, ngay cả những biến cố trái nghịch” (206).

Trong số các yếu tố quan trọng giúp các tu hội hội nhập một cách hữu hiệu vào tiến trình tái truyền giảng Phúc Âm, cần kể tới sự trung tín với đoàn sủng sáng lập, sự hiệp thông với những ai trong Giáo Hội đang dấn thân phục vụ cùng một chính nghĩa, cách riêng các chủ chăn, và sự hợp tác với tất cả mọi người thiện chí. Điều này đòi hỏi phải biện phân nghiêm túc các tiếng gọi Thần Khí gởi cho từng tu hội, dù tại những vùng không thể thấy ngay được những tiến bộ quan trọng hoặc tại những vùng đang chứng kiến sự hồi sinh đáng khích lệ. Ở mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh, ước gì các người tận hiến hãy nhiệt thành loan báo Chúa Giê-su, sẵn sàng trả lời với sự khôn ngoan của Tin Mừng cho những câu hỏi do lòng trí lo âu của con người và các vấn đề cấp bách đặt ra cho họ ngày hôm nay.

Dành ưu tiên cho người nghèo và cổ võ công lý

  1. Khởi đầu sứ vụ, trong hội đường Na-da-rét, Đức Giê-su công bố là Thánh Thần đã thánh hiến mình để đem Tin Mừng cho người nghèo khó, loan báo ơn giải thoát cho kẻ tù đày, mở mắt cho người mù, trả tự do cho kẻ bị áp bức và rao giảng một năm hồng ân của Thiên Chúa (x. Lc 4,16-19). Bởi đã nhận sứ mạng của Chúa làm của mình nên Giáo Hội loan báo Tin Mừng cho hết mọi người nam nữ, dấn thân phục vụ việc cứu độ toàn diện con người. Tuy nhiên, với một sự quan tâm đặc biệt, một “lựa chọn ưu tiên”, Giáo Hội hướng về những ai ở trong một hoàn cảnh nghèo khó yếu kém hơn, do đó có nhu cầu hơn. Những “người nghèo” dưới những chiều kích đa dạng, là những người bị áp bức, những người bị gạt ra ngoài lề, những người già cả, những người bệnh hoạn, những trẻ em, tất cả những ai bị coi và bị đối xử như những “kẻ rốt hết” trong xã hội.

Sự lựa người nghèo nằm trong chính bản chất của tình yêu sống theo Chúa Ki-tô. Tất cả các môn đệ Đức Ki-tô phải theo sự lựa chọn này ; nhưng những ai muốn theo Chúa Ki-tô sát hơn bằng cách bắt chước cách sống của Người, lại càng không thể không cảm thấy bị lôi cuốn vào sự lựa chọn đó. Việc thành thật đáp lại tình yêu của Đức Ki-tô sẽ dần dần đưa họ tới chỗ sống như người nghèo và bênh vực chính nghĩa của người nghèo. Điều này đòi hỏi mỗi tu hội, tuỳ theo đoàn sủng riêng, phải chọn một kiểu sống, cá nhân cũng như cộng đoàn, khiêm tốn và khắc khổ. Với chứng tá đời sống phù hợp với sự lựa chọn do ơn gọi và không để mình bị chi phối bởi các ý thức hệ chính trị, các người tận hiến có thể tố cáo những bất công mà bao con cái Thiên Chúa phải chịu đựng, và dấn thân cổ võ cho công lý trong lãnh vực xã hội nơi họ đang làm việc (207). Nhờ thế, ngay cả trong hoàn cảnh hiện nay, người ta sẽ thấy diễn lại, qua chứng tá của bao người tận hiến, sự xả thân của các đấng sáng lập đã dâng trót cuộc đời để phục vụ Chúa hiện diện nơi người nghèo. Thật vậy, “ở dưới thế này, Chúa Ki-tô nghèo trong con người kẻ nghèo … là Thiên Chúa tuy giàu có, nhưng khi làm người, Người trở nên nghèo. Thực ra, cũng con người đó đã nên giàu có, nay lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Nhưng đồng thời, Người vẫn ở lại dưới thế như người nghèo, đói, khát, không áo che thân” (208).

Tin Mừng trở thành thiết thực nhờ tình bác ái, là vinh quang của Giáo Hội, là dấu chỉ cho thấy Giáo Hội trung tín với Chúa. Tất cả lịch sử đời thánh hiến cho thấy điều đó, một lịch sử có thể được coi như một cách chú giải sống động lời của Đức Giê-su : “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Nhiều tu hội nhất là trong thời hiện đại, đã được lập nhằm để đáp ứng một nhu cầu nào đó của người nghèo. Và ngay cả khi mục đích đó không được nêu như là chủ yếu, thì mối quan tâm tới những người thiếu thốn, diễn tả qua lời cầu nguyện, việc đón tiếp, cho trú ngụ, vẫn thường có trong mọi hình thức của đời thánh hiến, kể cả hình thức chiêm niệm. Làm sao có thể khác được khi Đức Ki-tô được chiêm ngắm trong cầu nguyện cũng là chính Đấng đang sống và khổ đau nơi người nghèo ? Theo nghĩa đó thì lịch sử đời thánh hiến đầy những gương lạ lùng và đôi khi thần kỳ. Thánh Pau-li-nô Nô-la sau khi phân phát hết của cải cho người nghèo để có thể hiến mình trọn vẹn cho Thiên Chúa, lại cho xây những phòng của đan viện mình ở trên một viện tế bần. Người lấy làm vui mừng khi nghĩ tới cuộc “trao đổi quà tặng” lạ lùng đó : những người nghèo được người cấp dưỡng lại củng cố, bằng những lời cầu nguyện, “nền móng” đan viện của người, một cộng đoàn chuyên lo ngợi khen Thiên Chúa (209). Thánh Vinh Sơn Phao-lô thì thích nói rằng khi buộc phải gián đoạn cầu nguyện để giúp một người nghèo trong cơn quẫn bách, thì thực ra ta không gián đoạn cầu nguyện bởi vì đó chỉ là “rời Thiên Chúa để gặp Thiên Chúa” (210).

Đối với đời thánh hiến, phục vụ người nghèo là một hành động truyền giảng Phúc Âm, và đồng thời đóng ấn trung tín với Tin Mừng và mời gọi hoán cải thường xuyên, bởi vì như thánh Ghê-gô-ri-ô Cả nói : “Lòng mến bay vút tới đỉnh cao khi sẵn sàng mở lòng nhân hậu để cho nỗi khốn cùng của người đồng loại kéo xuống, và càng trìu mến xuống sâu tới những người yếu hèn thì lại càng thêm sức để bay bổng lên cao” (211).

Chăm sóc các bệnh nhân

  1. Dựa theo một truyền thống xán lạn, một số đông người tận hiến, nhất là nữ giới, đã làm việc tông đồ trong các cơ sở y tế, theo đoàn sủng riêng của tu hội. Theo dòng thời gian, nhiều người thánh hiến đã hy sinh mạng sống khi chăm sóc những người mắc bệnh truyền nhiễm, cho thấy việc hiến mình tới độ anh hùng nằm trong tính ngôn sứ của đời thánh hiến.

Giáo Hội nhìn, với lòng cảm phục và biết ơn, đông đảo những người tận hiến đang chăm sóc các bệnh nhân và những người đau khổ. Họ đóng góp vào sứ mạng của Giáo Hội một cách có ý nghĩa : họ kéo dài sứ vụ nhân lành của Đức Ki-tô, Đấng “đi tới đâu thì thi ân giáng phúc và chữa lành tới đó” (Cv 10,38). Theo bước chân của người Sa-ma-ri từ trời xuống, vị lương y của tâm hồn và thể xác (212), và theo gương các đấng sáng lập nam nữ, chớ gì những người tận hiến mà đoàn sủng tu hội hướng về tác vụ này, hãy bền đỗ trong chứng tá yêu thương đối với những người đau ốm, phục vụ họ với một lòng cảm thông sâu xa và chia sẻ nỗi đau khổ của họ. Chớ gì trong các chọn lựa của họ, chỗ ưu tiên được dành cho những bệnh nhân nghèo khổ và bị bỏ rơi nhất, như những người già cả, những kẻ tật nguyền, những người phải sống bên lề, những người bệnh chờ chết, những nạn nhân của ma tuý và những bệnh truyền nhiễm mới. Hãy giúp những người bệnh dâng nỗi đau khổ của mình, hiệp cùng Đức Ki-tô bị đóng đinh và được tôn vinh cho mọi người được cứu độ (213), hãy ý thức rằng họ là những chủ thể tích cực của mục vụ, nhờ đoàn sủng riêng của thập giá, khi họ cầu nguyện và làm chứng bằng lời nói và lối sống (214).

Ngoài ra, Giáo Hội nhắc nhở những người tận hiến rằng nhiệm vụ Phúc Âm hoá các môi trường y tế nơi họ làm việc cũng là sứ mạng của họ, bằng cách phổ biến các giá trị Phúc Âm, nhờ đó soi sáng cách sống, đau khổ và chết của con người thời đại chúng ta. Họ có bổn phận phải nhân đạo hoá y học và đào sâu ngành luân lý sinh học, nhằm phục vụ Tin Mừng sự sống. Tiên vàn họ hãy cổ võ cho mọi người tôn trọng con người và sự sống, từ lúc thụ thai cho tới lúc cuộc sống chấm dứt một cách tự nhiên, phù hợp với giáo huấn luân lý của Giáo Hội (215), bằng cách lập ra các trung tâm đào tạo (216) và bằng cách hợp tác huynh đệ với những tổ chức của Giáo Hội chuyên lo mục vụ y tế.

  1. MỘT CHỨNG TÁ MANG TÍNH NGÔN SỨ TRƯỚC NHỮNG THÁCH ĐỐ LỚN

Tính ngôn sứ của đời thánh hiến

  1. Các nghị phụ tại Thượng hội đồng đã nhấn mạnh nhiều đến tính ngôn sứ của đời thánh hiến, được trình bày như một cách tham gia đặc biệt vào chức vụ ngôn sứ của Đức Ki-tô mà Thánh Thần đã ban cho toàn thể Dân Thiên Chúa. Tính ngôn sứ đó gắn liền với đời thánh hiến, bởi lẽ nó thúc bách bước theo Chúa Ki-tô đến cùng, và được kêu mời dấn thân thi hành sứ mạng đặc thù của người tận hiến. Công Đồng Va-ti-ca-nô II công nhận đời tận hiến có phận sự làm dấu chỉ (217), chứng tá có tính ngôn sứ về vị thế tối thượng của Thiên Chúa và của những giá trị Tin Mừng trong đời sống Ki-tô hữu. Chính do vị thế trổi vượt đó, không có gì đáng kể hơn là mối tình dành riêng cho Đức Ki-tô và cho những người nghèo mà Đức Ki-tô đang sống trong họ (218).

Truyền thống giáo phụ đã nhìn nhận nơi ông Ê-li-a, vị ngôn sứ can trường và bạn hữu của Thiên Chúa, khuôn mặt của đời đan tu (219). Ông Ê-li-a sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Ông chiêm ngưỡng Thiên Chúa đi ngang qua trong thinh lặng. Ông chuyển cầu cho toàn dân và can đảm công bố thánh ý của Người. Ông đấu tranh cho quyền lợi của Thiên Chúa và đứng ra bảo vệ những người nghèo chống lại người quyền thế (x. R 18-19). Trong lịch sử Giáo Hội, bên cạnh những Ki-tô hữu khác, vẫn luôn có những người nam nữ tận hiến cho Thiên Chúa, nhờ đặc ân riêng của Thần Khí, thi hành tác vụ ngôn sứ chân chính, khi họ nhân danh Thiên Chúa để nói cho mọi người và cho cả những mục tử trong Giáo Hội nữa. Lời ngôn sứ chân chính đến từ nơi Thiên Chúa, nhờ sống trong tình thân với Thiên Chúa, chăm chú lắng nghe Lời Người trong những giai đoạn khác nhau của lịch sử. Ngôn sứ cảm thấy trong lòng mình sôi sục niềm đam mê đối với vẻ thánh thiện của Thiên Chúa, và sau khi đã đón nhận Lời Chúa trong đối thoại và cầu nguyện, ngôn sứ công bố lời đó bằng cuộc sống của mình, trên môi miệng và bằng hành động của mình ; họ trở thành phát ngôn viên của Thiên Chúa chống lại sự dữ và tội lỗi. Chứng tá ngôn sứ đòi hỏi phải liên lỉ và say sưa tìm ý Thiên Chúa, nhất thiết và quảng đại hiệp thông với Giáo Hội, thực hành biện phân thiêng liêng và yêu mến sự thật. Chứng tá ngôn sứ cũng được thể hiện khi biết tố giác những điều trái ngược với ý Thiên Chúa, và biết khai mở những con đường mới đem Tin Mừng vào lịch sử, cho Nước Thiên Chúa mau đến (220).

Tầm quan trọng của tính ngôn sứ trong thế giới hiện thời

  1. Trong thế giới của chúng ta, những dấu vết của Thiên Chúa dường như bị xoá nhoà, nên người ta cảm thấy nhu cầu khẩn trương của một chứng tá ngôn sứ thật mãnh liệt từ phía những người thánh hiến. Tiên vàn chứng tá đó công bố vị thế tối thượng của Thiên Chúa và của những điều thiện hảo sắp tới, biểu lộ qua việc bước theo Đức Ki-tô – sequela Christi – và trở nên giống Đức Ki-tô trinh khiết, khó nghèo và vâng phục, hoàn toàn tận hiến cho vinh quang Chúa Cha và yêu thương anh chị em mình. Chính đời sống huynh đệ là một lời ngôn sứ sống động trong một xã hội khao khát sâu xa tình huynh đệ không biên giới, cho dù đôi khi người ta không nhận ra điều đó. Trung thành với đoàn sủng của mình, những người tận hiến dám làm chứng tá cách hiên ngang, không sợ phải hy sinh mạng sống.

Lời ngôn sứ có sức thuyết phục phi thường khi lời loan báo khớp với cách sống. Những người tận hiến sẽ trung thành với sứ mạng của họ trong Giáo Hội và trong thế giới nếu họ dám thường xuyên tự vấn canh tân dưới ánh sáng Lời Thiên Chúa (221). Nhờ đó, họ có thể chuyển đạt cho các tín hữu khác sự phong phú của các đoàn sủng mình đã lãnh nhận, đồng thời vẫn để cho những thành phần khác trong Giáo Hội có thể chất vấn họ với những lý chứng cũng mang tính ngôn sứ. Như vậy, cuộc trao đổi các ân sủng, được chứng thực nhờ hoà hợp hoàn toàn với huấn quyền và kỷ luật của Giáo Hội, sẽ biểu dương tỏ tường tác động của Thánh Thần “Đấng làm cho Giáo Hội hợp nhất trong hiệp thông và phục vụ, Đấng cung cấp cho Giáo Hội những ân huệ khác nhau, cả nơi hàng giáo phẩm lẫn nơi các đặc sủng, dẫn dắt Giáo Hội bằng những ân huệ đó” (222).

Trung thành cho đến chết

  1. Trong thế kỷ này, cũng như nhiều thời đại khác trong lịch sử, nhiều người nam nữ tận hiến đã làm chứng cho Đức Ki-tô đến hy sinh mạng sống. Hàng ngàn người đã phải trốn tránh trong các hang toại đạo khi bị các chính quyền độc tài hoặc những nhóm khủng bố bách hại, họ đã bị sách nhiễu vì hoạt động truyền giáo, phục vụ người nghèo, săn sóc bệnh nhân và những người ngoài lề xã hội ; họ đã và đang phải trả giá cao để được sống đời thánh hiến, phải anh dũng chịu khổ cực lâu dài, nhiều khi phải đổ máu đào, như vậy họ được nên hoàn toàn đồng dạng với Chúa chịu đóng đinh. Hội Thánh đã chính thức tuyên dương sự thánh thiện của một số người tận hiến, tôn phong các ngài lên hàng chứng nhân tử đạo của Đức Ki-tô. Các ngài soi sáng chúng ta nhờ gương sáng, các ngài chuyển cầu cho chúng ta được trung kiên, các ngài chờ đợi chúng ta trong cõi vinh quang.

Nhiều người mong ước rằng việc tưởng nhớ bao chứng nhân đức tin sẽ luôn sống mãi trong ý thức của Hội Thánh như một lời mời gọi mừng kính và noi gương các ngài. Các hội dòng tận hiến và các tu đoàn tông đồ có thể đáp lại ước mong đó bằng cách thu thập tên tuổi và chứng từ của tất cả những người tận hiến đáng được ghi vào danh sách các chứng nhân tử đạo của thế kỷ XX này (223).

Những thách đố lớn của đời thánh hiến

  1. Sứ mạng ngôn sứ của đời thánh hiến phải đương đầu với ba thách đố quan trọng đặt ra cho chính Giáo Hội : những thách đố đó vốn đã cũ, nhưng xã hội đương thời lại tung ra dưới một dạng mới và có thể buộc người tận hiến xét lại triệt để, ít là tại một vài nơi trên thế giới. Những thách đố đó liên quan trực tiếp đến những lời khuyên Phúc Âm khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục, và thúc đẩy Giáo Hội và, đặc biệt, những người tận hiến hãy làm nổi bật ý nghĩa nhân bản của những lời khuyên Phúc Âm và minh chứng điều đó. Thực vậy, việc chọn sống các lời khuyên đó, thay vì giảm thiểu những giá trị nhân bản chân chính, lại thăng tiến chúng nữa. Không nên coi các lời khuyên Phúc Âm như là sự phủ nhận những giá trị gắn liền với tính dục, với ước muốn chính đáng được sở hữu và được tự do định đoạt cho đời mình. Những xu hướng đó, trong mức độ chúng hợp với bản chất, đều tốt cả. Tuy nhiên, con người đã bị suy yếu bởi tội nguyên tổ nên có nguy cơ là chiều theo quá trớn các xu hướng đó đến nỗi vi phạm những quy tắc luân lý. Tuyên giữ khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục là một cách cảnh cáo đừng coi nhẹ những chấn thương do nguyên tội gây ra ; đồng thời tuy vẫn khẳng định giá trị những điều tốt lành mà Chúa tạo dựng, nó lại tương đối hoá giá trị của những thụ tạo khi chứng tỏ rằng chỉ có Thiên Chúa mới là sự thiện tuyệt đối. Như thế, đang khi những người tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm đi tìm sự thánh thiện cho bản thân, thì họ như thể đề nghị một thứ “trị liệu thiêng liêng” cho nhân loại, bởi vì họ khước từ tôn thờ các loài thụ tạo và, một cách nào đó, họ làm cho Thiên Chúa hằng sống trở nên hữu hình. Đặc biệt trong những thời buổi khó khăn, cuộc sống thánh hiến là một phúc lành cho đời sống của nhân loại và của chính Hội Thánh.

Thách đố của khiết tịnh tận hiến

  1. Thách đố đầu tiên đến từ một nền văn hoá hưởng thụ đang tháo gỡ mọi quy tắc đạo đức khách quan của tính dục, thường giản lược tính dục thành một thứ trò chơi và một món hàng tiêu thụ, cũng như tôn thờ bản năng tính dục với sự đồng loã của các phương tiện truyền thông xã hội. Ai cũng thấy được những hậu quả của tình trạng này : đủ mọi thứ vi phạm luân lý, kèm theo vô vàn đau khổ về mặt tâm lý và đạo đức cho nhiều cá nhân và nhiều gia đình. Lời đáp ứng của đời thánh hiến hệ tại trước tiên ở việc vui vẻ thực hành đức khiết tịnh hoàn hảo, như một chứng tá về quyền năng của tình yêu Thiên Chúa trong sự mỏng dòn của thân phận con người. Người tận hiến chứng nhận rằng điều mà đa số xem như không thể được lại trở nên có thể và thật sự mang lại tự do, nhờ ơn thánh của Chúa Giê-su. Đúng vậy, trong Đức Ki-tô, có thể yêu mến Thiên Chúa với hết cả con tim, đặt Người lên trên mọi mối tình, và yêu thương mọi thụ tạo với sự tự do của Thiên Chúa ! Đây là một trong những chứng tá cần thiết cho hôm nay hơn bao giờ hết, chính vì thế giới ít hiểu được điều này. Chứng tá này dành cho mọi người – cho giới trẻ, cho những người đính hôn, cho những đôi vợ chồng, cho các gia đình Ki-tô giáo – để minh chứng rằng sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa có thể thực hiện những điều phi thường ngay giữa những thăng trầm của tình thương loài người. Đây là một chứng từ cũng đáp ứng nhu cầu càng ngày càng tăng là thèm khát sự trong sáng trong mối tương quan giữa người với người.

Đời thánh hiến cần phải nêu lên cho thế giới ngày nay những gương sáng của những người nam và người nữ sống đức khiết tịnh mà vẫn quân bình, làm chủ được chính mình, có sáng kiến, trưởng thành tâm linh và tình cảm (224). Qua chứng tá đó, tình yêu nhân loại tìm được một điểm tựa vững chắc, mà con người thánh hiến phát hiện ra khi chiêm niệm tình yêu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa được Đức Ki-tô mạc khải cho chúng ta. Chính vì được nhận chìm trong mầu nhiệm đó, con người tận hiến có khả năng yêu mến triệt để và phổ quát, có sức mạnh để tự chủ và kỷ luật cần thiết để khỏi bị nô lệ giác quan và bản năng. Đức khiết tịnh tận hiến trở thành một kinh nghiệm về niềm vui và tự do. Được soi sáng bởi niềm tin vào Chúa phục sinh và niềm chờ mong trời mới đất mới (x. Kh 21,1), đức khiết tịnh tận hiến là một kích thích tố quý báu cho việc giáo dục khiết tịnh, cần cho các bậc sống khác nữa.

Thách đố của khó nghèo

  1. Một thách đố khác đến từ một chủ nghĩa vật chất thèm khát chiếm hữu, dửng dưng với những nhu cầu và đau khổ của những người yếu đuối, cũng chẳng quan tâm gì đến việc làm quân bình những tài nguyên thiên nhiên. Lời đáp ứng của đời thánh hiến được tìm thấy trong sự khó nghèo theo Tin Mừng, sống dưới nhiều hình thức khác nhau, và thường đi đôi với một hoạt động dấn thân để phát huy tình liên đới và bác ái.

Biết bao tu hội đã chuyên lo việc giáo dục, huấn luyện và hướng nghiệp, đã giúp những người trẻ và những người có tuổi trở thành chủ động kiến tạo tương lai của họ ! Biết bao người tận hiến đã hy sinh mà không tính toán công sức của họ để phục vụ những người chịu thiệt thòi nhất trên đời này ! Biết bao người tận hiến đã ra sức đào tạo những nhà giáo dục tương lai và những người lãnh đạo tương lai trong đời sống xã hội, để những người ấy cố gắng loại trừ những cơ cấu đàn áp và phát huy những chương trình tương trợ hướng tới người nghèo ! Những người tận hiến đã đấu tranh chống lại nạn đói và những nguyên nhân gây ra nạn đói, họ linh hoạt những công tác thiện nguyện và những cơ quan nhân đạo, họ gây ý thức cho những tổ chức công và tư giúp phân phối cách thoả đáng những viện trợ quốc tế. Các dân tộc mang ơn họ nhiều, họ là những nhân viên bác ái đầy sáng tạo, có một lòng quảng đại không mệt mỏi, đã tham gia và còn đang làm cho thế giới này trở nên nhân đạo hơn.

Khó nghèo Phúc Âm để phục vụ người nghèo

  1. Trong thực tế, trước khi nhắm phục vụ người nghèo, khó nghèo Phúc Âm tự nó đã là một giá trị rồi, bởi vì nhắc đến mối phúc đầu tiên theo gương Đức Ki-tô khó nghèo (225). Thật vậy, ý nghĩa tiên khởi của khó nghèo là làm chứng cho Thiên Chúa, kho tàng đích thực của trái tim con người. Đức khó nghèo phản đối quyết liệt việc tôn thờ Tiền Tài ; nó như thể một lời ngôn sứ vang lên cho xã hội tại nhiều nơi thuộc thế giới giàu sang đang có nguy cơ mất ý thức về mực thước và thậm chí về giá trị của sự vật nữa. Vì vậy mà ngày nay, hơn cả mọi thời đại khác, đức khó nghèo Phúc Âm thu hút chú ý của những người ý thức tài nguyên của hành tinh có giới hạn, đang đòi phải tôn trọng và bảo vệ công trình tạo dựng bằng cách giảm bớt tiêu thụ, biết sống thanh đạm và tự đặt cho mình bổn phận kìm hãm những ước muốn của mình.

Những người tận hiến được mời làm chứng cho Tin Mừng một cách mới mẻ và mạnh mẽ về sự từ bỏ và tiết độ, bằng một nếp sống huynh đệ với nét nổi bật là đơn sơ và hiếu khách, cũng như làm gương cho những người dửng dưng với nhu cầu của tha nhân. Chứng tá đó đương nhiên đi kèm theo một mối tình dành ưu tiên cho người nghèo, và tỏ ra một cách đặc biệt trong cách chia sẻ điều kiện sống của những người cùng khốn nhất. Biết bao cộng đoàn hiện đang sống và làm việc ở giữa người nghèo và người ngoài lề xã hội, chấp nhận những điều kiện sống của họ và chia sẻ nỗi đau khổ, các khó khăn và hiểm nguy của họ.

Những người tận hiến đã viết lên bao trang sử diệu kỳ về sự liên đới Phúc Âm và anh dũng xả thân, vào những năm đầy những biến đổi sâu đậm và những bất công lớn, những hy vọng lẫn những thất vọng, những chinh phục đáng kể và những thất bại ê chề. Còn những trang sử khác cũng không kém ý nghĩa đã và còn đang được ghi lại bởi vô số những người tận hiến khác, đang sống phong phú một cuộc đời “tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa” (Cl 3,3) để thế giới được cứu độ, mà không cầu lợi lộc nào, vẫn suốt đời dấn thân vì chính nghĩa mà ít ai biết đến và rất ít ai nhận ra giá trị. Dưới những hình thức khác biệt và bổ túc cho nhau, đời thánh hiến san sẻ sự nghèo khó cùng cực mà Chúa đã chấp nhận. Đời thánh hiến chu toàn một vai trò đặc thù trong mầu nhiệm cứu độ của cuộc nhập thể và thương khó cứu chuộc của Đức Ki-tô (226).

Thách đố của tự do trong vâng phục

  1. Thách đố thứ ba phát sinh từ những quan niệm về tự do, muốn tách rời đặc trưng cơ bản nhất của con người ra khỏi tương quan với chân lý và quy tắc luân lý (227). Thật ra, đề cao tự do quả là một giá trị chân chính, gắn liền với sự tôn trọng con người. Nhưng ai lại không thấy những bất công trầm trọng và cả những bạo hành khủng khiếp do việc sử dụng lệch lạc quyền tự do trong đời sống cá nhân và các dân tộc ?

Đức vâng phục đặc thù của đời thánh hiến là một lời đáp ứng hữu hiệu cho tình trạng trên. Đức vâng phục tu trì giới thiệu một cách thật hùng hồn việc Đức Ki-tô vâng phục Chúa Cha như một gương mẫu điển hình, và khởi đi từ mầu nhiệm Đức Ki-tô, đức vâng phục tu trì minh chứng rằng vâng phục và tự do không mâu thuẫn với nhau. Thật vậy, thái độ của Chúa Con biểu lộ cho thấy mầu nhiệm tự do của con người là một con đường vâng phục ý Chúa Cha, và mầu nhiệm vâng phục là một con đường để dần dần chinh phục sự tự do chân chính. Người tận hiến muốn diễn tả mầu nhiệm đó qua lời khấn tuân phục. Như thế người tận hiến muốn cho thấy họ ý thức mối tương quan nghĩa tử, từ đó họ đón nhận ý Chúa Cha làm lương thực hằng ngày (x. Ga 4,34), làm đá tảng vững chắc, làm niềm vui, làm thuẫn đỡ, và nơi trú ẩn cho họ (x. Tv 18 (17),3). Người tận hiến cho thấy họ lớn lên trong chân lý toàn diện về con người của họ, họ được gắn liền với nguồn mạch hiện hữu của họ và công bố sứ điệp đầy an ủi này : “Kẻ yêu luật Chúa hưởng an bình thư thái, chẳng còn lo gặp chướng ngại nào” (Tv 119 (118),165).

Cùng nhau thực hiện thánh ý Chúa Cha

  1. Chứng tá của những người tận hiến mang một ý nghĩa đặc biệt, vì chiều kích cộng đoàn là nét đặc thù của đời tu. Đời sống huynh đệ là chỗ tốt nhất để nhận định và đón nhận ý Thiên Chúa, để cùng nhau tiến bước một lòng một trí với nhau. Nhờ đức ái truyền thêm sinh khí, đức vâng phục liên kết những thành viên của một tu hội vào cùng một chứng tá và cùng một sứ mạng, tuy vẫn tôn trọng những hồng ân khác biệt và cá tính mỗi người. Trong đời sống huynh đệ được Thánh Thần linh hoạt, mỗi người trân trọng đối thoại với các người khác để tìm ra ý Chúa Cha. Đồng thời tất cả mọi người đều nhận ra nơi người phụ trách hiện thân tình phụ tử của Thiên Chúa, và quyền bính Thiên Chúa trao ban là để dùng vào việc biện phân và hiệp thông (228).

Trong Giáo Hội và trong xã hội, đời sống cộng đoàn còn là một dấu chỉ đặc biệt của mối dây liên kết bắt nguồn từ cùng một tiếng gọi và ý định muốn tuân theo tiếng gọi ấy, cho dù có khác chủng tộc, gốc gác, ngôn ngữ hay văn hoá. Trái ngược lại với tinh thần bất thuận và chia rẽ, quyền bính và vâng phục trở thành một dấu chỉ sáng ngời của tình phụ tử duy nhất đến từ Thiên Chúa, của tình huynh đệ phát xuất từ Thánh Thần, của tự do nội tâm nơi những con người đã phó thác cho Thiên Chúa, bất chấp những giới hạn của những con người đại diện Thiên Chúa. Một số người chấp nhận vâng phục làm luật sống, nhờ đó họ kinh nghiệm được mối phúc Đức Giê-su hứa cho những “kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,28), và họ công bố điều đó vì lợi ích của mọi người. Hơn nữa, ai vâng phục thì được bảo đảm là mình đang thi hành sứ mạng, bước theo Chúa chứ không phải là theo ước muốn hay theo cảm hứng riêng của mình. Như thế, họ có thể biết rằng mình được Thánh Thần Thiên Chúa dẫn đưa và được bàn tay dũng mãnh của Người nâng đỡ, ngay giữa lúc gặp những khó khăn gian khổ (x. Cv 20,22-24).

Cương quyết dấn mình vào đời sống tâm linh

  1. Một trong những ưu tư đã được Thượng hội đồng nhắc tới nhiều lần, đó là đời thánh hiến cần được nuôi dưỡng tại nguồn cội đời sống tâm linh vững chắc và sâu xa. Thật ra, đây là yêu sách hàng đầu nằm trong bản chất của đời thánh hiến ; bởi vì cũng như mọi Ki-tô hữu khác, và thậm chí còn hơn thế nữa, ai đã tuyên giữ những lời khuyên Phúc Âm có nghĩa vụ phải dồn hết sức lực hướng về sự trọn lành của đức ái (229). Nghĩa vụ này được đề cao xán lạn qua gương sáng của vô vàn các thánh lập dòng và của đông đảo những người tận hiến đã trung thành làm chứng cho Đức Ki-tô cho đến chết.

Hướng về sự thánh thiện, đó là bản tóm kết chương trình mọi cuộc đời thánh hiến, cách riêng trong viễn tượng canh tân trước thềm thiên niên kỷ thứ ba. Khởi điểm của chương trình này là sự kiện phải bỏ tất cả để theo Đức Ki-tô (x. Mt 4,18-22 ; 19,21-27 ; Lc 5,11), không lấy gì làm hơn Đức Ki-tô, để có thể thông phần trọn vẹn vào mầu nhiệm Vượt Qua.

Thánh Phao-lô đã hiểu đúng điều đó khi công bố : “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi […] được biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh” (Pl 3,8.10). Đây là con đường mà các Tông Đồ đã mở ra ngay từ đầu, theo như truyền thống Ki-tô hữu ở Đông Phương và Tây Phương để lại : “Ngày nay những người theo Đức Giê-su từ bỏ tất cả vì Người làm cho người ta nhớ đến các tông đồ xưa kia cũng đáp lại lời Chúa gọi, đã bỏ mọi sự mà đi theo Người. Cũng theo truyền thống đó, đời tu được gọi là một hình thức sống đời tông đồ, apostolica vivendi forma” (230). Truyền thống đó đã nêu bật trong đời tận hiến khía cạnh giao ước duy nhất với Thiên Chúa, và cả khía cạnh hôn ước với Đức Ki-tô nữa, điều mà thánh Phao-lô rao giảng bằng gương sáng (x. 1 Cr 7,7) bằng lời giảng, nhờ được Thần Khí soi sáng (x. 1 Cr 7,40).

Chúng ta có thể nói rằng đời sống tâm linh, được hiểu như là sống với Đức Ki-tô và do Thánh Linh hướng dẫn, là một cuộc hành trình mỗi ngày một trung tín hơn, trong đó người tận hiến được Thánh Thần soi dẫn và biến đổi trở thành Đức Ki-tô, trọn niềm hiệp thông trong tình yêu và phục vụ trong Giáo Hội.

Tất cả những yếu tố vừa nói, được hội nhập vào trong những hình thức khác nhau của đời thánh hiến, kết thành một linh đạo đặc thù, nghĩa là một dự phóng cụ thể sống tương quan với Thiên Chúa và với môi trường chung quanh, với những nét nhấn về mặt tinh thần hay về hình thức hoạt động tông đồ, do đó mà một khía cạnh này hay khía cạnh khác trong mầu nhiệm duy nhất của Đức Ki-tô được biểu dương hay hoạ lại. Khi công nhận một hình thức đời thánh hiến hay một tu hội, Giáo Hội công bố rằng trong đoàn sủng thiêng liêng và tông đồ đã hội đủ những điều kiện khách quan để đạt tới sự toàn hảo theo Tin Mừng cho mỗi người và cho cộng đoàn.

Đời sống tâm linh phải được đặt lên hàng đầu trong chương trình của mọi gia đình tận hiến, ngõ hầu mọi tu hội và mọi cộng đoàn trở thành những trường học về linh đạo Phúc Âm chân chính. Từ việc lựa chọn ưu tiên đó mà mỗi người và mỗi cộng đoàn cương quyết sống, phát sinh một đời sống tông đồ phong phú, một mối tình quảng đại dành cho người nghèo, và khả năng khai sinh những ơn gọi mới trong thế hệ trẻ. Chính phẩm chất thiêng liêng của đời thánh hiến mới lay chuyển được những con người thời đại này đang khao khát những giá trị tuyệt đối và trở thành một lời chứng hấp dẫn.

Lắng nghe Lời Thiên Chúa

  1. Lời Thiên Chúa là nguồn mạch đầu tiên của mọi linh đạo Ki-tô giáo. Lời Chúa nuôi dưỡng tương quan thân tình với Thiên Chúa hằng sống, với ý định cứu chuộc và thánh hoá của Người. Vì thế mà ngay từ buổi khai nguyên của các hội đoàn tận hiến, và đặc biệt trong các đan viện, việc suy gẫm Sách Thánh – lectio divina – đã được quý trọng. Nhờ đọc Sách Thánh mà Lời Thiên Chúa thấm vào cuộc sống, chiếu dọi ánh sáng của sự khôn ngoan, hồng ân của Thánh Thần. Đành rằng trọn Kinh Thánh đều “có ích cho việc giảng dạy” (2 Tm 3,16). là nguồn mạch thanh khiết và không bao giờ cạn cho đời sống tâm linh” (231), nhưng các bản văn Tân Ước đáng được tôn trọng đặc biệt, nhất là các sách Tin Mừng, “trái tim của toàn bộ Sách Thánh” (232). Những người tận hiến nên chăm chú suy niệm chính bản văn Tin Mừng và các bản văn Tân Ước khác, vì chúng diễn đạt lời nói và gương sáng của Chúa Ki-tô và Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, đồng thời cũng cho thấy hình thức sống đời tông đồ. Các đấng lập dòng luôn luôn quy chiếu vào đó để đáp trả tiếng gọi và để biện phân đoàn sủng cũng như sứ mạng của tu hội.

Việc chung nhau suy niệm Lời Chúa trong Kinh Thánh có một giá trị lớn. Tuỳ theo khả năng và hoàn cảnh của mỗi cộng đoàn, khi suy niệm Lời Thiên Chúa chung với nhau, các anh chị em vui sướng chia sẻ cho nhau những kho tàng kín múc từ Lời Thiên Chúa, nhờ đó họ cùng tiến lên và giúp nhau bước đi trong đời sống tâm linh. Cũng nên chia sẻ việc chung nhau suy niệm Lời Chúa cho những thành phần khác trong Dân Thiên Chúa, linh mục cũng như giáo dân. Điều này đưa tới việc thiết lập, tuỳ theo cách thức hợp với đoàn sủng, những trường dạy cầu nguyện, dạy linh đạo, và cách đọc và suy niệm Lời Chúa, trong đó “Thiên Chúa ngỏ lời với loài người như với bạn hữu” (x. Xh 33,11 ; Ga 15,14-15), đối thoại với họ (Br 3,88) để mời gọi và đón nhận họ hiệp thông với Người (233).

Suy niệm Lời Thiên Chúa và đặc biệt suy niệm các mầu nhiệm Đức Ki-tô, như truyền thống chỉ dạy chúng ta, dẫn tới chiêm niệm sâu thẳm và nhiệt tâm hoạt động tông đồ. Trong đời đan tu cũng như trong đời hoạt tu, luôn luôn những người nào biết cầu nguyện mới làm được những công việc lớn, bởi vì họ biết nhận ra đúng ý Thiên Chúa và đem ra thực hành. Nhờ năng tiếp xúc với Lời Thiên Chúa, họ được soi sáng để biện phân cho chính bản thân và cho cộng đoàn, để tìm ra đường lối của Chúa trong các dấu chỉ của thời đại. Nhờ có một thứ bản năng siêu nhiên, họ không rập theo não trạng thế tục, mà đổi mới tâm thần để “nhận ra đâu là ý Thiên Chúa : cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Thiên Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2).

Hiệp thông với Đức Ki-tô

  1. Để thực sự hiệp thông với Chúa, phụng vụ thánh hẳn là một phương tiện chính yếu, đặc biệt là việc cử hành Thánh lễ và Các giờ kinh phụng vụ. “Thật vậy, việc cử hành Thánh Thể chứa đựng tất cả của cải thiêng liêng của Giáo Hội, đó chính là Đức Ki-tô, lễ Vượt Qua của chúng ta, Người là Bánh hằng sống, ban sự sống cho nhân loại bằng chính Thịt của Người, Thịt đã được sống động nhờ Thánh Thần và làm cho người ta được sống” (234). Bí tích Thánh Thể là tâm điểm của đời sống Giáo Hội và cũng là tâm điểm của đời sống thánh hiến. Khi tuyên giữ những lời khuyên Phúc Âm, làm sao một người đã được kêu mời chọn Đức Ki-tô là Đấng duy nhất có thể đem lại ý nghĩa cho cuộc đời mình, lại không ao ước hiệp thông sâu xa với Người, nhờ tham gia mỗi ngày vào bí tích làm cho Người hiện diện, vào hy lễ làm cho tình yêu dâng hiến của Người trên đồi Gôn-gô-tha tái diễn, vào bữa tiệc nuôi dưỡng và nâng đỡ Dân Thiên Chúa suốt cuộc lữ hành ? Do tự bản chất, bí tích Thánh Thể là trung tâm đời sống thánh hiến của mỗi người và mỗi cộng đoàn. Đó là của ăn đường mỗi ngày và nguồn mạch linh đạo cho những cá nhân và các tu hội. Trong bí tích Thánh Thể, mỗi người tận hiến được mời gọi sống mầu nhiệm vượt qua của Đức Ki-tô, hợp nhất với Người trong cuộc hiến dâng mạng sống lên cho Chúa Cha nhờ Chúa Thánh Thần. Chuyên cần chiêm ngắm lâu dài Đức Ki-tô hiện diện trong Thánh Thể cho chúng ta được sống phần nào kinh nghiệm của thánh Phê-rô trong cuộc Biến Hình : “Chúng con ở đây thật là đẹp”. Và việc cử hành mầu nhiệm Mình và Máu Chúa củng cố và phát triển sự hiệp nhất và tình yêu thương của những người đã dâng hiến cho Thiên Chúa trót cả cuộc đời.

Cùng với bí tích Thánh Thể, và nối kết chặt chẽ với bí tích này, Các giờ kinh phụng vụ được cử hành hoặc chung hoặc riêng tuỳ bản chất của mỗi tu hội, trong sự hiệp thông vào lời cầu nguyện của Giáo Hội, diễn tả ơn gọi ca ngợi và chuyển cầu là đặc trưng của những người tận hiến.

Bí tích Thánh Thể cũng liên hệ chặt chẽ với quyết tâm hoán cải liên lỉ và nhu cầu được thanh luyện : đó là điều mà những người tận hiến thi hành trong bí tích Hoà Giải. Nhờ thường xuyên gặp gỡ Thiên Chúa khoan dung, những người tận hiến thanh tẩy và canh tân tâm trí và, nhờ khiêm tốn ý thức tội lỗi của mình, những tương quan của họ với Thiên Chúa trở nên trong sáng hơn : trên con đường cùng đi với anh chị em mình, kinh nghiệm hạnh phúc được tha thứ trong bí tích, khiến lòng họ trở nên ngoan ngoãn hơn và thúc giục họ tiến hơn trong lòng trung tín.

Để tiến trên con đường Tin Mừng, đặc biệt trong thời gian huấn luyện hay trong vài giai đoạn của cuộc sống, người ta được nâng đỡ nhiều, khi tin tưởng và khiêm tốn tìm đến việc linh hướng, nhờ đó con người được nâng đỡ để quảng đại đáp trả những thôi thúc của Thánh Thần và quyết tâm đạt tới sự thánh thiện.

Cuối cùng, tôi khích lệ mọi người tận hiến tuỳ theo truyền thống riêng của mình, hằng ngày hãy đổi mới việc kết hợp thiêng liêng với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, khi cùng với Mẹ ôn lại những mầu nhiệm của Con Mẹ, đặc biệt nhờ việc lần chuỗi Mân Côi.

III. VÀI LÃNH VỰC TRUYỀN GIÁO

Hiện diện trong môi trường giáo dục

  1. Giáo Hội vẫn luôn luôn xác tín rằng giáo dục là một yếu tố chính yếu trong sứ mạng của Giáo Hội. Thầy nội tâm là Chúa Thánh Thần, Đấng dò thấu những nơi thẳm sâu không thể đạt tới nhất trong lòng người, cũng là Đấng thấu suốt chuyển động thầm kín của lịch sử. Toàn thể Giáo Hội được Thánh Thần linh hoạt và cùng với Người chu toàn sứ vụ giáo dục.

Tuy vậy, trong lòng Giáo Hội, những người tận hiến giữ một vai trò đặc biệt, vì được mời đem vào môi trường giáo dục chứng tá triệt để về những của cải Nước Trời, được đề nghị cho hết mọi người trong khi chờ đợi gặp gỡ vĩnh viễn vị Chủ Tể của lịch sử. Nhờ ơn thánh hiến đặc biệt, nhờ kinh nghiệm đặc biệt về những ân huệ của Thánh Thần, nhờ việc chuyên cần lắng nghe Lời Chúa và thực hiện biện phân thiêng liêng, nhờ hưởng gia tài phong phú của những truyền thống giáo dục mà tu hội đã tích luỹ được với thời gian, nhờ hiểu biết uyên thâm về những chân lý thiêng liêng (x. Ep 1,17), những người tận hiến có khả năng tiến hành một công trình giáo dục đặc biệt hữu hiệu, đóng góp một cách chuyên biệt vào công trình mà những nhà giáo dục khác đã thực hiện.

Được trang bị vững chắc nhờ đoàn sủng như vậy, những người tận hiến có thể tạo ra những cơ cấu giáo dục thấm nhuần tinh thần tự do và bác ái Phúc Âm, nơi đây các thanh thiếu niên trẻ được giúp trưởng thành về mặt nhân bản dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần (235). Cộng đoàn giáo dục được trở thành một kinh nghiệm hiệp thông và một lãnh vực cho ân sủng, nơi đây dự phóng sư phạm liên kết hài hoà tôn giáo với nhân bản, Tin Mừng với văn hoá, đức tin với cuộc sống.

Lịch sử Giáo Hội xưa nay đầy dẫy những gương sáng tuyệt vời của những người tận hiến đã sống và đã nên thánh qua việc dấn thân vào công việc dạy dỗ, nêu lên sự thánh thiện như một mục tiêu của việc giáo dục. Thật vậy, rất nhiều vị đã đạt tới đức mến hoàn hảo qua công tác giáo dục. Đó là một trong những tặng phẩm quý hoá nhất mà những con người tận hiến có thể trao cho giới trẻ ngày nay, qua tác vụ giáo dục đầy yêu thương, theo như lời nhắn nhủ khôn ngoan của thánh Gio-an Bốt-cô : “Làm sao cho những người trẻ không những được yêu thương mà còn cảm nghiệm là họ được yêu thương” (236).

Cần phải canh tân việc dấn thân trong lãnh vực giáo dục

  1. Với thái độ vừa nhạy cảm tinh tế lại vừa táo bạo truyền giáo, những người tận hiến cần minh chứng rằng niềm tin vào Đức Giê-su Ki-tô soi sáng lãnh vực giáo dục, không những không coi nhẹ những giá trị nhân bản mà còn củng cố và thăng tiến chúng nữa. Những người tận hiến trở thành chứng nhân và khí cụ biểu dương quyền năng của Nhập Thể và sức mạnh của Thánh Thần. Hoạt động này là một trong những cách biểu hiện có ý nghĩa nhất tình mẫu tử mà Giáo Hội dành cho mọi con cái, theo gương Đức Ma-ri-a (237).

Vì vậy mà Thượng hội đồng khẩn khoản khuyến khích những người tận hiến hãy quyết tâm trở về với sứ mạng giáo dục, ở những nơi nào còn có thể làm được, trong những loại trường khác nhau, cho nhiều cấp lớp, các trường đại học và các viện cao học (238). Tôi hoàn toàn tán đồng chỉ thị của Thượng hội đồng, và tôi tha thiết khuyên những thành viên các tu hội có ơn gọi giáo dục, hãy trung thành với đoàn sủng tiên khởi và những truyền thống của họ, hãy ý thức rằng tình yêu dành ưu tiên cho người nghèo cũng được thể hiện cách riêng khi chọn lựa những phương tiện đặc biệt nhằm giải phóng con người khỏi hình thức tồi tệ của cảnh bần cùng, tức là thiếu đào tạo về văn hoá và tôn giáo.

Xét vì các đại học và phân khoa Công Giáo và Giáo Hội có một tầm quan trọng lớn trong lãnh vực giáo dục và loan báo Tin Mừng, nên các tu hội phụ trách các cơ sở đó phải ý thức trách nhiệm của mình, và phải làm sao cho các cơ chế đó, ngay trong cuộc đối thoại sôi nổi với nền văn hoá hiện đại, vẫn giữ được nét Công Giáo đặc thù, vẫn trung thành với giáo huấn của Hội Thánh. Hơn nữa, tuỳ theo hoàn cảnh, những thành viên của các dòng tu và của các tu đoàn cũng phải sẵn sàng gia nhập vào những cơ cấu giáo dục của Nhà Nước. Những thành viên của các tu hội đời, vì ơn gọi chuyên biệt của họ, được đặc biệt mời tham gia vào những cơ cấu đó.

Phúc Âm hoá nền văn hoá

  1. Các hội dòng tận hiến luôn có ảnh hưởng lớn trong việc hình thành và truyền đạt nền văn hoá. Vào thời Trung Cổ, các đan viện đã trở thành nơi tích trữ kho tàng văn hoá của quá khứ, và nơi phát triển nền văn hoá nhân bản và Ki-tô giáo. Điều này vẫn tái diễn mỗi khi ánh sáng Tin Mừng lan đến những dân tộc mới. Biết bao người tận hiến đã góp phần phát triển nền văn hoá, họ đã nghiên cứu và bảo vệ những nền văn hoá bản xứ. Ngày nay trong Giáo Hội, người ta đặc biệt cảm thấy nhu cầu tham gia vào việc thăng tiến các nền văn hoá, mở rộng cuộc đối thoại giữa văn hoá và đức tin.

Hẳn là những người tận hiến cảm thấy bị thôi thúc trước nhu cầu đó. Để loan báo Lời Thiên Chúa, những người tận hiến cũng được mời chọn những phương pháp thích hợp nhất với nhu cầu của các nhóm và của các môi trường nghiệp vụ khác nhau, ngõ hầu ánh sáng của Đức Ki-tô lọt được vào mọi lãnh vực đời sống con người và những mầm mống cứu độ biến đổi từ bên trong đời sống xã hội, phát huy sự hình thành một nền văn hoá thấm nhuần các giá trị Tin Mừng (240). Trước ngưỡng cửa thiên niên kỷ Ki-tô giáo thứ ba, đời thánh hiến cũng có thể dấn thân canh tân cách thực hiện ý Thiên Chúa, Đấng đến gặp gỡ hết mọi người đang dò dẫm đi tìm chân lý và sự sống (x. Cv 17,27), dù cách có ý thức hay vô thức.

Dù sao, ngoài việc giúp đỡ tha nhân, chính ngay trong đời sống thánh hiến cũng có nhu cầu canh tân sự miệt mài với sinh hoạt trí thức, bởi vì sự chuyên cần học tập là một phương thức giáo dục toàn diện con người và là một con đường khổ chế rất hiện đại, nhất là phải đối diện với những nền văn hoá đa dạng khác. Sự lơ là học tập có thể có những hậu quả trầm trọng ngay cả trên hoạt động tông đồ, đưa tới mặc cảm bị gạt ra lề và tự ti, hoặc đưa tới những sáng kiến nông cạn và hời hợt.

Dù vẫn tôn trọng tính đa dạng của các đoàn sủng và những khả năng thực thụ của các tu hội, sự quan tâm dành cho việc học tập không chỉ thu hẹp vào việc huấn luyện khởi đầu hay lãnh được những bằng cấp chuyên khoa và chuyên nghiệp. Quan tâm học hỏi biểu lộ lòng ao ước không bao giờ thoả, muốn hiểu biết sâu xa hơn nữa về Thiên Chúa, Đấng là ánh sáng thẳm sâu và là nguồn mạch mọi chân lý về con người. Quan tâm học hỏi không chỉ giản lược vào việc thu thập một mớ kiến thức trừu tượng, không được khép kín người tận hiến trong một vòng đai tự mãn ngột ngạt ; trái lại, quan tâm học hỏi cổ võ đối thoại và chia sẻ, phát huy óc phán đoán, thúc đẩy chiêm niệm và cầu nguyện, luôn luôn tìm kiếm Thiên Chúa và nhận ra hoạt động của Người ngay giữa thực tại phức tạp của thế giới đương thời.

Nhờ để cho Chúa Thánh Thần biến đổi, người tận hiến có khả năng nới rộng chân trời những ước muốn phàm trần hẹp hòi, và đồng thời cũng nắm bắt được những chiều sâu thẳm nơi mỗi cá nhân và nơi lịch sử, biết lướt qua những hình thức bên ngoài thường chỉ có nghĩa thứ yếu. Rất nhiều thách đố mọc lên trong những nền văn hoá khác nhau : vì vậy, cần phải duy trì sự trao đổi phong phú với những môi trường mới nẩy sinh, hay với những truyền thống quá quen thuộc của đời tận hiến, nhờ một óc phán đoán sắc sảo, tuy vẫn biết tin tưởng những người phải đối đầu với những khó khăn của công cuộc nghiên cứu trí thức, nhất là những lúc phải cố gắng phân tích và tổng hợp những vấn đề mới xuất hiện vào thời đại này (241). Người ta không thể loan báo Tin Mừng một cách nghiêm túc và đáng giá cho những môi trường mới hình thành và lưu truyền một nền văn hoá mới, nếu không có sự hợp tác tích cực của những giáo dân đang dấn thân trong những môi trường đó.

Hiện diện trong lãnh vực truyền thông xã hội

  1. Trong quá khứ, những người tận hiến đã biết đem mọi phương tiện có trong tay phục vụ việc loan báo Tin Mừng, đã biết khôn khéo ứng phó với những trở ngại, thì ngày nay, những người tận hiến cũng phải làm chứng cho Tin Mừng với những phương tiện truyền thông xã hội tân tiến. Nhờ những tiến bộ kỹ thuật đại tài, các phương tiện truyền thông có khả năng đạt tới tận những vùng xa xôi nhất trên mặt đất. Những người tận hiến, nhất là thuộc các tu hội có đặc sủng hoạt động trong lãnh vực này, lại càng phải đào luyện để hiểu biết vững vàng về ngôn ngữ đặc thù của các phương tiện truyền thông, để nói về Đức Ki-tô cách thuyết phục cho con người ngày nay, để diễn tả được “niềm vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay” (242) và để góp phần xây dựng một thế giới trong đó mọi người đều cảm nhận được họ là anh chị em với nhau, cùng đi trên con đường tiến đến Thiên Chúa.

Tuy vậy, cũng vẫn phải đề cao cảnh giác trước sự sử dụng lệch lạc những phương tiện truyền thông, nhất là vì khả năng thu hút phi thường. Không nên che dấu những vấn đề chúng đặt ra cho chính đời thánh hiến : thà nhìn thẳng vào vấn đề với óc phán đoán sáng suốt còn hơn (243). Lời giải đáp của Giáo Hội tiên vàn mang tính giáo dục : nó muốn giúp thấu đạt những lý luận ẩn tàng, và biết lượng giá tính chất luân lý của các chương trình, đồng thời cũng tạo cơ hội để luyện những tập quán tốt trong việc sử dụng chúng (244). Trong công tác giáo dục nhằm đào tạo những khán thính giả thành thạo và những chuyên viên về truyền thông, những người tận hiến được kêu mời làm chứng đặc biệt về tính cách tương đối của mọi thực tại thụ tạo. Nhờ vậy họ giúp anh chị em mình biết đánh giá các phương tiện truyền thông theo kế hoạch Thiên Chúa, và đồng thời không để cho mình bị ám ảnh bởi “bộ mặt thế gian này đang biến đi” (x. 1 Cr 7,31).

Phải khuyến khích mọi nỗ lực trong lãnh vực quan trọng và mới mẻ này để làm việc tông đồ, ngõ hầu Tin Mừng của Đức Ki-tô được loan báo bằng những phương tiện hiện đại. Các tu sĩ hãy sẵn sàng hợp tác bằng cách đầu tư sức lực, phương tiện và nhân sự, để thực hiện những dự án chung trong những lãnh vực khác nhau của truyền thông xã hội. Hơn nữa, những người tận hiến, và đặc biệt những thành viên của các tu hội đời, tuỳ theo nhu cầu mục vụ, nên nhiệt tình tham gia vào việc đào tạo về mặt tôn giáo cho những người phụ trách và nhân viên trong ngành truyền thông xã hội dù công hay tư. Nhờ vậy, sẽ vừa hạn chế được những tai hại do việc sử dụng lệch lạc những phương tiện truyền thông, vừa gia tăng phẩm chất các chương trình với nội dung biết tôn trọng luật lệ luân lý và giá trị nhân bản và Ki-tô giáo.

  1. DẤN THÂN ĐỐI THOẠI VỚI MỌI NGƯỜI

Phục vụ sự hiệp nhất các Ki-tô hữu

  1. Lời cầu của Đức Ki-tô trước cuộc thương khó, xin Chúa Cha cho các môn đệ được hiệp nhất (x. Ga 17,21-23), được tiếp nối trong lời cầu nguyện và hoạt động của Giáo Hội. Làm sao những người được kêu mời sống đời thánh hiến lại không cảm thấy có liên can đến điều đó ? Vết thương từ sự chia rẽ giữa các Ki-tô hữu và nhu cầu khẩn trương phải cầu nguyện và hoạt động cho sự hiệp nhất hết mọi Ki-tô hữu là điều được cảm nhận sâu sắc tại Thượng hội đồng. Cảm quan đại kết của những người tận hiến được tăng thêm khi biết rằng trong những Giáo Hội khác và những cộng đoàn Giáo Hội, đời sống đan tu đã và còn phát triển mạnh mẽ, như tại các Giáo Hội Đông Phương, hay việc tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm được phục hồi, như trong Giáo Hội Anh Quốc hay tại những cộng đoàn Cải cách.

Thượng hội đồng đã nêu lên mối liên hệ sâu xa giữa đời thánh hiến với công trình đại kết và sự cần thiết có một chứng tá rõ rệt hơn trong lãnh vực này. Bởi vì linh hồn của đại kết là cầu nguyện và hoán cải (245), nên chắc hẳn các hội dòng tận hiến và những tu đoàn tông đồ có bổn phận đặc biệt phải vun trồng việc dấn thân này. Điều cấp thiết là những người tận hiến phải dành nhiều chỗ hơn trong cuộc sống cho lời cầu nguyện đại kết và cho chứng tá chân thật về Tin Mừng, nhờ vậy với sức mạnh Chúa Thánh Thần, những bức tường chia rẽ và những thành kiến giữa các Ki-tô hữu sẽ được hạ xuống.

Các hình thức đối thoại đại kết

  1. Chia sẻ việc đọc và suy niệm lời Chúa – lectio divina – trên đường tìm chân lý, họp nhau cầu nguyện chung vì Chúa đã hứa hiện diện ở giữa những anh chị em họp lại với nhau (x. Mt 10,20), đối thoại trong tình thân hữu và bác ái giúp cảm nghiệm được anh em sống chung với nhau dịu ngọt dường nào (x. Tv 133 (132)), thân ái tiếp đón những anh chị em thuộc các hệ phái Ki-tô giáo, tìm hiểu và trao đổi ân huệ cho nhau, hợp tác trong những sáng kiến chung để phục vụ và để làm chứng : đó là một vài hình thức của việc đối thoại đại kết, đẹp lòng Cha chung, và là dấu chỉ của ý muốn cùng tiến tới sự hiệp nhất toàn hảo trên con đường dẫn đến chân lý và yêu thương (246). Đồng thời sự hiểu biết về lịch sử, về đạo lý, về phụng vụ, về công việc bác ái và tông đồ của các Ki-tô hữu khác chắc chắn sẽ giúp cho công cuộc đại kết ngày càng mang lại nhiều kết quả (247).

Tôi muốn khích lệ các tu hội, hoặc ngay từ nguyên thuỷ hoặc mới nhận được ơn gọi phát huy sự hiệp nhất Ki-tô hữu, tổ chức những chương trình học tập và hành động cụ thể trong chiều hướng đó. Thật ra thì không tu hội nào được cảm thấy mình được miễn hoạt động cho công trình đại kết. Hơn nữa tôi nghĩ đến Giáo Hội Công Giáo Đông Phương và mong rằng chính vì nơi đây đời đan tu nam nữ đang phát triển (đó là một hồng ân cứ phải khấn xin luôn mãi), mà các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương có thể đóng góp vào sự hiệp nhất với các Giáo Hội chính thống, nhờ đối thoại với lòng yêu thương, chia sẻ một linh đạo chung, di sản của Hội Thánh bất phân ly của thiên niên kỷ đầu tiên.

Tôi đặc biệt ký thác cho các đan viện chiêm niệm công trình đại kết thiêng liêng của cầu nguyện, của hoán cải trái tim, của tình bác ái. Nhằm mục đích này, tôi khích lệ họ hiện diện ở những nơi có nhiều cộng đoàn Ki-tô hữu có những danh xưng khác nhau, ngõ hầu việc họ hiến dâng trọn vẹn cho “một điều cần thiết duy nhất” (x. Lc 10,42) qua việc thờ phượng Thiên Chúa và chuyển cầu cho nhân loại được cứu độ, qua chứng tá đời sống Tin Mừng theo đoàn sủng riêng, họ thúc giục mọi người sống hiệp nhất theo hình ảnh Ba Ngôi Thiên Chúa, sự hiệp nhất mà Đức Giê-su đã muốn và đã cầu xin Chúa Cha cho tất cả môn đệ của Người.

Đối thoại giữa các tôn giáo

  1. Chính vì “đối thoại liên tôn là một phần sứ mạng loan báo Tin Mừng của Giáo Hội” (248) mà các hội dòng tận hiến không thể không dấn thân trong lãnh vực này, mỗi tu hội theo đoàn sủng của mình và theo hướng dẫn của giáo quyền. Hình thức đầu tiên loan báo Tin Mừng cho các anh chị em thuộc tôn giáo khác là chứng tá đơn sơ của một đời sống khó nghèo, khiêm nhu và khiết tịnh,thấmnhuần tình yêu huynh đệ dành cho mọi người. Đồng thời, tinh thần tự do, đặc điểm của đời thánh hiến, sẽ hỗ trợ cho “cuộc đối thoại từ cuộc sống” (249), khuôn mẫu điển hình của việc truyền giáo và việc loan báo Tin Mừng Đức Ki-tô. Để giúp hiểu nhau, tôn trọng lẫn nhau và yêu thương nhau hơn, các dòng tu có thể theo đuổi những hình thức đối thoại thích hợp, đượm tình thân ái và chân thành, với các đan sĩ của các tôn giáo khác.

Một lãnh vực khác nữa để cộng tác với những người thuộc những truyền thống tôn giáo khác nhau là sự cùng quan tâm đến đời sống con người, đi từ lòng thương cảm trước nỗi đau khổ của thân xác và linh hồn đến việc dấn thân vì công lý, hoà bình và bảo vệ môi sinh. Trong những lãnh vực này, các tu hội hoạt động sẽ tìm cách trao đổi với những thành viên các tôn giáo khác, qua “cuộc đối thoại của hoạt động” (250) mở đường cho một sự chia sẻ sâu xa hơn.

Việc phục hồi và thăng tiến phẩm giá người phụ nữ cũng là một lãnh vực đặc biệt để những người thuộc những truyền thống tôn giáo khác nhau có cơ hội chung nhau hoạt động. Để đạt tới cái nhìn bình đẳng và hỗ tương chính đáng giữa người nam và người nữ, những phụ nữ tận hiến có thể mang lại những đóng góp đáng giá (251).

Dù trong lãnh vực nào, những ai dấn thân vào cuộc đối thoại liên tôn phải được chuẩn bị thích hợp trong thời gian huấn luyện khởi đầu và thường huấn, cũng như trong việc học tập và nghiên cứu (252), vì đây là một lãnh vực khá phức tạp, đòi hỏi một sự hiểu biết sâu xa về Ki-tô giáo và các tôn giáo khác, đồng thời cũng cần có một niềm tin vững chắc và một sự trưởng thành về mặt thiêng liêng và nhân bản.

Một giải đáp tâm linh cho những ai tìm kiếm điều linh thiêng và những ai hoài niệm Thiên Chúa

  1. Tất cả những ai đã ôm ấp đời sống thánh hiến thì, tự bản chất của lựa chọn đó, đều trở thành những tác nhân ưu tiên trong việc tìm kiếm Thiên Chúa, một điều mà lòng người từ bao đời vẫn khát khao và dẫn con người tới biết bao con đường khổ hạnh và tu đức. Ngày nay, tại nhiều nơi, việc tìm kiếm Thiên Chúa nổi lên như một lời giải đáp hùng hồn cho những nền văn hoá nào nếu chưa phủ định thì ít nhất cũng đã gạt chiều kích tôn giáo ra ngoài cuộc sống.

Khi sống kiên trung và trọn vẹn những điều đã tự do cam kết, những người tận hiến có thể đưa ra những lời giải đáp cho những chờ mong của con người đương thời, và tránh cho họ đi tìm những giải pháp hầu như hoang tưởng và thường phủ nhận sự Nhập Thể cứu chuộc của Đức Ki-tô (x. 1 Ga 4,2-3) như các giáo phái bày vẽ ra cho họ. Khi thực hành khổ chế cá nhân và cộng đoàn, giúp thanh luyện và biến đổi toàn thể cuộc sống, những người tận hiến làm chứng về những điều kiện để tìm Thiên Chúa một cách chân thực, ngược hẳn với cám dỗ chỉ tìm bản ngã và cảm khoái. Những người tận hiến cũng nhắc nhở đừng đồng hoá việc tìm Thiên Chúa với việc đi tìm chính mình hoặc trốn vào ý tưởng cao siêu. Mỗi người tận hiến phải hình thành con người nội tâm, không tìm thoát ra ngoài lịch sử và cũng không thu lại chính mình. Khi chăm chú lắng nghe và tuân theo Lời Chúa được Hội Thánh bảo vệ và giải thích, người tận hiến cho thấy nơi Đức Ki-tô mà họ yêu mến trên hết mọi sự, và nơi mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa, điều mà lòng người mong ước sâu xa nhất đã được đáp ứng, và mọi cuộc hành trình tôn giáo chân thành hướng về cõi siêu việt đã tìm được đích điểm.

Vì vậy, những người tận hiến có bổn phận quảng đại đón tiếp và đồng hành thiêng liêng với những ai đến tìm họ, vì được thúc đẩy do lòng khao khát Thiên Chúa và ước ao sống những đòi hỏi của lòng tin (253).

KẾT LUẬN

Quảng đại cho đi không tính toán

  1. Ngày nay có nhiều người thắc mắc tự hỏi : đời tận hiến có ý nghĩa gì ? Tại sao lại chọn đời sống đó đang khi có biết bao nhu cầu cấp bách trong lãnh vực bác ái và cả trong việc loan báo Tin Mừng nữa, có thể đáp ứng được mà không cần phải chấp nhận những cam kết đặc biệt của đời thánh hiến ? Đời thánh hiến lại chẳng phải là một cách “phung phí” những năng lực có thể sử dụng có hiệu năng cao hơn, có lợi hơn cho nhân loại và cho Giáo Hội đó sao ?

Những câu hỏi đó được đặt ra thường xuyên hơn ở thời đại chúng ta, do ảnh hưởng một nền văn hoá thực dụng và trọng kỹ thuật, chỉ muốn đánh giá tầm quan trọng của sự vật và cả con người nữa trong mức độ “hữu ích” tức thời. Nhưng những câu hỏi đó vẫn có từ lâu rồi, như trong đoạn văn nói về việc xức dầu tại Bê-ta-ni-a trong Tin Mừng : “Cô Ma-ri-a lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất và quý giá xức chân Đức Giê-su, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà sực mùi thơm” (Ga 12,3). Khi Giu-đa cằn nhằn vì sự phung phí đó, lấy cớ là phải lo cho người nghèo, thì Đức Giê-su nói : “Hãy để cô ấy yên” (Ga 12,7).

Đó là câu trả lời luôn luôn có giá trị cho những ai đặt câu hỏi, cho dù là ngay tình, về ích lợi của đời tận hiến. Tại sao lại không thể dấn thân cách hữu hiệu và hợp lý hơn cho công cuộc cải tiến xã hội ? Và đây là câu trả lời của Chúa Giê-su : “Hãy để họ yên”.

Ai đã được ban hồng ân vô giá là theo Chúa Giê-su sát hơn tất nhiên hiểu rằng Người phải được yêu mến với một trái tim không chia sẻ, và mình phải dâng hiến cho Người tất cả cuộc sống chứ không phải chỉ vài cử chỉ, vài mảnh thời gian hay vài công việc. Xức dầu thơm quý giá là một hành động yêu thương nguyên tuyền, hoàn toàn ngoài mục đích cầu lợi, là dấu chỉ của sự quảng đại cho đi không tính toán ; điều này được diễn tả qua một cuộc sống dành riêng để yêu mến và phụng sự Chúa, dâng hiến cho chính Chúa và cho Nhiệm Thể của Người. Một cuộc sống “được cho đi” mà không tính toán khiến cho cả nhà sực mùi thơm. Ngày hôm nay, không thua kém gì ngày hôm qua, nhà Thiên Chúa là Giáo Hội vẫn được trang điểm và thêm phong phú nhờ sự hiện diện của đời thánh hiến.

Đối với người được thu hút trong thâm tâm cõi lòng bởi vẻ đẹp và lòng nhân hậu của Chúa, thì điều mà mắt người đời coi là phung phí lại là một cách đáp trả tất nhiên cho một mối tình, một niềm tri ân phấn khởi vì được chọn một cách đặc biệt để được biết Chúa Con và được chia sẻ sứ mạng của Người trong thế giới.

“Giả như một người con cái Thiên Chúa được biết và nếm tình yêu Thiên Chúa, Thiên Chúa tự hữu, Thiên Chúa nhập thể, Thiên Chúa chịu thương khó, Thiên Chúa là sự thiện tối hậu, ắt là người đó sẽ hoàn toàn dâng trót mình cho Người, không những người đó rút ra khỏi mọi tạo vật khác, mà còn rút ra khỏi chính mình nữa, để yêu mến Thiên Chúa Tình Yêu với tất cả hữu thể của mình, để được biến đổi hoàn toàn trong Thiên-Chúa-làm-người, Đấng đáng được yêu mến trên hết mọi sự” (254).

Đời thánh hiến phục vụ Nước Thiên Chúa

  1. “Thế giới sẽ ra sao nếu không có các tu sĩ ?” (255) Ngoài những cách đánh giá nông cạn về chức năng hữu ích cho đời, đời sống thánh hiến còn quan trọng chính bởi vì nó quảng đại cho đi không tính toán và với tình yêu, và điều này lại càng cần thiết ở giữa một thế giới có nguy cơ chết ngộp trong cơn lốc của cải phù du. “Không có dấu chỉ cụ thể đó, thì đức ái của toàn thể Giáo Hội có nguy cơ nguôi lạnh đi, nét nghịch lý của ơn cứu độ theo Tin Mừng không còn sắc bén, chất muối mặn của đức tin sẽ phai lạt trong một thế giới đang bị tục hoá” (256). Đời sống của Giáo Hội, và của cả xã hội nữa, đang cần những người dám dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa và cho tha nhân vì lòng mến Thiên Chúa.

Giáo Hội không thể nào từ bỏ đời thánh hiến được, bởi vì nó biểu hiện cách hùng hồn bản chất “hiền thê” thâm sâu của Giáo Hội. Nhờ đời sống thánh hiến, mà việc loan báo Tin Mừng cho thế giới có thêm nhiệt tình và nghị lực. Đúng vậy, người ta cần đến những con người giới thiệu gương mặt người cha là Thiên Chúa và gương mặt người mẹ là Giáo Hội, những con người dám liều cuộc sống mình để cho người khác nhận được sự sống và niềm hy vọng. Trong Giáo Hội, cần có những con người được ơn Thiên Chúa biến đổi và được Phúc Âm hoá trọn vẹn, trước khi họ dấn thân phục vụ một lý tưởng cao đẹp này nọ.

Toàn thể Giáo Hội đã lãnh nhận hồng ân cao quý đó, và với lòng tri ân, Giáo Hội làm mọi cách để kính cẩn phát huy hồng ân đó, bằng lời cầu nguyện và bằng cách lớn tiếng mời gọi đón nhận ơn đó. Các giám mục, linh mục và phó tế, xác tín về sự cao cả Phúc Âm của đời thánh hiến, cần phải khám phá và nâng đỡ những mầm ơn gọi qua lời giáo huấn, bằng cách nhận định và bằng sự đồng hành thiêng liêng khôn ngoan. Tất cả các tín hữu được kêu mời không ngừng cầu nguyện cho những người tận hiến, để họ gia tăng lòng sốt sắng và khả năng yêu thương, và góp phần làm toả lan hương thơm Đức Ki-tô trong xã hội này (x. 2 Cr 2,15). Toàn thể cộng đoàn Ki-tô hữu – các mục tử, giáo dân và người tận hiến – đều có trách nhiệm về đời thánh hiến, về sự tiếp nhận và nâng đỡ những ơn gọi mới (257).

Với giới trẻ

  1. Tôi nói với các bạn trẻ là : nếu các con nghe được tiếng Chúa gọi, thì đừng đẩy lui ! Hãy can đảm tham gia những trào lưu nên thánh mà các bậc đại thánh, nam và nữ, đã khơi dậy theo chân Đức Ki-tô. Hãy nuôi dưỡng nơi các con những khát vọng đặc biệt của tuổi trẻ, nhưng đừng trì hoãn thực hiện ý định của Thiên Chúa nếu Người mời gọi các con nên thánh trong đời thánh hiến. Hãy thán phục mọi kỳ công Thiên Chúa làm trong thế giới, nhưng hãy biết ngắm nhìn những thực tại không bao giờ qua đi.

Thiên niên kỷ thứ ba đang mong chờ sự đóng góp của lòng tin và óc sáng tạo của nhiều người trẻ tận hiến, để cho thế giới sống an bình hơn và có khả năng tiếp đón Thiên Chúa, và trong Thiên Chúa, biết tiếp đón mọi con cái của Người.

Với các gia đình

  1. Tôi ngỏ lời với các gia đình Công Giáo. Hỡi các bậc cha mẹ, hãy tạ ơn Chúa nếu Người đã kêu gọi một người con của quý vị vào sống đời thánh hiến. Cũng như xưa, hãy cảm thấy vinh dự vì Thiên Chúa đã đoái nhìn một gia đình và chọn một thành viên để mời đi con đường các lời khuyên Phúc Âm. Hãy nuôi dưỡng ước mong dâng cho Chúa một người con của quý vị để tình yêu Thiên Chúa lớn lên trong thế giới. Còn hoa trái nào của tình yêu vợ chồng tốt đẹp hơn nữa không ?

Cũng nên nhắc lại rằng, nếu cha mẹ không sống những giá trị Tin Mừng, thì người thanh niên thiếu nữ rất khó nhận ra tiếng Thiên Chúa gọi, khó hiểu được là cần phải chấp nhận những hy sinh hoặc khó có thể thưởng thức vẻ đẹp của mục đích phải đạt tới. Vì chính trong gia đình mà những người trẻ lần đầu tiên kinh nghiệm được những giá trị Tin Mừng, tình yêu dành cho Thiên Chúa và cho tha nhân. Những người trẻ cần được huấn luyện để sử dụng tự do có trách nhiệm, để có thể sẵn sàng sống những giá trị thiêng liêng cao thượng, thể theo ơn gọi của họ.

Tôi cầu nguyện cho các gia đình Ki-tô giáo, nhờ kết hiệp với Chúa bằng cầu nguyện và năng đón nhận các bí tích, trở thành những trung tâm đón nhận các ơn gọi.

Với những người nam nữ thiện chí

  1. Tôi muốn ngỏ lời với mọi người nam nữ thiện chí : xin hãy đi tìm những con đường dẫn đến Thiên Chúa hằng sống và chân thật, cách riêng là con đường do đời thánh hiến vạch ra. Những người tận hiến làm chứng rằng : “Ai theo Chúa Ki-tô, Con Người hoàn hảo, kẻ ấy sẽ được trở nên người hơn” (258). Biết bao người tận hiến đã và đang cúi mình săn sóc vô vàn vết thương của anh chị em gặp thấy trên đường đi của họ, tựa như những người Sa-ma-ri nhân hậu !

Hãy nhìn vào những con người đã được Đức Ki-tô chiếm đoạt. Bằng việc chế ngự bản thân nhờ ơn Chúa giúp và do lòng mến yêu Thiên Chúa, họ giới thiệu liều thuốc chữa lành lòng tham muốn chiếm đoạt, hưởng thụ, thống trị. Đừng quên những đặc sủng đã hình thành những con người tuyệt diệu “đi tìm Thiên Chúa” và những ân nhân của nhân loại, các vị đó mở những lối đi an toàn cho những ai đi tìm Thiên Chúa với lòng thành. Hãy xem con số đông đảo các vị thánh triển nở trong nếp sống đó, hãy nhận ra bao điều tốt lành những người tận hiến cho Thiên Chúa thực hiện được, trong quá khứ và trong hiện tại. Thế giới ngày nay chẳng cần những chứng nhân vui tươi, những ngôn sứ minh chứng quyền năng nhân lành của tình yêu Thiên Chúa hay sao ? Thế giới chẳng cần những người nam nữ biết gieo mầm mống hoà bình và huynh đệ bằng cuộc sống và hoạt động của họ hay sao ? (259)

Với những người tận hiến

  1. Ở cuối tông huấn này, tôi tin tưởng ngỏ lời cách riêng với những người nam nữ tận hiến : Các con hãy sống trọn cuộc hiến dâng cho Thiên Chúa, để cho thế giới này đừng mất đi một tia sáng chiếu ngời vẻ đẹp của Thiên Chúa trên đường đời của nhân loại. Những Ki-tô hữu, chìm ngập trong những bận rộn và lo âu của thế gian này nhưng vẫn được mời gọi nên thánh, đang cần thấy được nơi các con những trái tim thanh khiết đang “nhìn thấy” Thiên Chúa trong đức tin, những con người ngoan ngoãn để Thánh Thần hướng dẫn, vui vẻ tiến bước, trung thành với đặc sủng của ơn gọi và sứ mạng của mình.

Các con đã bước vào con đường hoán cải trường kỳ, con đường trao hiến dành riêng cho tình yêu Thiên Chúa và anh chị em, để luôn làm chứng cách tuyệt đẹp về ân sủng đang biến đổi cuộc đời Ki-tô hữu. Thế giới và Giáo Hội đang đi tìm những chứng nhân chân chính về Đức Ki-tô, và đời thánh hiến là một hồng ân Thiên Chúa ban ngõ hầu “điều cần thiết duy nhất” (x. Lc 10,42) được tỏ hiện trước mắt mọi người. Trong Giáo Hội và trong thế giới, đời thánh hiến có sứ mạng đặc biệt là làm chứng cho Đức Ki-tô bằng cuộc sống, bằng việc làm và lời nói.

Các con đã biết các con đặt trót niềm tin vào ai (x. 2 Tm 1,12) : hãy cho Người tất cả ! Những người trẻ không bị lừa đâu. Khi đến với các con, họ muốn thấy điều họ không thấy được nơi khác. Các con có một trách nhiệm lớn đối với tương lai : đặc biệt những người tận hiến trẻ tuổi, nhờ chứng tá bằng sự dâng hiến của mình, có thể giúp người đương thời canh tân cuộc sống của họ (260). Tình yêu nồng nàn dành cho Đức Giê-su Ki-tô có sức lôi cuốn mạnh mẽ những người trẻ khác, mà Người vẫn có nhã ý kêu mời bước theo Người thật sát và mãi mãi. Những người thời đại này muốn thấy được nơi những người tận hiến niềm vui họ cảm nhận được khi ở với Chúa.

Hỡi những người tận hiến, dù già hay trẻ, hãy sống trung thành với điều đã cam kết với Thiên Chúa, bằng cách làm gương sáng cho nhau, nâng đỡ nhau. Dù đôi khi các con gặp nhiều khó khăn hay dù tại vài nơi đời thánh hiến không còn được kính trọng đi nữa, các con có phận sự mời gọi những người thời đại này hãy ngước nhìn lên cao, đừng để mình bị ngụp lặn trong công chuyện hàng ngày, nhưng hãy để cho Thiên Chúa và Tin Mừng của Con Thiên Chúa thu hút. Đừng bao giờ quên rằng, các con là những người một cách đặc biệt có thể và phải nói rằng không những các con thuộc về Đức Ki-tô, mà các con “đã trở nên Đức Ki-tô” nữa (261).

Nhìn về tương lai

  1. Các con không những phải nhớ và kể lại một lịch sử huy hoàng, mà còn phải kiến tạo một lịch sử vĩ đại nữa ! Hãy hướng về tương lai, tới chỗ mà Thánh Thần đang sai các con đi để cùng với các con làm những việc trọng đại.

Hỡi những người tận hiến yêu quý, các con hãy biến cuộc đời thành cuộc sốt sắng trông đợi Đức Ki-tô ; hãy đi đón Người như những trinh nữ khôn ngoan đi đón Lang Quân. Hãy sẵn sàng luôn luôn, hãy trung thành với Đức Ki-tô, với Giáo Hội, với tu hội của mình và với con người thời đại này (262). Nhờ thế, ngày qua ngày, các con sẽ được Đức Ki-tô đổi mới, và nhờ Thánh Thần trợ giúp, các con sẽ kiến tạo những cộng đoàn huynh đệ, để cùng với Đức Ki-tô, rửa chân cho người nghèo, và đóng góp phần độc đáo của các con vào sự biến hình của thế giới.

Vào lúc bước sang một thiên niên kỷ mới, mong sao cho thế giới đã được trao vào tay con người sẽ luôn được nhân đạo hơn, công bằng hơn, trở nên dấu chỉ và hình ảnh báo trước thế giới sắp đến, trong đó Thiên Chúa khiêm hạ và vinh hiển, khó nghèo và được siêu tôn, sẽ trở thành niềm hoan lạc sung mãn và trường tồn cho chúng ta, cho anh chị em chúng ta, cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.

Lời khấn cầu Ba Ngôi

  1. Lạy Ba Ngôi chí thánh diễm phúc và là nguồn hạnh phúc của mọi người, xin đổ tràn hạnh phúc xuống con cái của Chúa, mà Chúa đã chọn lựa để tuyên xưng tình yêu cao cả, lòng nhân hậu xót thương và vẻ đẹp của Chúa.

Lạy Chúa Cha chí thánh, xin hãy thánh hiến các con cái đã tận hiến cho Cha, để làm vinh danh Cha. Bởi quyền năng của Cha, xin nâng đỡ họ để họ có thể làm chứng cho Cha là nguồn của mọi sự, suối nguồn độc nhất của tình yêu và tự do. Chúng con cảm tạ Cha vì hồng ân của đời thánh hiến, đời của những kẻ trong đức tin, tìm kiếm Cha, và trong sứ mạng phổ quát của mình, mời gọi toàn thể nhân loại tiến đến với Cha.

Lạy Chúa Giê-su Cứu Thế, Ngôi Lời nhập thể, Chúa đã ký thác lối sống của Chúa cho những ai được Chúa mời gọi, xin tiếp tục lôi kéo tới Chúa những người sẽ đóng vai trò làm người phân phát lòng thương xót cho con người thời đại chúng con, tiên báo ngày Chúa trở lại, làm dấu chỉ sống động những phúc lợi của sự phục sinh mai sau. Xin đừng để thử thách nào khiến họ xa lìa Chúa và tình yêu của Chúa !

Lạy Chúa Thánh Thần là Tình Yêu đổ xuống tâm hồn chúng con. Chúa là Đấng ban ơn sủng và thần hứng cho các linh hồn, là suối nước hằng sống giúp hoàn thành sứ mạng của Chúa Ki-tô bằng nhiều đặc sủng, chúng con cầu khẩn Chúa cho mọi người tận hiến. Xin đổ đầy tâm hồn họ niềm thâm tín mình đã được chọn để yêu mến, ca ngợi và phục vụ. Xin cho họ nếm hưởng tình bạn với Chúa, được tràn ngập niềm vui của Chúa và được Chúa an ủi. Xin giúp họ vượt qua được những lúc khó khăn và tin tưởng chỗi dậy sau khi sa ngã. Xin cho họ trở nên tấm gương phản chiếu vẻ đẹp thần linh của Chúa. Xin cho họ can đảm đương đầu với những thách đố của thời đại này và biết tỏ cho mọi người thấy lòng nhân hậu và lân ái của Chúa Giê-su Cứu Thế (x. Tt 3,4).

Khẩn cầu Đức Trinh Nữ Ma-ri-a

  1. Lạy Đức Ma-ri-a, là hình ảnh của Giáo Hội, là Hiền Thê không vết nhăn và không tì ố, khi noi gương Mẹ “bảo tồn cho tinh tuyền một đức tin toàn vẹn, một đức cậy vững bền và một đức mến chân thành” (263), xin nâng đỡ những người tận hiến trên con đường hướng tới chân phúc độc nhất và vĩnh cửu.

Lạy Nữ Trinh Thăm Viếng, chúng con trao phó họ cho Mẹ để họ biết mau mắn tìm gặp những người lâm cảnh khốn cùng để mang lại sự trợ giúp và nhất là để mang Chúa Giê-su đến. Xin Mẹ dạy họ biết công bố những kỳ công Thiên Chúa đang thực hiện trong thế giới ngõ hầu muôn dân đều ca ngợi danh Người. Xin nâng đỡ họ trong những công tác phục vụ người nghèo khó, kẻ đói ăn, người thất vọng, kẻ hèn mọn và hết mọi người đang thành tâm tìm kiếm Con của Mẹ.

Lạy Mẹ, Mẹ muốn con cái của Mẹ đổi mới đời sống tâm linh và hoạt động tông đồ, bằng lời đáp yêu thương và tận hiến cho Chúa Ki-tô, chúng con tin tưởng dâng lên Mẹ lời nguyện cầu. Xưa Mẹ đã thi hành ý Chúa Cha, đã mau mắn khi vâng phục, can đảm khi khó nghèo, tiếp nhận trong sự trinh khiết phong phú của Mẹ, hãy xin Con chí thánh của Mẹ ban cho những kẻ nhận được hồng ân đi theo Người trong đời thánh hiến, biết làm chứng cho Người bằng một cuộc sống được biến hình, bằng cách vui vẻ tiến lên, cùng với mọi anh chị em, tới quê hương thiên quốc và tới ánh sáng không bao giờ tàn lụi.

Chúng con xin Mẹ điều đó để Thiên Chúa cao cả, là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, được tôn vinh chúc tụng và yêu mến trong mọi người và trong mọi sự.

Rô-ma, cạnh đền thánh Phê-rô, ngày 25 tháng 3 năm 1996, lễ Truyền Tin,

năm thứ mười tám tôi làm Giáo hoàng.

Gio-an Phao-lô II

Phần Chú Thích

(1) X. Kiến Nghị 2.
(2) TG s. 18.
(3) X. GH số 44 ; CT số 7 ; LB s. 69.
(4) X. GH số 44.
(5) X. Đức Gio-an Phao-lô II, diễn từ cho buổi tiếp kiến chung (28-9-1994), s. 5.
(6) X. Kiến Nghị 1.
(7) X. Thánh Phan-xi-cô Sa-lê, Introduction à la vie dévote (Dẫn nhập vào đời sống sùng kính), phần I, chương 3.
(8) GH s. 43.
(9) X. Đức Gio-an Phao-lô II, bài giảng trong thánh lễ đồng tế trọng thể kết thúc đại hội thường lệ lần thứ IX của Thượng hội đồng giám mục (29-10-1994), s. 3.
(10) X. Thượng hội đồng giám mục, đại hội thường lệ lần thứ IX, sứ điệp kết thúc (27-10-1994).
(11) X. Kiến Nghị 5, B.
(12) X. Thánh Biển Đức, Règle (Quy luật) 4,21 và 72,11.
(13) X. Kiến Nghị 12.
(14) X. GLĐP điều 570.
(15) DT s. 7 ; TG s. 40.
(16) X. Kiến Nghị 6.
(17) X. Kiến Nghị 4.
(18) X. Kiến Nghị 7.
(19) X. Kiến Nghị 11.
(20) X. Kiến Nghị 14.
(21) X. GL điều 605 ; GLĐP điều 571 ; X. Kiến Nghị 13.
(22) X. Kiến Nghị 3 ; 4 ; 6 ; 7 ; 8 ; 10 ; 13 ; 28 ; 29 ; 30 ; 35 ; 48.
(23) X. Kiến Nghị 3, A và B.
(24) X. Kiến Nghị 3, C.
(25) X. Cassien : “Secessit tamen solus in monte orare, per hoc scilicet nos instruens sua secessionis exemplo […] ut similiter secedamus” – “Người một mình tới chỗ thanh vắng trên núi để cầu nguyện, Người làm gương đi tới chỗ thanh vắng cho chúng ta để chúng ta cũng đi đến chỗ thanh vắng” (Collat 10,6 : SC 54, tr. 80-81) ; Thánh Giê-rô-ni-mô : “Et Christum quaeras in solitudine et ores solus in monte cum Jesu” – “Hãy tìm Đức Giê-su nơi thanh vắng và hãy một mình cầu nguyện với Người trên núi” (Ep. ad Paulinum 58,4,2 ; PL 22, 582) ; Guillaume de Saint-Thierry : “[Vita solitaria] ab ipso Domino familiarissime celebrata, ab eius discipulis ipso praesente concupita : cuius transfigurationis gloriam cum vidissent qui cum eo in monte sancto erant, continuo Petrus … optimum sibi indicavit in hoc semper esse” – “Chúa đã thực hành rất thường xuyên [đời sống cô tịch], và các môn đệ Người cũng ước muốn [đời sống ấy] ngay cả khi có mặt Người ; những ai ở cùng với Người trên núi thánh đã được thấy vinh quang của Người khi Người biến hình. Phê-rô liền nghĩ rằng … tốt nhất là ông nên luôn luôn ở với Người tại đó” (Ad fratres de Monte Dei 11-12 : SC 223, tr. 150-153).
(26) GH s. 1.
(27) GH s. 44.
(28) X. YT s. 5 :
(29) X. Tổng luận thần học II-II, q. 186,1.1.
(30) X. Kiến Nghị 16.
(31) X. HA s. 3.
(32) Thánh Phan-xi-cô Át-xi-di, Regula bullata, ch I,1.
(33) Tota Trinitas apparuit : Pater in voce, Filius in homine, Spiritus in nube clara – “Cả Ba Ngôi xuất hiện, Chúa Cha trong tiếng nói, Chúa Con trong con người, Chúa Thánh Thần trong đám mây sáng rực” : Thánh Tô-ma A-qui-nô, Tổng luận thần học III, q.45, a.4, ad 2.
(34) DT s. 1.
(35) GH s. 44.
(36) Si-mê-on nhà thần học mới, Hymnes (Thánh Ca), II, cc. 19-27.
(37) X. Đức Gio-an Phao-lô II, diễn từ cho buổi tiếp kiến chung (28-9-1994), s. 4.
(38) GH s. 44.
(39) Thánh I-nha-xi-ô An-ti-ô-khi-a, Thư gửi tín hữu Ma-nhê-xi-a 8.2.
(40) X. Kiến nghị 3.
(41) Thánh Âu-tinh, Diễn giải Tv 44,3 : PL 36,495-496.
(42) X. Kiến Nghị 25 ; DT s. 17.
(43) X. Kiến Nghị 25.
(44) X. GH s. 42.
(45) GH s. 44.
(46) B. Élisabeth de la Trinité, Le ciel dans la foi, Traité spirituel 1,14.
(47) X. Thánh Âu-tinh, Confessions 1,1.
(48) Đức Gio-an Phao-lô II, diễn từ cho buổi tiếp kiến chung (29-3-1995), s.1.
(49) GH s. 53.
(50) GH s. 46.
(51) X. Kiến Nghị 55.
(52) GH s. 44.
(53) X. HA s. 7.
(54) GH s. 44 ; Đức Gio-an Phao-lô II, diễn từ cho buổi tiếp kiến chung (26-10-1994), s. 5.
(55) X. GH s. 42.
(56) X. Sách Nghi thức Rô-ma, Nghi thức tuyên khấn : Kinh chúc phúc hay thánh hiến, của nam tu, s. 67, và của nữ tu, s. 72 ; Sách Nghi thức giáo chủ Rô-ma, Nghi thức thánh hiến các trinh nữ, s. 38 : lời nguyện thánh hiến trọng thể : Eucologion sive Rituale Graecorum, Officium parvi habitum id est Mandiae tr. 384-385 ; Pontificale iuxta Ritum Ecclesiae Syrorum occidentalium id est Antiochiae, Ordo rituum monasticorum, Typis Polyglottis Vaticanis (1942), tr. 307-309.
(57) X. Thánh Phê-rô Đa-miêng, Liber qui appelatur “Dominus vobiscum” ad Leonem eremitam : PL 145,231-252.
(58) GH s. 32 ; GL điều 208 ; GLĐP điều 11.
(59) X. TG s. 4 ; GH s. 4 ; 12 ; 13 ; MV s.32 ; TĐ s.3 ; Đức Gio-an Phao-lô II, tông huấn sau THĐ-GM Christifideles laici (30-12-1988), ss. 20-21 ; Bộ giáo lý đức tin, thư gửi các giám mục Giáo Hội Công Giáo về một vài khía cạnh của Giáo Hội xét như là sự hiệp thông, Communionis notio (28-5-1992), s. 15.
(60) GH s. 31.
(61) GH s. 12 ; Đức Gio-an Phao-lô II, tông huấn hậu THĐ-GM Christifideles laici (30-12-1988), s. 20-21.
(62) X. GH s. 5.
(63) X. Công Đồng Tren-tô, khoá XXIV, can. 10 : Dz.Sch 1810 : Đức Pi-ô XII, thông điệp Sacra Virginitas (25-3-1954).
(64) X. Kiến Nghị 17.
(65) GH s. 41.
(66) X. GH s. 46.
(67) Ibid.
(68) X. Đức Pi-ô XII, Tự sắc Primo feliciter (12-3-1948), s. 6.
(69) GL, điều 713, §1 ; GLĐP, điều 563, §2.
(70) GL, điều 713, §2. Cũng trong điều 713, ở §3, có một chỉ dẫn đặc biệt cho các “giáo sĩ thành viên” của các tu hội đời.
(71) GH s. 31.
(72) Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su, Manuscrits autobiographiques (Thủ bản tự thuật), B, 2 v : “Làm hôn thê của Chúa, Ôi Giê-su […] nhờ con kết hợp với Chúa, mà làm mẹ các linh hồn.”
(73) X. DT ss. 8 ; 10 ; 12.
(74) Thượng hội đồng giám mục, đại hội bất thường lần thứ II, Báo cáo chung kết : Ecclesia sub Verbo Dei mysteria Christi celebrans pro salute mundi (7-12-1985), II A, s. 4.
(75) Thượng hội đồng giám mục, đại hội thường lệ lần thứ IX, Sứ điệp kết thúc (27-10-1994), VII.
(76) X. Thánh Tô-ma A-qui-nô, Tổng luận thần học II-II, q. 184, a.5, ad 2 ; II-II, q.186, a.2, ad 1.
(77) X. Libellus de pricipiis Ordinis Praedicatorum. Acta Canonizationis Sancti Dominici : Monumenta Ordinis Praedicatorum historica 16 (1935), tr. 30.
(78) Đức Gio-an Phao-lô II, tông thư Orientale Lumen (2-5-1995), s. 12.
(79) LH s. 51.
(80) X. Kiến Nghị 26.
(81) X. Kiến Nghị 27.
(82) X. DT, s. 2.
(83) Đức Gio-an Phao-lô II, tông thư Orientale Lumen (2-5-1995), s. 16.
(84) Đức Gio-an Phao-lô II, tông thư Tertio Millennio Adveniente (10-11-1994), s. 42.
(85) LB s. 69.
(86) DT s. 15 ; thánh Âu-tinh, Regula ad servos Dei, 1, 1.
(87) Thánh Xýp-ri-a-nô, De Oratione Dominica, 23. X. GH s. 4.
(88) X. Kiến Nghị 20.
(89) Thánh Ba-xi-li-ô, Les Grandes Règles (luật dài), Quest. 7,2.
(90) X. Thánh Ba-xi-li-ô, Les petites Règles (luật ngắn), Quest. 225.
(91) YT s. 51 ; GL điều 631, §1 ; GLĐP điều 512, §1.
(92) X. HĐ ss. 47-53 ; GL điều 618 ; Kiến Nghị 19.
(93) X. HĐ s. 68 ; Kiến Nghị 21.
(94) X. Kiến Nghị 28.
(95) TT II s. 24.
(96) Đức Gio-an Phao-lô II, tông huấn sau THĐ-GM Christifideles laici (30-12-1988), s. 31-32.
(97) Regula Bullata, I, 1.
(98) Các thư 109, 171, 196.
(99) X. Quy luật số 13 ở cuối cuốn Linh Thao (Exercices spirituels).
(100) Dichos, s. 217.
(101) Thủ bản tự thuật B, 3v.
(102) X. Kiến Nghị 30, A.
(103) X. HA s. 15.
(104) GH s. 1.
(105) Bộ Giáo lý đức tin, thư gửi các giám mục Giáo Hội Công Giáo về một vài khía cạnh của Giáo Hội xét như là sự hiệp thông, Communionis notio (28-5-1992), s. 16.
(106) GH s. 13.
(107) GM s. 11.
(108) LH s. 11.
(109) X. Ibid.
(110) X. GL điều 576.
(111) X. GL điều 586 ; LH s. 13.
(112) X. TG s. 18.
(113) X. GL điều 586, §2 ; 591 ; GLĐP điều 412, §2.
(114) X. Kiến Nghị 29, 4.
(115) X. Kiến Nghị 49, B.
(116) Kiến Nghị 54.
117) X. HĐ ss. 47-56.
(118) Apologie à Guillaume de Saint-Thierry, IV, 8 : PL 182, 903-904.
(119) X. DT s. 23.
(120) X. LH ss. 21 ; 61 ; GL điều 708-709.
(121) X. DT s. 1 ; GH s. 46.
(122) X. MV s. 4.
(123) Đức Gio-an Phao-lô II, sứ điệp gửi cho đại hội tu sĩ lần thứ XIV của Brazil (11-7-1986), s. 4 ; X. Kiến Nghị 31.
(124) X. LH ss. 63 ; 65.
(125) GH s. 31.
(126) Thánh An-tôn M.Da-ca-ri-a, Scritti. Sermone II, Roma (1975), tr. 129.
(127) X. Kiến Nghị 33, A và C.
(128) X. Kiến Nghị 33, B.
(129) X. HĐ s. 62 ; HL ss. 92-93.
(130) X. Kiến Nghị 9, A.
(131) X. Kiến Nghị 9.
(132) Đức Gio-an Phao-lô II, thông điệp Evangelium vitae (25-3-1995), s. 99.
(133) Bộ các dòng tu và các tu hội đời, huấn thị về đời sống chiêm niệm và nội vi các nữ tu, Venite seorsum (15-8-1969), V.
(134) X. Ibid, I.
(135) PV, s.2.
(136) GH s. 6.
(137) X. Thánh Gio-an Thánh Giá, Cantique Spirituel, str. 29,1.
(138) X. GL, điều 667, §4 ; Kiến Nghị 22,4.
(139) X. Đức Phao-lô VI, Tự sắc, Ecclesiae Sanctae (8-6-1966), II, ss. 30-31 ; DT ss. 7 ; 16 ; Thánh bộ các dòng tu và các tu hội đời, huấn thị về đời sống chiêm niệm và nội vi các nữ tu Venite seorsum (15-8-1969), VI.
(140) X. Đức Pi-ô XII, tông hiến Sponsa Christi (21-11-1950), VII ; DT s. 8 ; 10.
(141) X. GL điều 588, §1.
(142) X. DT s. 10.
(143) X. DT ss. 8 ; 10.
(144) GL điều 588, §3 ; x. DT s. 10.
(145) X. GH s. 31.
(146) X. Kiến Nghị 8.
(147) Đức Gio-an Phao-lô II, diễn từ cho buổi tiếp kiến chung (22-2-1995), La Documentation Catholique 92 (1995), tr. 306.
(148) X. DT s. 10.
(149) X. GL điều 588, §2.
(150) X. Kiến Nghị 10 ; DT s. 15.
(151) X. GL điều 573 ; GLĐP điều 410.
(152) X. Kiến Nghị 13, B.
(153) X. Kiến Nghị 13, C.
(154) X. MV s. 48.
(155) X. Kiến Nghị 13, A.
(156) X. Kiến Nghị 13, B.
(157) GH s. 1.
(158) X. Kiến Nghị 24.
(159) X. HĐ s. 67.
(160) X. Kiến Nghị 48, A.
(161) X. Kiến Nghị 48, B.
(162) X. Kiến Nghị 48, C.
(163) X. Kiến Nghị 49, A.
(164) X. HL s. 29.
(165) X. Kiến Nghị 49, B.
(166) X. YT s. 45.
(167) X. GL điều 607, §1.
(168) X. Kiến Nghị 50.
(169) X. HĐ ss. 32-33.
(170) X. Kiến Nghị 51.
(171) X. HĐ ss. 43-45.
(172) X. HL s. 70.
(173) X. HL s. 68.
(174) X. GH s. 46.
(175) X. Kiến Nghị 35, A.
(176) MV s. 4.
(177) X. GH s. 12.
(178) Đức Phao-lô VI, thông điệp Ecclesiam Suam (6-8-1964).
(179) Thánh Ghê-gô-ri-ô Cả, Diễn giảng sách Ê-dê-ki-en, II, II, 11 : SC 360, tr. 113.
(180) Thánh Âu-tinh, Bài giảng 78, 6 : PL 38, 492.
(181) X. Đại hội IV của Hội đồng giám mục Mỹ châu La-tinh, văn kiện việc Phúc Âm hoá mới, việc thăng tiến con người và văn hoá Ki-tô giáo, kết luận, s. 178, CELAM (1992).
(182) Correspondance, Entretiens, Documents (thư tín, đàm đạo, tư liệu). Bài nói chuyện “Về tinh thần của tu đoàn” (9-2-1653) : Ed. Coste IX, Paris (1923), tr. 592.
(183) X. YT ss. 23-24.
(184) X. B. Élizabeth de la Trinité, O mon Dieu, Trinité que j’adore (Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi con tôn thờ) : Oeuvres complètes, Paris 1991, tr. 199-200.
(185) X. LB s. 69.
(186) X. Kiến Nghị 37, A.
(187) X. GH s. 46 ; LB s. 69.
(188) X. GH ss. 44 ; 46.
(189) X. TG ss. 18 ; 40.
(190) Lettre à ses compagnons résidant à Rome (Thư gửi các bạn bè ở Rô-ma) (Cochin, 15-1-1544) : Monumenta Historica Societatis Iesu 67 (1944), tr. 166-167.
(191) X. GH s. 44.
(192) X. SV s. 69 ; Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, s. 927.
(193) SV s. 31.
(194) SV s. 2.
(195) TG s. 18 ; SV s. 69.
(196) X. Kiến Nghị 38.
(197) SV s. 44.
(198) X. SV s. 46.
(199) X. SV ss. 52-54.
(200) X. Kiến Nghị 40, A.
(201) SV s. 55 ; X. Hội đồng Toà Thánh về đối thoại liên tôn và bộ truyền giảng Phúc Âm, Huấn thị đối thoại và loan truyền (19-5-1991) số 45-46.
(202) X. Kiến Nghị 40, B.
(203) Đức Gio-an Phao-lô II, tông huấn hậu THĐGM Ecclesia in Africa, s. 62.
(204) X. LB s. 15.
(205) Thượng hội đồng giám mục, đại hội thường lệ lần thứ IX, Relatio ante disceptationem (Báo cáo trước khi thảo luận) s. 22.
(206) Đức Gio-an XXIII, diễn từ khai mạc Công Đồng Va-ti-ca-nô II (11-10-1962).
(207) X. Kiến Nghị 18.
(208) Thánh Âu-tinh, Bài giảng 123,3-4 : PL 38,685-686.
(209) X. Bài ca XXI, cc. 386-394 : PL 61,587.
(210) Correspondance, Entretiens, Documents (Thư tín, đàm đạo, tư liệu). Bài nói chuyện “về luật lệ” (30-5-1647) : Ed. Coste IX, Paris (1923), tr. 319.
(211) Règle pastorale (quy luật mục vụ) 2,5.
(212) X. Đức Gio-an Phao-lô II, tông thư Salvifici doloris (11-2-1984), ss. 28-30.
(213) X. Ibid., s. 18 ; Đức Gio-an Phao-lô II, tông huấn hậu THĐGM Christifideles laici (30-12-1988), ss. 52-53.
(214) X. Đức Gio-an Phao-lô II, tông huấn hậu THĐGM Pastores dabo vobis (25-3-1992), s. 77.
(215) X. Đức Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Evangelium Vitae (25-3-1995), ss. 78-101.
(216) X. Kiến Nghị 43.
(217) X. GH s. 44.
(218) X. Đức Gio-an Phao-lô II, bài giảng trong thánh lễ đồng tế trọng thể kết thúc đại hội thường lệ lần thứ IX của thượng hội đồng giám mục (29-10-1994), s. 3.
(219) X. Thánh A-tha-na-xi-ô, Hạnh thánh An-tôn, 7. PG.
(220) X. Kiến Nghị 39, A.
(221) X. Kiến Nghị 15, A và 39, C.
(222) GH s. 4 ; X. LM s. 2.
(223) X. Kiến Nghị 53 ; Đức Gio-an Phao-lô II, tông thư Tertio Millennio Adveniente (10-11-1994), s. 37.
(224) X. DT s. 12.
(225) X. Kiến Nghị 18, A.
(226) X. DT s. 13.
(227) X. Đức Gio-an Phao-lô II, thông điệp Veritatis Splendor (6-8-1993), ss. 31-35.
(228) X. Kiến Nghị 19, A ; DT s. 14.
(229) X. Kiến Nghị 15.
(230) Đức Gio-an Phao-lô II, diễn từ cho buổi tiếp kiến chung (8-12-1995).
(231) MK s. 21 ; x. DT s. 6.
(232) Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, s. 125 ; x. MK s. 18.
(233) MK s. 2.
(234) LM s. 5
(235) X. GD s. 8.
(236) Scritti pedagogici e spirituale, Rome (1987), tr. 294.
(237) X. Đức Gio-an Phao-lô II, Tông hiến Sapientia Christiana (15-4-1979), II : AAS 71 (1979), tr. 471.
(238) X. Kiến Nghị 41.
(239) X. Đức Gio-an Phao-lô II, Tông hiến Sapientia Christiana (15-4-1979), II : AAS 71 (1979), tr. 470.
(240) X. Kiến Nghị 36.
(241) X. MV s. 5.
(242) MV s. 1.
(243) X. HĐ s. 34.
(244) X. Đức Gio-an Phao-lô II, sứ điệp cho ngày thế giới truyền thông xã hội thứ XXVIII (24-1-1994).
(245) X. Đức Gio-an Phao-lô II, thông điệp Ut Unum Sint (15-5-1995), s. 21.
(246) X. Ibid., s. 28.
(247) X. Kiến Nghị 45.
(248) SV s. 55 : AAS 83 (1991), tr. 302.
(249) Hội đồng Toà Thánh về đối thoại liên tôn và truyền giảng Phúc Âm, huấn thị Đối thoại và loan truyền (19-5-1991), s. 42, a.
(250) Ibid., s. 42,b.
(251) X. Kiến Nghị 46.
(252) X. Hội đồng Toà Thánh về đối thoại liên tôn và truyền giảng Phúc Âm, huấn thị Đối thoại và loan truyền (19-5-1991), s. 42, a.
(253) X. Kiến Nghị 47.
(254) B. Angela de Foligno, Il libro della Beata Angela da Foligno, Grottaferrata (1985), tr. 683.
(255) Thánh Tê-rê-xa Giê-su, Libro de la Vida, ch. 32,11.
(256) CT s. 3.
(257) X. Kiến Nghị 48.
(258) MV s. 41.
(259) CT s. 53.
(260) X. Kiến Nghị 16.
(261) Thánh Âu-tinh, Bình luận Tin Mừng thánh Gio-an, XXI, 8 ; PL 35 ; 1568.
(262) X. TT ss. 13-21.
(263) GH s. 64
.

Tông Huấn -Chúa Kitô đang sống- Christus vivit

TÔNG HUẤN HẬU THƯỢNG HỘI ĐỒNG
CHÚA KITÔ ĐANG SỐNG CỦA Đức Thánh Cha PHANXICÔ
GỬI NGƯỜI TRẺ VÀ TOÀN THỂ dân Chúa
(Bản dịch của Lm J.B. Đặng Minh An)

1. Chúa Kitô đang sống! Người là niềm hy vọng của chúng ta, và một cách tuyệt vời, Người mang tuổi trẻ đến với thế giới của chúng ta. Sau đó, những lời đầu tiên mà tôi muốn nói với mọi Kitô hữu trẻ là: Chúa Kitô đang sống và Người muốn các bạn sống!

2. Người ở trong các bạn, Người ở bên các bạn và Người không bao giờ bỏ rơi các bạn. Bất kể các bạn có thể lang thang bao xa, Người luôn ở đó, Đấng Phục sinh. Người kêu gọi các bạn và Người chờ các bạn quay lại với Người và bắt đầu lại từ đầu. Khi các bạn cảm thấy mình già đi vì buồn sầu, oán giận hoặc sợ hãi, nghi ngờ hay thất bại, Người vẫn luôn ở đó để khôi phục sức mạnh và hy vọng của các bạn.

3. Với tình âu yếm lớn lao, tôi ngỏ Tông huấn này đến mọi người trẻ Kitô giáo. Nó nhắm nhắc nhở các bạn về những xác tín phát sinh từ đức tin của chúng ta, đồng thời để khuyến khích các bạn lớn lên trong sự thánh thiện và cam kết với ơn gọi bản thân của các bạn. Nhưng vì nó cũng là một phần của diễn trình thượng hội đồng, tôi cũng ngỏ thông điệp này đến toàn thể dân Chúa, các mục tử và cả các tín hữu, vì tất cả chúng ta đều được thách thức và thúc giục suy nghĩ cả về người trẻ lẫn cho người trẻ. Do đó, tôi sẽ nói chuyện trực tiếp với người trẻ ở một số chỗ, trong khi ở những chỗ khác, tôi sẽ đề nghị một số xem xét tổng quát hơn dành cho việc biện phân của Giáo hội.

4. Tôi đã để cho mình được gợi hứng bởi rất nhiều suy tư và đàm luận diễn ra trong Thượng Hội Đồng năm ngoái. Tôi không thể bao gồm tất cả những đóng góp đó ở đây, nhưng các bạn có thể đọc chúng trong Tài liệu Cuối cùng. Dù vậy, khi viết bức thư này, tôi đã cố gắng tóm tắt những đề nghị mà tôi cho là quan trọng nhất. Bằng cách này, những lời lẽ của tôi sẽ lặp lại vô số tiếng nói của các tín hữu trên toàn thế giới từng làm cho ý kiến của họ được Thượng hội đồng biết đến. Những người trẻ không phải là tín hữu, nhưng muốn chia sẻ suy nghĩ của họ, cũng nêu ra những vấn đề khiến tôi phải đặt nhiều câu hỏi mới.

CHƯƠNG MỘT: Lời Chúa có gì để nói về người trẻ?

5. Chúng ta hãy dựa vào sự phong phú của các Sách thánh, vì chúng thường nói về người trẻ và về cách Chúa đến gần để gặp gỡ họ.

Trong Cựu Ước

6. Trong một thời đại lúc người trẻ không được đánh giá cao, một số bản văn cho thấy Chúa nhìn họ cách khác. Giuse, chẳng hạn, là người trẻ nhất trong gia đình (xem St 37: 2-3), nhưng Thiên Chúa đã cho anh thấy những điều tuyệt vời trong giấc mơ và khi chỉ mới mười bảy tuổi, anh đã vuợt xa tất cả các anh em của mình trong các vấn đề quan trọng (xem St 37- 47).

7. Nơi Gideon, chúng ta thấy sự thẳng thắn của người trẻ, những người không quen với thực tại bọc đường. Khi được cho biết Chúa ở với anh, anh đã trả lời: “Nhưng nếu Chúa ở cùng chúng ta, tại sao sau đó tất cả những điều này lại xảy ra với chúng ta?” (Tl 6:13). Thiên Chúa không bị xúc phạm bởi lời trách móc đó, nhưng tiếp tục ra lệnh cho anh: Hãy lên đường với sức mạnh của ngươi và giải thoát Israel!” (Tl 6: 14).

8. Samuen vẫn còn là một cậu bé, thế nhưng Chúa đã nói chuyện với anh. Nhờ lời cố vấn của một người trưởng thành, anh đã mở lòng mình ra nghe lời Chúa gọi: “Lạy Chúa, Chúa nói đi, vì đầy tớ Chúa đang lắng nghe” (1 Sm 3: 9-10). Kết quả, anh trở thành một nhà tiên tri vĩ đại, từng can thiệp vào những thời khắc quan trọng trong lịch sử của đất nước mình. Vua Saun cũng còn trẻ khi Chúa kêu gọi thực hiện sứ mệnh của mình (x. 1 Sm 9: 2).

9. Vua Đavít được chọn khi còn là một cậu bé. Khi tiên tri Samuen đang tìm kiếm vị vua tương lai cho Israel, một người đề nghị lấy những đứa con trai của ông đã lớn tuổi và nhiều kinh nghiệm hơn làm ứng viên. Thế nhưng, tiên tri nói rằng người được chọn là Đavít trẻ tuổi, người đang chăm sóc đàn chiên (x. 1 Sm 16: 6-13), vì “con người chỉ nhìn bề ngoài, nhưng Chúa nhìn thấu lòng người” (câu 7). Vinh quang tuổi trẻ là ở cõi lòng, hơn là ở trong sức mạnh thể lý hay ấn tượng đối với người khác.

10. Salômôn, khi phải kế vị cha mình, cảm thấy lạc lõng và nói với Chúa: “Con mới chỉ là một đứa trẻ, không hề biết cách hành động ra sao” (1 V 3: 7). Tuy nhiên, sự táo bạo của tuổi trẻ đã khiến anh cầu xin Chúa ban cho sự khôn ngoan và anh đã hiến mình cho sứ mệnh của mình. Một điều tương tự đã xảy ra với tiên tri Giêrêmia, được kêu gọi bất chấp tuổi trẻ của mình để đánh thức dân mình. Trong nỗi sợ hãi của anh, anh nói: “ôi, lạy Chúa! Thực sự con không biết nói năng, vì con chỉ là một thiếu niên” (Grm 1: 6). Nhưng Chúa bảo anh đừng nói thế (xem Grm 1: 7), và thêm: “Đừng sợ họ, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi” (Grm 1: 8). Sự tận tụy của tiên tri Giêrêmia đối với sứ mệnh của mình cho thấy điều gì sẽ xảy ra khi sự bạo dạn của tuổi trẻ kết hợp với quyền năng của Thiên Chúa.

11. Một đầy tớ gái Do Thái của chỉ huy trưởng ngoại quốc Naaman đã can thiệp bằng đức tin và vị này được chữa khỏi bệnh (x. 2 V 5: 2-6). Cô gái trẻ Ruth là hình mẫu của lòng quảng đại khi ở bên cạnh mẹ chồng, người đã sa vào thời kỳ khó khăn (x. Rút 1: 1-18), nhưng cô cũng biểu lộ sự táo bạo trong việc tiến bước trong đời (x. Rút 4: 1-17).

Trong Tân Ước

12. Một trong những dụ ngôn của Chúa Giêsu (xem Lc 15: 11-32) liên quan đến việc người con trai “trẻ hơn” muốn rời nhà cha mình để đến một vùng đất xa xôi (xem các câu 12-13). Thế nhưng, các ý nghĩ độc lập của anh đã biến thành tan vỡ và quá lạm (xem câu 13), và anh đã phải kinh qua sự cay đắng của cô đơn và nghèo đói (xem câu 14-16). Tuy nhiên, anh đã tìm thấy sức mạnh để bắt đầu một sự khởi đầu mới (xem câu 17-19) và quyết tâm đứng dậy và trở về nhà (xem câu 20). Các trái tim trẻ tự nhiên sẵn sàng chấp nhận thay đổi, quay trở lại, đứng dậy và học hỏi từ cuộc sống. Làm thế nào người ta có thể không hỗ trợ người con trai ấy trong quyết tâm mới đó? Thế nhưng, người anh trai của anh lại có một trái tim già cỗi; anh ta để mình bị chiếm hữu bởi lòng tham, ích kỷ và đố kị (Lc 15: 28-30). Chúa Giêsu ca ngợi tội nhân trẻ đã trở lại con đường đúng đắn hơn là người anh trai tự cho mình là trung tín, nhưng lại thiếu tinh thần yêu thương và thương xót.

13. Chúa Giêsu, Đấng trẻ trung muôn đời, muốn ban cho chúng ta các trái tim trẻ mãi. Lời Chúa yêu cầu chúng ta “vứt bỏ men cũ để các con trở thành bột nhào mới” (1 Cr 5: 7). Thánh Phaolô mời chúng ta cởi bỏ “bản thân cũ” của mình và mặc lấy một bản thân “trẻ trung” (Cl 3: 9.10). [1] Khi giải thích ý nghĩa của việc mặc lấy sự trẻ trung “vốn là sự đổi mới” đó, (câu 10), ngài đề cập đến lòng “cảm thương, lòng tốt, lòng khiêm nhường và kiên nhẫn, chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau nếu có ai phàn nàn với nhau” (Cl 3: 12-13). Tóm lại, tuổi trẻ đích thực có nghĩa là có một trái tim có khả năng yêu thương, trong khi mọi thứ ngăn cách chúng ta với người khác làm tâm hồn già cỗi đi. Và do đó, ngài kết luận: “trên hết, hãy mặc lấy tình yêu, vốn gắn kết mọi sự lại với nhau trong một hòa hợp hoàn hảo” (Cl 3:14).

14. Chúng ta cũng hãy nhớ: Chúa Giêsu không gây ích gì cho những người trưởng thành coi thường người trẻ hoặc thống trị họ. Ngược lại, Người nhấn mạnh rằng, “người lớn nhất trong các con phải trở nên giống như người trẻ nhất” (Lc 22,26). Đối với Người, tuổi không tạo ra đặc quyền, và làm người trẻ không ngụ hàm ít giá trị hoặc phẩm giá hơn.

15. Lời Thiên Chúa nói rằng người trẻ nên được đối xử như những người anh em (1 Tm 5: 1), và cảnh báo các bậc cha mẹ đừng “khiêu khích con cái anh em, kẻo chúng trở nên thối chí” (Cl 3:21). Người ta không nhắm việc làm cho người trẻ thối chí; người ta mong họ mơ những điều vĩ đại, tìm kiếm những chân trời rộng lớn, nhằm mục đích cao hơn, thách thức thế giới, chấp nhận các thách thức và cống hiến những gì tốt nhất của bản thân để xây dựng một điều gì đó tốt hơn. Đó là lý do tại sao tôi không ngừng thúc giục các bạn trẻ đừng để mình bị cướp mất hy vọng; với mỗi người trong số họ, tôi nhắc lại: “Đừng để ai coi thường tuổi trẻ của các bạn” (1 Tim 4:12).

16. Tuy nhiên, người trẻ cũng được thúc giục “chấp nhận thẩm quyền của những người lớn tuổi hơn” (1 Pr 5: 5). Kinh thánh không bao giờ ngừng khẳng định rằng lòng kính trọng sâu sắc phải được thể hiện đối với người cao niên, vì các ngài có nhiều kinh nghiệm; các ngài biết thành công và thất bại, niềm vui và phiền não của cuộc đời, những giấc mơ và sự thất vọng của nó. Trong sự im lặng của cõi lòng, các ngài có một kho kinh nghiệm có thể dạy chúng ta không phạm sai lầm hoặc mắc kẹt vào các lời hứa giả tạo. Một nhà hiền triết xưa yêu cầu chúng ta tôn trọng một số giới hạn và làm chủ các xung động của mình: “hãy thúc giục các người đàn ông trẻ tuổi tự kiểm soát lấy mình” (Tt 2: 6). Ủng hộ việc sùng bái tuổi trẻ hoặc dại dột gạt bỏ người khác chỉ vì họ lớn tuổi hoặc thuộc thế hệ khác quả là điều vô ích. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng người khôn ngoan có khả năng rút từ kho của họ những điều cả mới lẫn cũ (x. Mt 13:52). Một người trẻ khôn ngoan cởi mở đối với tương lai, nhưng vẫn có khả năng học được điều gì đó từ kinh nghiệm của người khác.

17. Trong Tin mừng Maccô, chúng ta thấy một người đàn ông, khi nghe Chúa Giêsu nói về các điều răn, thưa, “tất cả những điều này tôi đã tuân giữ từ lúc còn trẻ” (10:20). Thánh vịnh gia đã nói điều tương tự: “ Lạy Chúa, Chúa là niềm hy vọng của con; niềm tín thác của con, Lạy Chúa, từ lúc con còn trẻ… từ lúc con còn trẻ, Chúa đã dạy dỗ con và con vẫn tuyên xưng các việc làm kỳ diệu của Chúa” (Ps 71: 5.17). Chúng ta đừng bao giờ hối hận về việc đã dành tuổi trẻ của mình làm người tốt, mở lòng ra cho Chúa và sống cách khác. Không điều gì trong số này lấy đi tuổi trẻ của chúng ta nhưng thay vào đó chúng củng cố và đổi mới nó: “Tuổi trẻ của các bạn được đổi mới giống như chim đại bàng” (Tv 103: 5). Vì lý do này, Thánh Augustinô đã than thở: “Con đã yêu Chúa, vẻ đẹp mãi cổ xưa, nhưng mãi mới mẻ, quá muộn màng! Con đã yêu Chúa quá muộn màng!” [2] Tuy nhiên, người thanh niên giàu có, người đã trung thành với Thiên Chúa lúc còn trẻ, đã để cho các năm tháng trôi qua cướp đi giấc mơ của anh; anh thích gắn bó với sự giàu có của mình hơn (x. Mc 10, 22).

18. Mặt khác, trong Tin mừng Mátthêu, chúng ta thấy một chàng trai trẻ (x. Mt 19,20,22), người tiếp cận Chúa Giêsu và hỏi liệu anh có thể làm gì hơn nữa không (câu 20); trong lời này, anh cho thấy tinh thần cởi mở trẻ trung đi tìm những chân trời mới và những thách thức lớn. Thế nhưng, tinh thần của anh không thực sự trẻ trung, vì anh đã trở nên quá gắn bó với sự giàu có và tiện nghi. Anh nói rằng anh muốn một điều gì hơn nữa, nhưng khi Chúa Giêsu yêu cầu anh quảng đại và phân phối của cải của mình, anh hiểu ra anh không thể buông bỏ mọi thứ mình có. Cuối cùng, “nghe những lời này, chàng trai trẻ đã bỏ đi cách buồn bã” (câu 22). Anh đã từ bỏ tuổi trẻ của mình.

19. Tin Mừng cũng nói về một nhóm phụ nữ trẻ khôn ngoan, những người sẵn sàng và chờ đợi, trong khi những người khác bị phân tâm và ngủ gà ngủ gật (x. Mt 25: 1-13). Thực vậy, chúng ta có thể dành cả tuổi thanh xuân của mình để bị phân tâm, lướt qua bề mặt của cuộc sống, nửa ngủ nửa tỉnh, không có khả năng vun xới các mối liên hệ có ý nghĩa hoặc trải nghiệm những điều sâu sắc hơn trong cuộc sống. Bằng cách này, chúng ta có thể lưu trữ một tương lai nhỏ nhoi và không đáng kể. Hoặc chúng ta có thể dành tuổi trẻ của mình hoài mong những điều đẹp đẽ và tuyệt vời, và do đó lưu trữ một tương lai đầy sức sống và phong phú nội tâm.

20 Nếu các bạn để mất sức sống nội tâm, các giấc mơ, sự hào hứng, tính lạc quan và lòng quảng đại của các bạn, Chúa Giêsu đang đứng trước mặt các bạn như ngày xưa Người từng đứng trước đứa con trai đã chết của một góa phụ, và bằng mọi sức mạnh của việc Phục Sinh của Người, Người thúc giục các bạn: “hỡi chàng tuổi trẻ, tôi nói với bạn, hãy chỗi dậy!” (Lc 7:14).

21. Điều chắc chắn là nhiều đoạn khác của lời Chúa có thể rõi sáng cho giai đoạn này trong cuộc sống của các bạn. Chúng ta sẽ bàn đến một số trong các chương sau.

CHƯƠNG HAI: Chúa Giêsu, mãi mãi trẻ trung

22. Chúa Giêsu “trẻ giữa người trẻ để trở thành tấm gương cho người trẻ và thánh hiến họ cho Chúa”[3] Vì lý do này, Thượng hội đồng nói rằng “tuổi trẻ là một giai đoạn độc đáo và đầy kích thích của đời sống, mà chính Người đã trải qua, do đó, đã thánh hóa nó”. [4]

Tuổi trẻ của Chúa Giêsu

23. Chúa đã “tắt thở” (xem Mt 27:50) trên thập giá khi Người mới hơn ba mươi tuổi (x. Lc 3, 23). Điều quan trọng là phải nhận ra rằng, Chúa Giêsu là một người trẻ tuổi. Người đã hiến cuộc sống của mình khi Người, nói theo ngôn ngữ ngày nay, mới chỉ là một người trưởng thành trẻ. Người bắt đầu sứ mệnh công khai của mình trong thời kỳ đẹp nhất của cuộc đời, và do đó, “một ánh sáng đã bừng lên” (Mt 4:16), ánh sáng này sẽ tỏa sáng rực rỡ nhất khi Người hiến mạng sống mình đến tận cùng. Việc kết thúc đó không phải là một điều đơn giản xảy ra; đúng hơn, toàn bộ tuổi trẻ của Người, trong mọi thời điểm, là một sự chuẩn bị quý giá cho nó. “Tất cả mọi điều trong cuộc sống của Chúa Giêsu là một dấu chỉ sự mầu nhiệm của Người” [5]; thực vậy, “toàn bộ cuộc đời Chúa Kitô là một mầu nhiệm cứu chuộc” [6].

24. Tin Mừng không cho chúng ta biết gì về thời thơ ấu của Cúa Giêsu, nhưng có kể lại một số biến cố thời niên thiếu và tuổi trẻ của Người. Thánh Mátthêu đặt tuổi trẻ của Chúa giữa hai biến cố: gia đình của Người trở về Nadarét sau khi họ bị lưu đày và Chúa Giêsu chịu phép rửa ở Sông Giócđăng, khởi đầu thừa tác vụ công khai của Người. Những hình ảnh cuối cùng mà chúng ta có về Chúa Giêsu lúc còn bé là các hình ảnh của một người tị nạn tí hon ở Ai Cập (x. Mt 2: 14-15) và hồi hương ở Nadarét (x. Mt 2: 19-23). Hình ảnh đầu tiên của chúng ta về Chúa Giêsu như một thanh niên trẻ tuổi cho thấy Người đứng giữa đám đông bên bờ sông Giócđăng để được người anh em họ Gioan Tẩy Giả làm phép rửa, giống như bất cứ thành viên nào khác trong dân tộc của Người (x. Mt 3: 13-17) .

25. Phép rửa Chúa Giêsu chịu không giống như của chúng ta, vì phép rửa của chúng ta đưa chúng ta vào đời sống ơn thánh, nhưng phép rửa Người chịu là một sự thánh hiến trước khi Người bắt tay vào sứ mệnh cao cả của đời mình. Tin Mừng nói rằng lúc Người chịu phép rửa, Chúa Cha đã vui mừng và rất hài lòng: “Con là con yêu dấu của Cha” (Lc 3:22). Chúa Giêsu ngay lập tức xuất hiện tràn đầy Chúa Thánh Thần, và được Chúa Thánh Thần dẫn vào sa mạc. Ở đó, Người chuẩn bị để ra đi rao giảng và làm phép lạ, đem lại tự do và chữa lành (x. Lc 4: 1-14). Mọi người trẻ nào cảm thấy được mời gọi tham gia một sứ mệnh trong thế giới này đều được mời nghe Chúa Cha nói cùng những lời như thế trong trái tim mình: “Con là con yêu dấu của Cha”.

26. Giữa hai trình thuật này, chúng ta tìm thấy một trình thuật khác, cho thấy Chúa Giêsu như một thiếu niên, khi Người cùng cha mẹ trở về Nadarét, sau khi bị lạc và được tìm thấy trong Đền thờ (x. Lc 2: 41-51). Ở đó, chúng ta đọc thấy, Người đã vâng lời các ngài (xem Lc 2:51); Người không từ chối gia đình. Sau đó, Thánh Luca cho biết thêm, Chúa Giêsu “lớn lên trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ơn thánh trước mặt Thiên Chúa và người ta” (xem Lc 2:52). Tóm một lời, đây là thời chuẩn bị, khi Chúa Giêsu lớn lên trong mối liên hệ với Chúa Cha và với những người khác. Thánh Gioan Phaolô II giải thích rằng Người không chỉ lớn lên về thể chất, mà “còn có sự tăng trưởng về thiêng liêng nơi Chúa Giêsu” vì “sự viên mãn của ơn thánh tỷ lệ thuận với tuổi của Người: luôn luôn có một sự viên mãn, nhưng là một sự viên mãn gia tăng với việc gia tăng năm tháng cuộc sống” [7].

27. Từ những gì Tin Mừng nói với chúng ta, chúng ta có thể nói rằng, Chúa Giêsu, trong những năm còn trẻ, đang “được huấn luyện”, chuẩn bị để thực hiện kế hoạch của Chúa Cha. Thời niên thiếu và tuổi trẻ của Người đã đặt Người vào con đường tiến đến sứ mệnh cao siêu đó.

28. Ở tuổi thiếu niên và tuổi trẻ, mối liên hệ của Chúa Giêsu với Chúa Cha là mối liên hệ của người Con yêu dấu. Cuốn hút vào Chúa Cha, Người lớn lên lo lắng cho các vụ việc của Chúa Cha: “Há cha mẹ không biết con phải lo công việc của Cha con sao?” (Lc 2:49). Tuy nhiên, ta không nên nghĩ rằng, Chúa Giêsu là một thiếu niên lãnh đạm hoặc chỉ biết quan tâm đến mình. Các mối liên hệ của Người là các mối liên hệ của một người trẻ, biết chia sẻ đầy đủ cuộc sống của gia đình và dân của Người. Người học tay nghề của cha mình và sau đó thay thế cha làm thợ mộc. Tại một thời điểm trong Tin Mừng, Người được gọi là “con bác thợ mộc” (Mt 13:55) và một lần khác chỉ đơn giản là “chú thợ mộc” (Mc 6: 3). Chi tiết này cho thấy Người chỉ là một người trẻ tuổi khác trong thị trấn của Người, một người có liên hệ bình thường với những người khác. Không ai coi Người là bất thường hoặc tách biệt với những người khác. Vì lý do này, một khi Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng, người ta không thể tưởng tượng được do dâu Người có được sự khôn ngoan này: “ Há đây không phải là con trai của ông Giuse sao?” (Lc 4:22).

29. Trên thực tế, “Chúa Giêsu đã không lớn lên trong mối liên hệ hẹp hòi và ngột ngạt với Mẹ Maria và Thánh Giuse, nhưng sẵn sàng tương tác với gia đình rộng lớn hơn, họ hàng của cha mẹ và bạn bè của họ [8]. Từ đó, chúng ta có thể hiểu tại sao, khi Người trở về từ chuyến hành hương Giêrusalem, cha mẹ Người dễ dàng nghĩ rằng, khi còn là một cậu bé mười hai tuổi (x. Lc 2,42), Người đã tự do đi lang thang trong đám đông, mặc dù cả ngày họ đã không thấy Người: “cho rằng Người ở trong nhóm du khách, họ đã đi một ngày đường” (Lc 2:44). Chắc chắn, họ cho rằng, Chúa Giêsu ở đó, trà trộn với những người khác, đùa giỡn với người trẻ khác, kể cho người lớn những câu chuyện dỡn (tell stories) và chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của nhóm. Thật vậy, chữ Hy Lạp mà Thánh Luca sử dụng để mô tả nhóm – synodía – rõ ràng gợi lên một “cộng đồng lớn hơn đang trên hành trình”, mà Thánh gia là một thành phần. Nhờ sự tin tưởng của cha mẹ, Người có thể tự do di chuyển và học cách lữ hành cùng người khác.

Tuổi trẻ của Người dạy chúng ta

30. Những khía cạnh của đời sống Chúa Giêsu có thể chứng minh có sức gây cảm hứng cho tất cả những người trẻ đang phát triển và chuẩn bị lãnh nhận sứ mệnh ở trong đời. Điều này liên quan đến việc lớn lên trong mối liên hệ với Chúa Cha, trong ý thức trở thành một phần của gia đình và dân tộc, và trong việc cởi mở để được đầy dẫy Chúa Thánh Thần và được dẫn tới việc thi hành sứ mệnh mà Thiên Chúa ban cho họ, ơn gọi bản thân của họ. Không nên bỏ qua bất cứ điều nào trong công việc mục vụ với người trẻ, kẻo chúng ta tạo ra những dự án cách ly những người trẻ khỏi gia đình và cộng đồng lớn hơn, hoặc biến họ thành thiểu số ưu tuyển, được bảo vệ khỏi mọi ô nhiễm. Thay vào đó, chúng ta cần các dự án có thể củng cố họ, đồng hành cùng họ và thúc đẩy họ gặp gỡ người khác, dấn thân vào việc phục vụ quảng đại, vào sứ mệnh.

31. Chúa Giêsu không dạy các các bạn, những người trẻ, từ xa hay từ bên ngoài, nhưng từ trong chính tuổi trẻ của các bạn, một tuổi trẻ Người chia sẻ với các bạn. Điều rất quan trọng đối với bạn là chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trẻ trung như được trình bày trong các sách Tin mừng, vì Người thực sự là một trong số các bạn, và chia sẻ nhiều đặc điểm của trái tim trẻ của các bạn. Chúng ta thấy điều này, chẳng hạn, trong chi tiết sau: “Chúa Giêsu có niềm tin vô điều kiện vào Chúa Cha; Người duy trì tình bạn với các môn đệ và ngay cả trong những giây phút khủng hoảng, Người vẫn trung thành với họ. Người đã biểu lộ lòng trắc ẩn sâu sắc đối với những người yếu đuối nhất, đặc biệt là người nghèo, người bệnh, tội nhân và những người bị loại trừ. Người đã can đảm đối đầu với các thẩm quyền tôn giáo và chính trị thời bấy giờ; Người biết thế nào là cảm thấy bị hiểu lầm và bị từ chối; Người trải qua nỗi sợ đau khổ và Người biết sự yếu đuối của Cuộc Khổ Nạn. Người hướng ánh mắt về tương lai, phó mình trong bàn tay an toàn của Chúa Cha, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Nơi Chúa Giêsu, mọi bạn trẻ đều có thể nhìn thấy mình”. [9]

32. Mặt khác, Chúa Giêsu đã trỗi dậy và Người muốn làm cho chúng ta trở thành những người tham dự vào sự sống mới của phục sinh. Người là sự trẻ trung thực sự của một thế giới đã trở thành già cỗi, sự trẻ trung của một vũ trụ đang chờ đợi “trong đau đẻ” (Rm 8:22) để được mặc lấy ánh sáng và sống sự sống của Người. Với Người ở bên cạnh, chúng ta có thể uống từ nguồn suối chân thực, nguồn suối giữ cho mọi ước mơ, dự án, lý tưởng tuyệt vời của chúng ta luôn sống động, trong khi thúc đẩy chúng ta công bố điều làm cho cuộc sống thực sự đáng giá. Hai chi tiết gây tò mò trong Tin mừng Maccô cho thấy những người trỗi dậy với Chúa Kitô được kêu gọi bước vào tuổi trẻ đích thực như thế nào. Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta thấy một chàng trai trẻ muốn theo Chúa Giêsu, nhưng vì sợ đã chạy trốn trần trụi (xem 14: 51-52); anh thiếu sức mạnh để đánh cuộc mọi thứ mà theo Chúa. Thế nhưng, tại ngôi mộ trống, chúng ta thấy một người trẻ tuổi khác, “mặc một chiếc áo dài màu trắng” (16: 5), người nói với các phụ nữ đừng sợ hãi và công bố niềm vui của sự phục sinh (xem 16: 6-7).

33. Chúa đang kêu gọi chúng ta thắp sáng các vì sao trong đêm tối của những người trẻ khác. Người yêu cầu các bạn nhìn vào những vì sao đích thực, mọi dấu hiệu khác nhau mà Người ban cho để dẫn đường chúng ta và bắt chước người nông dân ngắm các vì sao trước khi ra ngoài cày ruộng. Thiên Chúa thắp sáng các vì sao giúp chúng ta tiếp tục bước đi: “Các tinh tú, mỗi ngôi ở vị trí mình, tưng bừng chiếu sáng. Người gọi chúng, chúng thưa: Có mặt, và hân hoan chiếu sáng” (Br 3: 34-35). Chính Chúa Kitô là ánh sáng hy vọng lớn lao và là người dẫn đường của chúng ta trong đêm tối, vì Người là “ngôi sao mai sáng lạn” (Kh 22: 16).

Tuổi trẻ của Giáo hội

34. Tuổi trẻ không chỉ đơn giản là một khoảng thời gian; nó là một trạng thái của tâm trí. Đó là lý do tại sao một định chế cổ xưa như Giáo hội có thể trải nghiệm sự đổi mới và trở lại tuổi trẻ ở những thời điểm khác nhau trong lịch sử lâu đời của mình. Thật vậy, vào những thời khắc bi thảm nhất trong lịch sử, Giáo hội cảm thấy được kêu gọi hết lòng trở lại với mối tình đầu. Nhắc lại sự thật này, Công đồng Vatican II lưu ý rằng, “trở nên phong phú với một lịch sử lâu dài và sống động, và tiến tới sự hoàn thiện nhân bản trong thời gian và những vận mệnh tối hậu của lịch sử và cuộc sống, Giáo hội là tuổi trẻ thực sự của thế giới”. Nơi Giáo hội, người ta luôn có khả năng gặp gỡ Chúa Kitô “người bạn đồng hành và là bạn bè của tuổi trẻ” [10].

Một Giáo hội cởi mở đối với đổi mới

35. Chúng ta hãy cầu xin Chúa giải thoát Giáo hội khỏi những người khiến Giáo hội già đi, giam cầm Giáo hội trong quá khứ, cầm chân Giáo hội hoặc giữ cho Giáo hội dậm chân tại chỗ. Nhưng chúng ta cũng hãy cầu xin Người giải thoát Giáo hội khỏi một cám dỗ khác: đó là cơn cám dỗ muốn nghĩ rằng Giáo hội trẻ bởi vì Giáo hội chấp nhận mọi thứ được thế giới mời mọc Giáo hội, nghĩ rằng Giáo hội được đổi mới vì Giáo hội gạt thông điệp của mình sang một bên và hành động như mọi người khác. Không! Giáo hội trẻ trung khi Giáo hội là chính mình, khi Giáo hội nhận được một lần nữa sức mạnh được sinh ra từ lời Chúa, từ Bí tích Thánh Thể, và sự hiện diện hàng ngày của Chúa Kitô và sức mạnh của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống của chúng ta. Giáo hội trẻ trung khi Giáo hội chứng tỏ mình có khả năng liên tục trở về nguồn của mình.

36. Chắc chắn, trong tư cách chi thể của Giáo hội, chúng ta không nên tách biệt với những người khác. Mọi người nên coi chúng ta là bạn bè và hàng xóm, giống như các tông đồ, những người “được hưởng thiện chí mọi người” (Cv 2:47; xem 4: 21,33; 5: 13). Nhưng đồng thời, chúng ta phải dám sống khác biệt, để nêu rõ các lý tưởng khác với các lý tưởng của thế giới này, làm chứng cho vẻ đẹp của lòng quảng đại, việc phục vụ, đức trong sạch, lòng kiên trì, sự tha thứ, lòng trung thành với ơn gọi bản thân, lời cầu nguyện, theo đuổi công lý và ích chung, tình yêu đối với người nghèo và tình bạn xã hội.

37. Giáo hội Chúa Kitô luôn có thể sa vào cơn cám dỗ để mất nhiệt tình vì không còn nghe thấy tiếng Chúa kêu gọi mình phải chấp nhận mạo hiểm đức tin, cho Giáo hội tất cả mà không tính đến các nguy hiểm; Giáo hội có thể bị cám dỗ trở lui tìm kiếm một hình thức an toàn giả mạo, trần tục. Những người trẻ có thể giúp giữ cho Giáo hội trẻ trung. Họ có thể ngăn Giáo hội khỏi thối nát; họ có thể giữ cho Giáo hội tiến về phía trước, ngăn Giáo hội kiêu căng và bè phái, giúp Giáo hội nghèo hơn và làm chứng tốt hơn, đứng về phía người nghèo và người bị ruồng bỏ, đấu tranh cho công lý và khiêm tốn để mình bị thử thách. Những người trẻ có thể cung hiến cho Giáo hội vẻ đẹp của tuổi trẻ bằng cách đổi mới khả năng của Giáo hội biết “vui mừng với những khởi đầu mới, hiến mình không dè dặt, đổi mới và lên đường thực hiện các thành tựu lớn lao hơn bao giờ hết”. [11]

38. Những người trong chúng ta không còn trẻ nữa cần tìm cách gần gũi với các tiếng nói và mối quan tâm của người trẻ. “Sáp lại gần nhau tạo điều kiện để Giáo hội trở thành nơi đối thoại và làm chứng cho tình huynh đệ mang lại sự sống”. [12] Chúng ta cần tạo thêm chỗ cho các tiếng nói của người trẻ được lắng nghe: “Lắng nghe làm việc trao đổi các ơn phúc trong bối cảnh đồng cảm trở thành khả hữu… Đồng thời, nó đặt ra các điều kiện để việc rao giảng Tin Mừng có thể đánh động trái tim thật sự, dứt khoát và hữu hiệu” [13].

Một Giáo hội lưu ý đến các dấu chỉ thời đại.

39. “Mặc dù đối với nhiều người trẻ, Thiên Chúa, tôn giáo và Giáo hội xem như chỉ là những hạn từ trống rỗng, nhưng họ rất nhạy cảm đối với khuôn mặt Chúa Giêsu khi Người được trình bày một cách hấp dẫn và hữu hiệu” [14]. Do đó, Giáo Hội không nên quá bận tâm về chính mình mà trên hết, phải phản ảnh Chúa Giêsu Kitô. Điều này có nghĩa: khiêm tốn nhìn nhận một số điều cần phải thay đổi một cách cụ thể, và nếu điều này xảy ra, Giáo Hội cần đánh giá cao viễn kiến và cả các lời chỉ trích của người trẻ.

40. Thượng hội đồng công nhận rằng, “một số lượng đáng kể người trẻ, vì mọi lý do, không yêu cầu Giáo hội bất cứ điều gì vì họ không thấy Giáo hội có ý nghĩa đối với cuộc sống của họ. Một số người thậm chí còn yêu cầu được để yên, vì họ thấy sự hiện diện của Giáo hội là một phiền toái, thậm chí là một điều gây khó chịu. Yêu cầu này không phải luôn luôn phát xuất từ sự khinh miệt không phê phán hoặc bốc đồng. Nó cũng có thể có những lý do nghiêm túc và dễ hiểu: các tai tiếng tình dục và tài chính; giáo sĩ không được chuẩn bị đầy đủ để tham gia hữu hiệu vào các nhạy cảm của giới trẻ; thiếu quan tâm trong việc sọan và trình bầy Lời Chúa; vai trò thụ động được giao cho giới trẻ trong cộng đồng Kitô giáo; khó khăn của Giáo Hội trong việc giải thích các lập trường tín lý và đạo đức của mình cho xã hội đương thời” [15].

41. Mặc dù nhiều người trẻ rất vui khi thấy một Giáo hội khiêm tốn nhưng tự tin vào các hồng phúc của mình và có khả năng cung ứng những lời chỉ trích công bằng và huynh đệ, nhiều người khác muốn có một Giáo hội biết lắng nghe nhiều hơn, làm nhiều điều hơn thay vì chỉ đơn giản lên án thế giới. Họ không muốn thấy một Giáo hội im lặng và sợ sệt lên tiếng, nhưng không phải là một Giáo hội luôn luôn tranh đấu một cách đầy ám ảnh trong hai hoặc ba vấn đề. Để được đáng tin cậy đối với những người trẻ, có những lúc Giáo hội cần lấy lại được sự khiêm nhường của mình và cần lắng nghe, nhìn nhận rằng những gì người khác nói có thể cung cấp một chút ánh sáng nào đó giúp Giáo hội hiểu Tin Mừng tốt hơn. Một Giáo hội luôn luôn ở thế phòng thủ, mất đi sự khiêm nhường của mình và ngưng lắng nghe người khác, không dành chỗ cho các câu hỏi, đánh mất tuổi trẻ của mình và biến thành một viện bảo tàng. Như thế, làm thế nào, Giáo Hội có thể đáp ứng các giấc mơ của người trẻ? Cho dù Giáo hội có sở hữu được sự thật của Tin Mừng đi nữa, điều đó không có nghĩa là Giáo hội đã hoàn toàn hiểu được nó; đúng hơn, Giáo hội được kêu gọi tiếp tục lớn lên trong việc nắm bắt kho báu vô tận này. [16]

42. Ví dụ, một Giáo hội quá sợ hãi và bị cột chặt vào các cơ cấu của nó có thể liên tục chỉ trích các nỗ lực nhằm bảo vệ các quyền của phụ nữ và liên tục chỉ ra những rủi ro và sai sót tiềm tàng của những yêu cầu này. Thay vào đó, một Giáo hội sống động có thể phản ứng bằng cách lưu ý đến các yêu sách chính đáng của phụ nữ muốn tìm công bằng và bình đẳng nhiều hơn. Một Giáo hội sống động có thể nhìn lại lịch sử và thừa nhận một phần quả mình sai lầm trong chủ nghĩa toàn trị, thống trị nam giới, nhiều hình thức nô dịch, lạm dụng và bạo lực tình dục. Với quan điểm này, Giáo hội có thể ủng hộ lời kêu gọi tôn trọng nữ quyền, và cung hiến sự hỗ trợ đầy thuyết phục cho tính hỗ tương lớn hơn giữa nam và nữ, dù không nhất trí với mọi điều được một số nhóm nữ quyền đề xuất. Dọc theo những đường hướng này, Thượng hội đồng đã tìm cách đổi mới cam kết của Giáo hội “chống lại mọi sự kỳ thị và bạo lực dựa trên cơ sở tính dục” [17]. Đây là đáp ứng của một Giáo hội biết giữ cho mình trẻ trung và cho phép bản thân được thách thức và thúc đẩy bởi sự nhạy cảm của người trẻ”.

Maria, người phụ nữ trẻ của Nadarét

43. Mẹ Maria tỏa sáng ngay tại trung tâm Giáo hội. Đức Mẹ là hình mẫu tối cao cho một Giáo hội trẻ trung tìm cách bước theo Chúa Kitô với lòng nhiệt tình và sự ngoan ngoãn. Khi còn rất trẻ, Đức Mẹ đã chấp nhận sứ điệp của thiên thần, nhưng Đức Mẹ không ngại đặt câu hỏi (x. Lc 1, 34). Với trái tim và linh hồn rộng mở, Đức Mẹ trả lời, “này, tôi là nữ tỳ của Chúa” (Lc 1:38).

44. “Chúng ta luôn bỡ ngỡ trước sức mạnh của tiếng ‘xin vâng’ của cô gái trẻ Maria, sức mạnh của những lời ‘xin hãylàm cho tôi’ mà ngài đã nói với thiên thần đó. Đây không chỉ là sự chấp nhận thụ động hay cam chịu, hay một tiếng ‘xin vâng’ yếu xìu như thể muốn nói ‘thôi thì hãy thử xem sao’. Đức Mẹ không biết những lời đó, ‘hãy thử xem sao’. Ngài đã quyết tâm; ngài biết điều này có nghĩa gì và ngài nói, ‘xin vâng’, không cần suy nghĩ hai lần. Tiếng xin vâng của ngài là tiếng xin vâng của một người sẵn sàng dấn thân, một người sẵn lòng mạo hiểm, sẵn sàng đánh cuộc mọi thứ ngài có, không có gì chắc chắn hơn là biết rằng ngài là người mang một lời hứa Vì vậy, tôi hỏi mỗi người trong các bạn: bạn có coi mình là người mang một lời hứa hay không? Lời hứa nào hiện diện trong trái tim tôi mà tôi có thể đảm nhận? Sứ mệnh của Mẹ Maria chắc chắn sẽ khó khăn, nhưng các thách thức không phải là lý do để nói ‘không’. Tất nhiên sự việc sẽ trở nên phức tạp, nhưng không giống như cách lúc sự hèn nhát làm chúng ta tê liệt vì sự việc biết trước là không rõ ràng hoặc không chắc chắn. Đức Maria đã không mua bảo hiểm! Ngài đã mạo hiểm, và vì lý do này, ngài mạnh mẽ, ngài là một ‘người gây ảnh hưởng’, ‘người gây ảnh hưởng’ của Thiên Chúa. Tiếng ‘xin vâng của ngài và mong muốn phục vụ của ngài mạnh mẽ hơn bất cứ nghi ngờ hay khó khăn nào’”. [18]

45. Không chịu trốn tránh hay ảo tưởng, ngài “đã đồng hành với sự đau khổ của Con mình; ngài hỗ trợ Người bằng ánh mắt và bảo vệ Người bằng trái tim. Ngài chia sẻ nỗi khổ của Người, nhưng không bị nó áp đảo. Ngài là người phụ nữ mạnh mẽ đã thốt ra tiếng xin vâng, người hỗ trợ và đồng hành, bảo vệ và ôm ẵm. Ngài là người bảo vệ tuyệt vời niềm hy vọng… Từ ngài, chúng ta học được cách nói ‘xin vâng’ trước sự bền bỉ chịu đựng và tính sáng tạo của những người, không nản lòng, luôn sẵn sàng để bắt đầu lại một lần nữa” [19].

46. Đức Maria là một phụ nữ trẻ có trái tim tràn ngập niềm vui (x. Lc 1,47), có đôi mắt, phản chiếu ánh sáng của Chúa Thánh Thần, nhìn đời bằng đức tin và trân qúi giữ gìn mọi điều trong trái tim trẻ trung của mình (x. Lc 2 : 19,51). Ngài tràn đầy năng lực, sẵn sàng lên đường ngay lập tức một khi biết rằng người chị em họ của mình cần mình. Ngài đã không nghĩ tới các kế hoạch của riêng mình, nhưng đã “vội vã” lên đường, đến vùng đồi núi (Lc 1, 39).

47. Khi con trai nhỏ của ngài cần được bảo vệ, Đức Maria đã lên đường cùng Thánh Giuse đến một vùng đất xa xôi (x. Mt 2: 13-14). Ngài cũng tham gia với các môn đệ khi chờ đợi sự tuôn đổ của Chúa Thánh Thần (xem Cv 1:14). Với sự hiện diện của ngài, một Giáo hội trẻ đã ra đời, khi các tông đồ lên đường hạ sinh một thế giới mới (xem Cv 2: 4-11).

48. Ngày nay, Đức Maria là người Mẹ luôn chăm sóc chúng ta, những đứa con của ngài, trên hành trình xuyên qua cuộc đời, thường mệt mỏi và thiếu thốn, lo lắng để ánh sáng hy vọng không bị dập tắt. Vì đó là mong muốn của chúng ta: rằng ánh sáng của hy vọng không bao giờ bị dập tắt. Đức Maria Mẹ của chúng ta hướng nhìn dân lữ hành này: một dân trẻ trung mà ngài yêu thương và tìm kiếm ngài trong sự im lặng của trái tim họ giữa mọi ồn ào, huyên thuyên và sao lãng của cuộc lữ hành. Dưới ánh mắt của Mẹ chúng ta, chỉ còn chỗ cho sự im lặng của hy vọng. Do đó Đức Maria chiếu sáng tuổi trẻ của chúng ta.

Các thánh trẻ

49. Trái tim Giáo hội cũng đầy những vị thánh trẻ đã hiến mạng sống mình cho Chúa Kitô, nhiều người trong số các ngài thậm chí đã chết cái chết tử vì đạo. Các ngài là những phản chiếu quý giá của Chúa Kitô trẻ trung; chứng tá rạng rỡ của các ngài khuyến khích chúng ta và đánh thức chúng ta khỏi sự thờ ơ của chúng ta. Thượng hội đồng chỉ ra rằng, “nhiều vị thánh trẻ đã để cho các đặc điểm của tuổi trẻ tỏa sáng trong mọi vẻ đẹp của chúng, và vào thời của các ngài, các ngài đã là những tiên tri thực sự của sự thay đổi. Gương sáng của các ngài cho thấy những gì người trẻ có khả năng thực hiện, khi họ mở lòng ra để gặp gỡ Chúa Kitô” [20].

50. “Qua sự thánh thiện của giới trẻ, Giáo hội có thể đổi mới nhiệt tâm thiêng liêng và sức sống tông đồ của mình. Dầu thơm thánh thiện phát sinh từ cuộc sống tốt đẹp của rất nhiều người trẻ có thể chữa lành các vết thương của Giáo hội và thế giới, đưa chúng ta trở lại với tình yêu viên mãn mà chúng ta luôn được mời gọi hướng tới: những vị thánh trẻ gợi hứng để chúng ta trở về với tình yêu đầu tiên của chúng ta (xem Kh 2: 4) [21]. Một số vị thánh không bao giờ tới tuổi trưởng thành, nhưng họ đã cho chúng ta thấy có một cách khác để sống tuổi trẻ của chúng ta. Chúng ta hãy nhớ lại ít nhất một vài vị trong số các ngài, mỗi vị theo cách riêng của mình và ở các giai đoạn lịch sử khác nhau, đã sống cuộc sống thánh thiện:

51. Vào thế kỷ thứ ba, Thánh Sebastian là một đội trưởng trẻ của Đội cận vệ Praetorian. Người ta nói rằng ngài đã liên tục nói về Chúa Kitô và cố gắng làm các đồng đội của mình trở lại, đến mức ngài được lệnh phải từ bỏ đức tin. Vì từ khước, ngài bị bắn bằng mũi tên, nhưng ngài sống sót và tiếp tục công bố Chúa Kitô một cách không sợ hãi. Cuối cùng, Sebastian bị đánh cho đến chết.

52. Thánh Phanxicô Assisi, khi còn rất trẻ và đầy những giấc mơ vĩ đại, đã nghe lời kêu gọi của Chúa Giêsu trở nên nghèo như Người và xây dựng lại Giáo hội bằng chứng tá của ngài. Ngài vui mừng từ bỏ tất cả những gì mình có và giờ đây là vị thánh của tình huynh đệ phổ quát, anh em của mọi người. Ngài ca ngợi Chúa vì tạo vật của Người. Thánh Phanxicô mất năm 1226.

53. Thánh Gioan Arc sinh năm 1412. Bà là một cô gái nông dân trẻ, mặc dù có những năm tháng dịu dàng, đã chiến đấu để bảo vệ nước Pháp khỏi những kẻ xâm lược. Bị hiểu lầm vì thái độ, hành động và cách sống đức tin của bà, Gioan đã bị thiêu sống.

54. Chân phúc Anrê Phú Yên là một chàng trai trẻ người Việt ở thế kỷ XVII. Ngài là một giáo lý viên và trợ giúp các nhà truyền giáo. Ngài bị cầm tù vì đức tin, và vì không chịu từ bỏ nó, ngài đã bị giết. Anrê chết khi thốt ra tên Chúa Giêsu.

55. Cũng trong thế kỷ đó, Thánh Kateri Tekakwitha, một người trẻ bản địa Bắc Mỹ, đã bị bức hại vì đức tin của mình và, để trốn thoát, đã đi bộ hơn ba trăm kilômét trong vùng hoang dã. Kateri tận hiến cho Chúa và chết trong khi nói, “Lạy Chúa Giêsu, con yêu Chúa!”

56. Thánh Đaminh Savio dâng tất cả những đau khổ của mình cho Đức Maria. Khi Thánh Gioan Bosco dạy ngài rằng sự thánh thiện hệ ở việc luôn vui vẻ, ngài đã mở lòng ra đón nhận một niềm vui lây lan. Ngài muốn gần gũi với người trẻ bị bỏ rơi và yếu đuối nhất. Đaminh qua đời năm 1857 lúc mười bốn tuổi, khi chết nói rằng: “Tôi đang trải nghiệm một điều kỳ diệu xiết bao!”

57. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu sinh năm 1873. Năm mười lăm tuổi, vượt qua nhiều khó khăn, bà đã thành công gia nhập tu viện Camêlô. Thánh Têrêxa sống theo con đường bé nhỏ hoàn toàn tin tưởng vào tình yêu của Chúa và quyết tâm dùng lời cầu nguyện quạt cho ngọn lửa tình yêu bùng cháy trong lòng Giáo hội.

58. Chân phúc Ceferino Namuncurá là một người Á Căn Đình trẻ tuổi, con trai của người đứng đầu một bộ lạc xa xôi của người bản địa. Ngài trở thành một chủng sinh Salêdiêng, tràn đầy ước mong trở về bộ lạc của mình, mang Chúa Kitô đến với họ. Ceferino chết năm 1905.

59. Chân phúc Isidore Bakanja là một giáo dân từ Congo, làm chứng cho đức tin của mình. Ngài đã bị tra tấn rất lâu vì đã đề xuất Kitô giáo cho những người trẻ khác. Tha thứ cho tên đao phủ của mình, Isidore chết năm 1909.

60. Chân phúc Giorgio Frassati, người qua đời năm 1925, “là một chàng trai trẻ tràn đầy niềm vui, lôi cuốn mọi điều theo với nó, một niềm vui thắng vượt cả nhiều khó khăn trong cuộc sống của ngài” [22]. Pier Giorgio nói rằng ngài muốn đáp trả tình yêu Chúa Giêsu mà ngài đã nhận được trong việc hiệp lễ bằng cách đến thăm và giúp đỡ người nghèo.

61. Chân phúc Marcel Callo là một chàng trai trẻ người Pháp đã chết năm 1945. Marcel bị giam cầm trong một trại tập trung ở Áo, nơi ngài củng cố các bạn tù của mình trong đức tin giữa lúc lao động khắc nghiệt.

62. Chân phúc trẻ Chiara Badano, người đã chết năm 1990, “đã trải nghiệm nỗi đau có thể biến đổi như thế nào bởi tình yêu… Chìa khóa của sự bình an và niềm vui của bà là niềm tín thác hoàn toàn vào Chúa và sự chấp nhận bệnh tật của bà như một biểu thức mầu nhiệm của ý chí Người vì lợi ích của bà và của những người khác” [23].

63. Xin các vị này và rất nhiều người trẻ khác, những người có lẽ trong im lặng và ẩn dật đã sống Tin Mừng trọn vẹn, cầu bầu cho Giáo hội, để Giáo hội có thể tràn đầy niềm vui, can đảm và những người trẻ dấn thân, những người có thể cung hiến cho thế giới những chứng từ thánh thiện mới mẻ.

CHƯƠNG BA: Các bạn là “lúc bây giờ” của Chúa

64. Sau khi ngắn gọn xem xét lời Chúa, chúng ta không thể chỉ nói rằng người trẻ là tương lai của thế giới chúng ta. Họ là hiện tại của nó; ngay cả bây giờ, họ đang giúp làm giàu nó. Người trẻ không còn là trẻ con. Họ đang ở thời điểm của cuộc sống lúc họ bắt đầu đảm nhận một số trách nhiệm, tham dự cùng với người lớn vào sự phát triển gia đình, xã hội và Giáo hội. Tuy nhiên, thời thế đang thay đổi, khiến chúng ta phải đặt câu hỏi: Người trẻ ngày nay thực sự là thế nào? Điều gì đang diễn ra trong cuộc sống của họ?

Trong các điều tích cực

65. Thượng hội đồng nhìn nhận rằng các thành viên của Giáo hội không phải lúc nào cũng tiếp nhận cách tiếp cận của Chúa Giêsu. Thay vì lắng nghe các người trẻ một cách chăm chú, thì quá thường xuyên, có xu hướng cung cấp các câu trả lời đóng gói sẵn và các giải pháp làm sẵn, mà không cho phép các câu hỏi thực sự của họ được nêu ra và đối đầu với các thách thức mà họ đặt ra. [24] Tuy nhiên, một khi Giáo hội gạt bỏ các định kiến hẹp hòi và lắng nghe giới trẻ một cách cẩn thận, sự đồng cảm (empathy) này làm phong phú thêm cho Giáo hội, vì “nó cho phép người trẻ đóng góp cho cộng đồng, giúp họ đánh giá cao các nhạy cảm mới và xem xét các câu hỏi mới” [25 ].

66. Người lớn chúng ta thường bị cám dỗ muốn liệt kê mọi nan đề và sai sót của người trẻ ngày nay. Có lẽ một số người còn thấy đáng khen khi chúng ta dường như rất có chuyên môn trong việc biện phân các khó khăn và nguy hiểm. Nhưng kết quả của một thái độ như vậy là chi? Khoảng cách lớn hơn, ít gần gũi hơn, ít hỗ trợ lẫn nhau hơn.

67. Bất cứ ai được kêu gọi làm cha, mục tử và người hướng dẫn tuổi trẻ phải có tầm nhìn xa để đánh giá cao ngọn lửa nho nhỏ tiếp tục bùng cháy, cây sậy mỏng manh bị lúc lắc nhưng không bị đập gẫy (xem Is 42:3). Khả năng biện phân được đường đi ở chỗ các người khác chỉ nhìn thấy các bức tường, nhận ra tiềm năng ở chỗ các người khác chỉ nhìn thấy hiểm họa. Đó là cách Thiên Chúa Cha nhìn sự vật; Người biết cách trân trọng và nuôi dưỡng các hạt giống của lòng tốt gieo trong lòng người trẻ. Do đó, cõi lòng mỗi người trẻ nên được coi là “mảnh đất thánh thiêng, mang hạt giống sự sống thần thiêng, mà trước nó, chúng ta phải cởi giày của mình ra mới có thể đến gần và bước vào Mầu Nhiệm sâu hơn.

Nhiều cách để trẻ trung

68. Chúng ta dám cố gắng vẽ ra một bức tranh của người trẻ ngày nay, nhưng trước tiên, tôi muốn nhắc lại lời các nghị phụ; các ngài từng lưu ý rằng “thành phần Thượng Hội Đồng mang lại sự hiện diện và đóng góp của nhiều khu vực khác nhau trên thế giới, và làm nổi bật vẻ đẹp của việc chúng ta là một Giáo hội hoàn vũ. Trong bối cảnh hoàn cầu hóa ngày càng gia tăng, các nghị phụ Thượng Hội Đồng muốn thấy nhiều sự khác biệt về bối cảnh và văn hóa, cả trong các quốc gia cá thể, được nhấn mạnh một cách thích đáng. Các thế giới ‘tuổi trẻ’ ngày nay nhiều đến nỗi ở một số quốc gia, người ta có xu hướng nói đến ‘các người trẻ’ ở số nhiều. Nhóm tuổi (16-29 tuổi) được Thượng hội đồng xem xét không đại diện cho một thể loại đồng nhất, nhưng bao gồm các nhóm khác biệt, mỗi nhóm có trải nghiệm cuộc sống riêng của mình [26].

69. Lại nữa, do quan điểm nhân khẩu học, một số quốc gia có nhiều người trẻ tuổi, trong khi các nước khác có tỷ lệ sinh rất thấp. Một nhân tố dị biệt hóa nữa có tính lịch sử: có các quốc gia và lục địa thuộc truyền thống Kitô giáo cổ xưa, với một nền văn hóa được đánh dấu hết sức sâu đậm bởi một ký ức không dễ dàng bị gạt bỏ, trong khi các quốc gia và lục địa khác được đặc trưng bởi các truyền thống tôn giáo khác, trong đó Kitô giáo chỉ là một hiện diện thiểu số – và đôi khi mới có đây. Lại ở các nơi khác, các cộng đồng Kitô giáo và các người trẻ thuộc các cộng đồng này, đang kinh qua cuộc bách hại [27]. Cũng cần phải phân biệt các người trẻ “được tiếp cận với các cơ hội ngày càng tăng do hoàn cầu hóa mang lại với các người trẻ sống ở rìa xã hội hoặc ở các khu vực nông thôn, và thấy mình bị loại trừ hoặc bị vứt bỏ” [28].

70. Có nhiều sự khác biệt hơn nữa, các khác biệt khó khảo sát ở đây. Dù sao, tôi thấy không cần phải phân tích chi tiết về người trẻ ngày nay, cuộc sống và kinh nghiệm của họ. Đồng thời, vì tôi không muốn bỏ qua thực tại đó, tôi sẽ tóm tắt ngắn gọn một số đóng góp nhận được trước Thượng hội đồng và các nơi khác tôi đã nghe được trong diễn trình hội họp.

Một số kinh nghiệm của người trẻ

71. Tuổi trẻ không phải là một điều để phân tích một cách trừu tượng. Thật vậy, ‘tuổi trẻ’ không hiện hữu: chỉ hiện hữu các người trẻ tuổi, mỗi người với thực tại cuộc sống của chính họ. Trong thế giới thay đổi nhanh chóng ngày nay, nhiều cuộc đời này phải giáp mặt với đau khổ và thao túng.

Sống trong một thế giới khủng hoảng

72. Các nghị phụ Thượng hội đồng thừa nhận với nỗi buồn rằng nhiều người trẻ ngày nay đang sống trong các vùng chiến tranh và kinh qua bạo lực dưới man vàn hình thức khác nhau: bắt cóc, tống tiền, tội phạm có tổ chức, buôn bán người, nô lệ và bóc lột tình dục, hiếp dâm thời chiến, v.v. Các người trẻ khác, vì đức tin của họ, đang phải đấu tranh để tìm được chỗ đứng trong xã hội và chịu đựng nhiều loại bách hại, thậm chí bị giết. Nhiều người trẻ, bất kể bằng vũ lực hay vì thiếu các phương thức thay thế, đang sống bằng cách phạm tội ác và các hành vi bạo lực: lính trẻ em, băng đảng tội phạm có vũ trang, buôn bán ma túy, khủng bố, vân vân. Bạo lực này phá hủy nhiều cuộc sống trẻ. Lạm dụng và nghiện ngập, cùng với bạo lực và hành vi sai trái, là một số lý do khiến người trẻ vào tù, với tỷ lệ mắc bệnh cao hơn ở một số nhóm sắc tộc và xã hội nhất định [29].

73. Nhiều người trẻ tuổi bị cuốn theo ý thức hệ, được sử dụng và khai thác làm bia đỡ đạn hoặc lực lượng xung kích nhằm tiêu diệt, khủng bố hoặc chế giễu người khác. Tệ hơn nữa, nhiều người trong số họ kết cục thành các người theo chủ nghĩa cá nhân, thù địch và không tin tưởng vào người khác; bằng cách này, họ trở thành một mục tiêu dễ dàng cho các chiến lược tàn bạo và phá hoại của các nhóm chính trị hoặc các thế lực kinh tế.

74. “Lại còn nhiều người hơn nữa trên thế giới là các người trẻ chịu các hình thức bị đẩy ra bên lề và loại trừ về phương diện xã hội, vì các lý do tôn giáo, sắc tộc hoặc kinh tế. Ta hãy nhớ đến hoàn cảnh khó khăn của các thiếu nữ và thiếu phụ mang thai, đại họa phá thai, cũng như sự lây lan của HIV, các hình thức nghiện ngập khác nhau (ma túy, trò chơi may rủi, văn hóa khiêu dâm, v.v.) và tình trạng các trẻ em và thanh thiếu niên đường phố không nhà, không gia đình, không tài nguyên kinh tế” [30]. Trong trường hợp phụ nữ, các tình huống này càng đau đớn và khó khăn gấp đôi.

75. Là một Giáo hội, ước chi chúng ta đừng bao giờ không khóc trước các bi kịch này của tuổi trẻ. Ước chi chúng ta không bao giờ trở nên vô cảm (inured) đối với chúng, vì bất cứ ai không có khả năng rơi nước mắt đều không thể làm mẹ. Chúng ta muốn khóc để xã hội có thể trở thành một người mẹ, để thay vì sát hại, nó có thể học cách sinh con, trở thành một lời hứa ban sự sống. Chúng ta khóc khi nghĩ đến tất cả các người trẻ đã mất mạng vì nghèo đói và bạo lực, và chúng ta yêu cầu xã hội học cách trở thành một người mẹ biết chăm sóc. Không nỗi đau nào này biến mất; nó ở lại với chúng ta, vì thực tại khắc nghiệt không còn có thể được che giấu mãi nữa. Điều tồi tệ nhất chúng ta có thể làm là tiếp nhận tinh thần thế gian mà giải pháp đơn giản là gây mê cho các người trẻ bằng các thông điệp khác, các tiêu khiển khác, các mưu cầu tầm thường.

76. Có lẽ “nhiều người trong chúng ta có một cuộc sống khá thoải mái nên không biết cách khóc. Một số thực tại trong cuộc sống chỉ được nhìn thấy bằng đôi mắt được rửa sạch bằng nước mắt. Tôi muốn mỗi bạn tự hỏi mình câu hỏi này: Tôi có thể khóc không? Tôi có thể khóc khi nhìn thấy một đứa trẻ đói lả, dùng ma túy hoặc ở đường phố, vô gia cư, bị bỏ rơi, bị ngược đãi hoặc bị bóc lột như một nô lệ của xã hội không? Hay là cái khóc của tôi chỉ là cái khóc rên rỉ vị kỷ của các người khóc vì họ muốn một điều gì khác?”[31]. Các bạn hãy cố gắng học cách khóc cho tất cả người trẻ kém may mắn hơn các bạn. Khóc cũng là một biểu hiệu của lòng thương xót và cảm thương. Nếu nước mắt không đến, các bạn hãy cầu xin Chúa ban cho các bạn ơn có thể khóc cho các đau khổ của người khác. Một khi các bạn có thể khóc, thì các bạn sẽ có thể giúp đỡ người khác từ tận đáy lòng.

77. Đôi khi, nỗi đau của một số bạn trẻ có tính xé lòng, một nỗi đau quá sâu vượt quá lời nói. Họ chỉ có thể nói với Thiên Chúa họ đau khổ đến mức nào, và đi tiếp là điều khó khăn xiết bao đối với họ, vì họ không còn tin vào bất cứ ai nữa. Tuy nhiên, trong lời cầu than thở đau buồn đó, lời lẽ của Chúa Giêsu vang lên rõ rệt: “Phúc thay các người than khóc, vì họ sẽ được an ủi” (Mt 5: 4). Một số người trẻ nam nữ đã có thể tiến về phía trước vì họ nghe thấy lời hứa thần thiêng này. Ước chi mọi người trẻ nào đang đau khổ cảm thấy sự gần gũi của một cộng đồng Kitô giáo có thể phản ánh các lời nói đó bằng hành động, bằng ôm ấp và giúp đỡ cụ thể của họ.

78. Đúng là các người nắm quyền có cung cấp một số trợ giúp, nhưng thường thì sự trợ giúp này phải trả giá cao. Ở nhiều nước nghèo, viện trợ kinh tế do một số nước giàu hơn hoặc các cơ quan quốc tế cung cấp thường gắn liền với việc phải chấp nhận các quan điểm của phương Tây về tình dục, hôn nhân, sự sống hoặc công bằng xã hội. Chính sách thực dân ý thức hệ này đặc biệt có hại cho người trẻ. Chúng ta cũng thấy một loại quảng cáo nào đó đang dạy cho người trẻ vĩnh viễn không hài lòng và đóng góp vào nền văn hóa vứt bỏ, trong đó chính các người trẻ kết cục bị loại bỏ.

79. Nền văn hóa ngày nay của chúng ta khai thác hình ảnh người trẻ. Vẻ đẹp được liên kết với vẻ trẻ trung bề ngoài, phương pháp điều trị thẩm mỹ che giấu các vết nhăn thời gian. Các thân thể trẻ liên tục được quảng cáo như phương tiện bán sản phẩm. Lý tưởng của cái đẹp là tuổi trẻ, nhưng chúng ta cần hiểu ra rằng điều này có rất ít liên quan đến các người trẻ. Nó chỉ có nghĩa là người lớn muốn cướp tuổi trẻ cho chính họ, chứ họ không tôn trọng, yêu thương và chăm sóc người trẻ.

80. Một số người trẻ “thấy các truyền thống gia đình có tính áp bức và họ chạy trốn chúng dưới sự thúc đẩy của một nền văn hóa hoàn cầu hóa mà đôi khi khiến họ không còn điểm tham chiếu nào. Ở các nơi khác trên thế giới, thậm chí còn hơn cả xung đột thế hệ giữa người trẻ và người trưởng thành, có sự ghẻ lạnh lẫn nhau. Đôi khi người lớn quên, hoặc thậm chí không cố gắng, trao lại các giá trị căn bản của cuộc sống hoặc họ cố gắng bắt chước người trẻ, do đó đảo ngược mối liên hệ giữa các thế hệ. Do đó, mối liên hệ giữa người trẻ và người trưởng thành có nguy cơ nằm lại ở bình diện xúc cảm, khiến các khía cạnh giáo dục và văn hóa của nó không được bàn luận” [32]. Điều này gây hại cho người trẻ, mặc dù một số không lưu ý đến nó! Chính các người trẻ đã nhận xét rằng điều này khiến việc truyền tải đức tin trở nên vô cùng khó khăn như thế nào “tại một số quốc gia không có tự do ngôn luận, nơi người trẻ bị ngăn chặn, không được tham dự Giáo Hội” [33].

Thèm muốn, mếch lòng và hoài mong

81. Người trẻ ý thức được rằng cơ thể và tính dục có một tầm quan trọng thiết yếu đối với cuộc sống của họ và cho diễn trình tăng trưởng bản sắc của họ. Tuy nhiên, trong một thế giới liên tục đề cao tính dục, việc duy trì mối liên hệ lành mạnh với cơ thể một người và một cuộc sống xúc cảm thanh thản là điều không dễ dàng. Vì lý do này và các lý do khác, luân lý tính dục thường có xu hướng trở thành nguồn gốc của “việc không hiểu và xa lánh Giáo hội, bao lâu Giáo hội bị coi như một nơi phán xét và lên án”. Tuy nhiên, người trẻ cũng bày tỏ “mong muốn minh nhiên được thảo luận các câu hỏi liên quan đến sự khác biệt giữa bản sắc nam và nữ, tính tương hỗ giữa nam và nữ và đồng tính luyến ái”[34].

82. Trong thời đại chúng ta, “các tiến bộ trong khoa học và trong các kỹ thuật y sinh đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tri nhận về cơ thể, dẫn tới ý tưởng cho rằng nó bỏ ngỏ cho việc sửa đổi không giới hạn. Khả năng can thiệp vào DNA, khả năng chèn các yếu tố nhân tạo vào các sinh vật (cyborg) và việc phát triển của khoa học thần kinh đại diện cho một nguồn tài nguyên lớn lao, nhưng đồng thời chúng cũng đặt ra các câu hỏi nghiêm trọng về nhân học và đạo đức [35]. Chúng có thể khiến chúng ta quên rằng sự sống là một quà phúc và chúng ta là các sinh vật có giới hạn bẩm sinh, thường bị khai thác bởi các người nắm giữ sức mạnh kỹ thuật [36]. Hơn nữa, trong một số giới trẻ, niềm đam mê ngày càng gia tăng đối với hành vi mạo hiểm như một phương tiện để tự khám phá, tìm kiếm các cảm xúc mạnh mẽ và thu hút chú ý… Các thực tại mà tuổi trẻ thường phải giáp mặt này, là các trở ngại đối với sự tăng trưởng thanh thản để trưởng thành” [37].

83. Người trẻ cũng đang kinh qua nhiều đình đốn, thất vọng và các ký ức đau đớn sâu xa. Thường thì họ cảm thấy “các tổn thương của thất bại quá khứ, các ham muốn không được thỏa mãn, các trải nghiệm kỳ thị và bất công, cảm thấy không được yêu thương và không được chấp nhận”. Rồi, có quá nhiều “các vết thương luân lý, gánh nặng của các sai lầm trong quá khứ, cảm giác tội lỗi vì đã phạm sai lầm” [38]. Chúa Giêsu làm cho sự hiện diện của Người được cảm nhận giữa các cây thánh giá được các người trẻ vác; Người ban cho họ tình bạn, sự an ủi và tình đồng hành đầy chữa lành của Người. Giáo hội muốn trở thành công cụ của Người trên nẻo đường dẫn tới chữa lành và bình an nội tâm này.

84. Ở một số người trẻ, chúng ta có thể thấy một niềm khao khát về Thiên Chúa, mặc dù vẫn còn mơ hồ và còn cách xa kiến thức về Thiên Chúa của mặc khải. Ở các người khác, chúng ta có thể thoáng thấy một lý tưởng về tình huynh đệ nhân bản, vốn là điều không nhỏ. Nhiều người có một nguyện ước chân chính muốn phát triển các tài năng của họ để cung ứng một điều gì đó cho thế giới của chúng ta. Ở một số người khác, chúng ta thấy một sự nhạy cảm nghệ thuật đặc biệt, hoặc khao khát được hòa hợp với thiên nhiên. Ở các người khác, có lẽ, một nhu cầu lớn muốn thông đạt. Nơi nhiều người trong số họ, chúng ta gặp một mong ước sâu sắc muốn sống một cuộc sống khác biệt. Trong tất cả các điều này, chúng ta có thể tìm thấy các khởi điểm thực sự, nguồn lực bên trong sẵn sàng đón nhận một lời kích thích, khôn ngoan và khuyến khích.

85. Thượng hội đồng đã xử lý cách riêng ba lĩnh vực cực kỳ quan trọng. Ở đây, tôi muốn trích dẫn các kết luận của Thượng Hội Đồng, đồng thời nhìn nhận rằng chúng kêu gọi một cuộc phân tích lớn hơn và phát triển khả năng đáp ứng thỏa đáng và hữu hiệu hơn.

Môi trường kỹ thuật số

86. “Thế giới kỹ thuật số là đặc điểm của thế giới đương thời. Nhiều thành phần rộng lớn của nhân loại đắm chìm trong đó một cách bình thường và liên tục. Đây không chỉ là vấn đề ‘sử dụng’ các phương tiện truyền thông, mà là sống trong một nền văn hóa phần lớn được kỹ thuật số hóa, một nền văn hóa ảnh hưởng sâu sắc đến các ý niệm thời gian và không gian, nhận thức bản thân, người khác và thế giới, cách thế truyền thông, học hỏi, tự thông tri và bước vào tương quan với người khác. Cách tiếp cận thực tại có xu hướng dành ưu tiên cho hình ảnh hơn là việc nghe và đọc có tác động đến cách học và phát triển ý thức phê phán” [39].

87. Liên Mạng và các mạng lưới xã hội đã tạo ra một cách truyền đạt và kết nối mới. Chúng là “các quảng trường công cộng nơi người trẻ sống nhiều thì giờ và gặp nhau dễ dàng, cho dù mọi người không được truy cập như nhau, đặc biệt ở một số nơi trên thế giới. Chúng cung cấp một cơ hội phi thường để đối thoại, gặp gỡ và trao đổi giữa nhiều người và cung cấp sự truy cập thông tin và kiến thức. Ngoài ra, thế giới kỹ thuật số là thế giới để tham gia chính trị xã hội và quyền công dân tích cực và nó có thể tạo điều kiện cho việc lưu hành luồng thông tin độc lập có khả năng bảo vệ hữu hiệu nhất các người dễ bị tổn thương nhất bằng cách tiết lộ giữa thanh thiên bạch nhật các vi phạm quyền lợi của họ. Ở nhiều quốc gia, liên mạng và các mạng xã hội còn đại diện cho một diễn đàn vững vàng để vươn tới và làm cho giới trẻ tham gia, đặc biệt là vào các sáng kiến và hoạt động mục vụ” [40].

88. Tuy nhiên, để hiểu toàn bộ hiện tượng này, chúng ta cần nhận ra rằng, giống như mọi thực tại của con người, nó có một số hạn chế và thiếu sót. Sẽ không có lợi khi nhầm lẫn giữa truyền thông và các tiếp xúc ảo. Thật vậy “Thế giới kỹ thuật số cũng là nơi cô đơn, thao túng, bóc lột và bạo lực, đến chỗ cực đoan là ‘các mạng đen tối’ (dark web). Phương tiện truyền thông kỹ thuật số có thể dẫn người ta đến chỗ nguy cơ nghiện ngập, cô lập và dần dần mất giao tiếp với thực tại cụ thể, cản trở việc phát triển các mối liên hệ liên ngã chân thực. Các hình thức bạo lực mới đang lan tràn qua các phương tiện truyền thông xã hội, chẳng hạn bắt nạt trực tuyến (cyber-byllying). Liên mạng cũng là một máng phân phối văn hóa khiêu dâm và khai thác con người cho các mục đích tình dục hoặc qua cờ bạc” [41].

89. Không nên quên rằng “các quyền lợi kinh tế to lớn cũng đang hoạt động trong thế giới kỹ thuật số, với khả năng thực hành các hình thức kiểm soát vừa tinh vi vừa xâm lấn, tạo ra các cơ chế để thao túng lương tâm và các diễn trình dân chủ. Việc vận hành của nhiều hệ điều hành thường kết thúc bằng việc khuyến khích sự gặp gỡ giữa các người có suy nghĩ như nhau, ngăn chặn họ tranh luận. Các mạch khép kín này tạo điều kiện cho việc phổ biến thông tin sai lệch và tin tức sai lệch, xúi giục định kiến và thù hận. Việc phổ biến các tin tức giả nói lên một nền văn hóa đã đánh mất ý thức về sự thật và bắt các sự kiện lệ thuộc các quyền lợi riêng. Danh tiếng của người ta bị đe dọa bởi các bản tóm lược vụ kiện trên trực tuyến. Giáo hội và các mục tử của Giáo Hội cũng không được miễn trừ hiện tượng này” [42].

90. Một tài liệu được chuẩn bị vào trước ngày Thượng hội đồng bởi ba trăm người trẻ trên toàn thế giới đã chỉ ra rằng “các mối liên hệ trực tuyến có thể trở thành vô nhân đạo”. Các không gian kỹ thuật số làm chúng ta đui mù trước sự dễ bị tổn thương của một con người nhân bản khác và ngăn chúng ta tự phản tỉnh. Các vấn đề như văn hóa khiêu dâm làm méo mó tri nhận của người trẻ về tính dục của con người. Kỹ thuật được sử dụng theo cách này tạo ra một thực tại ảo tưởng song song mà bỏ qua phẩm giá con người. [43] Đối với nhiều người, việc chìm đắm trong thế giới ảo đã tạo điều kiện cho một loại “di cư kỹ thuật số”, liên quan đến việc rút khỏi gia đình của họ và các giá trị văn hóa và tôn giáo của họ, và bước vào một thế giới cô đơn và tự phát minh, với kết quả là họ cảm thấy mất gốc ngay trong khi vẫn còn ở một nơi về phương diện thể lý. Cuộc sống tươi mới và vui vẻ của những người trẻ muốn khẳng định nhân cách của họ ngày nay đang phải đương đầu với một thách thức mới: đó là thách thức tương tác với một thế giới thực và ảo mà họ bước vào một mình, như thể đặt chân lên một lục địa hoàn cầu chưa được khám phá. Giới trẻ ngày nay là các người đầu tiên phải thực hiện việc tổng hợp này giữa điều gì là bản thân, điều gì là khác biệt với nền văn hóa liên hệ của họ và điều gì có tính hoàn cầu. Việc này có nghĩa là họ phải tìm ra cách vượt từ một tiếp xúc ảo qua một truyền thông tốt đẹp và lành mạnh.

Di dân như điển hình thời ta

91. Làm thế nào chúng ta có thể không nghĩ đến tất cả những người trẻ đang bị ảnh hưởng bởi các phong trào di cư? “Xét về bình diện hoàn cầu, di dân là một hiện tượng có tính cơ cấu chứ không phải một trường hợp khẩn cấp có tính tạm thời. Nó có thể xảy ra trong một quốc gia hoặc giữa các quốc gia khác nhau. Mối quan tâm của Giáo hội đặc biệt liên quan tới các người chạy trốn chiến tranh, bạo lực, bách hại chính trị hoặc tôn giáo, các thiên tai do biến đổi khí hậu và nghèo đói cùng cực. Nhiều người trong số họ là người trẻ. Nói chung, họ đang tìm kiếm cơ hội cho bản thân và cho gia đình họ. Họ mơ ước một tương lai tốt đẹp hơn và muốn tạo điều kiện để đạt được nó” (44). Di dân “nhắc nhở chúng ta khía cạnh nền tảng của đức tin, tức viêc chúng ta là “khách lạ và khách du trên trái đất” (Dt 11:13) (45).

92. Các di dân khác bị “thu hút bởi nền văn hóa phương Tây, đôi khi nuôi dưỡng các kỳ vọng không thực tế khiến họ thất vọng nặng nề. Các tay buôn người vô lương tâm, thường nối kết với các băng đảng ma túy và vũ khí, khai thác điểm yếu của các di dân, các người, trong suốt hành trình của họ, thường xuyên phải chịu thương tổn vì bạo lực, vì nạn buôn người, vì bị lạm dụng tâm lý và thậm chí cả thể lý nữa, và các đau khổ không kể xiết. Cũng không thể bỏ qua tính dễ bị tổn thương đặc biệt của các di dân không có người đi cùng và tình huống của các người bị buộc phải sống nhiều năm trong các trại tị nạn hoặc đã bị nhốt một thời gian dài tại các quốc gia quá cảnh, mà không thể tiếp tục theo đuổi việc học, hoặc sử dụng tài năng của họ. Ở một số quốc gia tiếp đón, hiện tượng di dân làm phát sinh sợ hãi và báo động, thường được xúi giục và khai thác cho các mục tiêu chính trị. Việc này có thể dẫn đến não trạng bài ngoại, vì người ta tự khép kín vào chính mình và chúng ta phải kiên quyết giải quyết điều này” (46).

93. “Người di dân trẻ cảm nghiệm cảnh cách ly với nơi nguyên quán của họ và thường cả việc mất gốc về văn hóa và tôn giáo. Sự phân mảnh cũng được cảm nhận nơi các cộng đồng họ bỏ lại sau lưng; các cộng đồng này mất đi các thành phần mạnh mẽ và năng nổ nhất của họ, và nơi các gia đình, đặc biệt khi một trong hai cha mẹ di cư, hoặc cả hai, để con cái họ ở lại quê nhà. Giáo hội có vai trò quan trọng làm điểm tham chiếu cho các người trẻ của các gia đình tan vỡ này. Nhưng các câu chuyện về di dân cũng là các câu chuyện về gặp gỡ giữa các con người và nền văn hóa: đối với cộng đồng và các xã hội chủ nhà, họ tượng trưng một cơ hội làm phong phú và phát triển con người toàn diện cho mọi người. Các sáng kiến tiếp đón có liên hệ với Giáo hội có một vai trò quan trọng trong quan điểm này và có thể mang lại sức sống mới để các cộng đồng này có năng lực đảm nhiệm chúng” (47).

94. “Vì các bối cảnh đa dạng của các nghị phụ Thượng hội đồng, cuộc thảo luận về người di cư được hưởng lợi từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, đặc biệt là từ các quốc gia đi và các quốc gia đến. Quan tâm nghiêm trọng cũng đã được phát biểu bởi các Giáo hội mà các thành viên cảm thấy buộc phải trốn thoát khỏi chiến tranh và bách hại và bởi các người khác, những người thấy mình bị đe doạ mạng sống nên buộc phải di dân. Chính sự kiện Giáo hội có thể chấp nhận tất cả các quan điểm đa dạng này cho phép Giáo hội đóng vai trò tiên tri trong xã hội liên quan đến vấn đề di dân”. [48] Một cách đặc biệt, tôi kêu gọi người trẻ đừng rơi vào tay các người nhắm đặt họ chống lại người trẻ khác, những người mới đến đất nước của họ, và là các người khuyến khích họ coi lớp người sau như một mối đe dọa và không sở đắc cùng một phẩm giá bất khả xâm phạm giống như mọi con người nhân bản khác.

Chấm dứt mọi hình thức lạm dụng

95. Gần đây, các lời kêu gọi khẩn cấp đã được đưa ra để chúng ta nghe tiếng khóc của các nạn nhân thuộc các loại lạm dụng khác nhau do một số giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân vi phạm. Các tội lỗi này khiến nạn nhân của họ “đau khổ có thể kéo dài suốt đời và không có sự ăn năn nào có thể chữa lành. Hiện tượng này phổ biến trong xã hội và nó cũng ảnh hưởng đến Giáo hội và đại diện cho một trở ngại nghiêm trọng đối với sứ mệnh của Giáo hội” [49].

96. Đúng là, “đại họa lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên là, và trong lịch sử đã là, một hiện tượng phổ biến trong mọi nền văn hóa và xã hội”, đặc biệt là trong các gia đình và trong các định chế khác nhau; phạm vi của nó đã trở nên nổi tiếng chủ yếu “nhờ vào các thay đổi trong công luận”. Dù thế, vấn đề này, trong khi có tính phổ quát và “ảnh hưởng nghiêm trọng đến xã hội của chúng ta như một toàn bộ… vẫn không có gì kém ghê gớm hơn khi nó diễn ra trong Giáo hội”. Thật vậy, “trong sự giận dữ chính đáng của người ta, Giáo hội thấy sự phản chiếu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, bị phản bội và xúc phạm” [50].

97. “Thượng Hội đồng tái khẳng định cam kết đưa ra đối với việc việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa nghiêm ngặt nhằm tránh tái diễn [các tội ác này], bắt đầu với việc lựa chọn và đào tạo các người được giao phó các bổn phận có trách nhiệm và giáo dục [51]. Đồng thời, cần nhắc lại quyết tâm áp dụng các “hành động và chế tài rất cần thiết” [52]. Và tất cả các điều này với ơn thánh của Chúa Kitô. Không thể có đường trở lui.

98. Lạm dụng có thể hiện hữu dưới nhiều hình thức: lạm dụng quyền lực, lạm dụng lương tâm, lạm dụng tình dục và tài chính. Rõ ràng, phải xóa bỏ các cách thức thực thi thẩm quyền khiến tất cả các điều này có thể diễn ra, và phải thách thức việc thiếu trách nhiệm và thiếu minh bạch đã diễn ra trong rất nhiều trường hợp xử lý. Mong muốn thống trị, thiếu đối thoại và minh bạch, các hình thức sống hai mặt, sự trống rỗng thiêng liêng, cũng như các điểm yếu về tâm lý, là mảnh đất để thối nát phát triển mạnh mẽ [53]. Chủ nghĩa giáo sĩ trị là một cám dỗ liên tục về phía các linh mục, những người coi “thừa tác vụ mà họ đã nhận được như một quyền lực phải thi hành, thay vì một phục vụ tự do và quảng đại phải cung ứng. Nó khiến chúng ta nghĩ rằng chúng ta thuộc về một nhóm người có mọi câu trả lời và không cần phải lắng nghe hoặc có bất cứ điều gì phải học hỏi [54]. Không nghi ngờ gì, chủ nghĩa giáo sĩ trị như vậy có thể làm cho các người thánh hiến mất đi lòng kính trọng đối với giá trị thánh thiêng và bất khả nhượng của mỗi con người và quyền tự do của họ.

99. Cùng với các nghị phụ Thượng hội đồng, tôi muốn cảm ơn, với lòng biết ơn và âu yếm, “những người có can đảm báo cáo sự ác mà họ đã phải kinh qua: họ giúp Giáo hội thừa nhận điều đã xảy ra và cần giải đáp dứt khoát” [55]. Lòng biết ơn đặc biệt cũng phải ngỏ cùng “cam kết quảng đại của vô số giáo dân, linh mục, các người thánh hiến nam nữ, và các giám mục, những người hàng ngày cống hiến hết mình và tận tụy phục vụ giới trẻ. Các nỗ lực của họ giống như một khu rừng lớn đang lặng lẽ phát triển. Nhiều người trẻ có mặt tại Thượng hội đồng cũng bày tỏ lòng biết ơn đến những ai đã đồng hành cùng họ và họ nhấn mạnh nhu cầu lớn cần có những người trưởng thành có thể đóng vai trò làm điểm tham chiếu” [56].

100. Tạ ơn Chúa, những người gây ra các tội ác khủng khiếp này không phải là đa số các linh mục, là những người thi hành thừa tác vụ của họ với lòng trung thành và rộng lượng. Tôi yêu cầu các người trẻ hãy để mình được gợi hứng bởi đại đa số này. Và nếu các bạn thấy một linh mục gặp nguy hiểm, vì ngài đã mất niềm vui trong thừa tác vụ của mình, hoặc tìm kiếm sự đền bù xúc cảm, hoặc đang đi sai đường, hãy nhắc nhở ngài nhớ đến cam kết của mình với Thiên Chúa và dân của Người, nhắc nhở ngài nhớ Tin Mừng và thúc giục ngài giữ vững đường đi của mình. Nhờ cách này, các bạn sẽ đóng góp rất lớn lao vào một điều căn bản: ngăn chặn các hành động gây họa này khỏi bị lặp lại. Đám mây đen này cũng thách thức mọi người trẻ yêu mến Chúa Kitô và Giáo hội của Người: họ có thể là một nguồn chữa lành lớn lao nếu họ sử dụng khả năng lớn lao của họ để mang lại sự đổi mới, thúc giục và đòi hỏi chứng tá nhất quán, tiếp tục mơ ước và đưa ra các ý tưởng mới mẻ.

101. Đây cũng không phải là tội lỗi duy nhất của các thành viên Giáo hội; lịch sử lâu dài của Giáo hội không phải là không có bóng râm của nó. Tội lỗi của chúng ta hiện ở trước mắt mọi người; chúng xuất hiện quá rõ ràng trên các đường nhăn của khuôn mặt lâu đời của Giáo hội, Mẹ và Thầy của chúng ta. Trong hai ngàn năm, Giáo hội đã tiến bước trên đường lữ hành của mình, chia sẻ các niềm vui và hy vọng, nỗi đau và nỗi thống khổ” [57] của toàn nhân loại. Có thế nào, Giáo hội thực hành cuộc hành trình này như thế, không cần phẫu thuật thẩm mỹ dưới bất cứ hình thức nào. Giáo hội không ngại tiết lộ tội lỗi của các thành viên của mình, điều mà một số người cố gắng che giấu, trước ánh sáng rực rỡ của lời Tin Mừng, giúp tẩy rửa và thanh tẩy. Giáo hội cũng không ngừng đọc mỗi ngày, trong sự hối hận: “Lạy Chúa, xin thương xót con trong lòng nhân từ của Chúa… tội lỗi của con luôn ở trước mặt con” (Tv 51: 3.5). Tuy nhiên, chúng ta đừng bao giờ quên rằng chúng ta không được bỏ rơi Mẹ của chúng ta khi Mẹ bị thương, nhưng hãy đứng bên cạnh Mẹ, để Mẹ có thể thu góp mọi sức mạnh và mọi khả năng của mình để bắt đầu lại.

102. Giữa thảm kịch này, thảm kịch làm chúng ta đau đớn một cách chính đáng, “Chúa Giêsu, Đấng không bao giờ bỏ rơi Giáo hội của mình, mang đến cho Giáo hội sức mạnh và phương thế để bước lên một nẻo đường mới” [58]. Khoảnh khắc đen tối này, “với sự giúp đỡ quý giá của giới trẻ, thực sự có thể là cơ hội cho một cuộc cải cách tạo thời đại”, [59] mở cửa cho chúng ta tiến vào một Lễ Ngũ Tuần mới và khai mở một giai đoạn thanh tẩy và thay đổi mới có khả năng đổi mới tuổi trẻ của Giáo hội. Người trẻ sẽ càng hữu ích hơn nếu họ cảm thấy hoàn toàn là một phần của “Dân thánh thiện kiên nhẫn và trung thành của Thiên Chúa, được Chúa Thánh Thần nâng đỡ và làm cho sinh động”, vì “nó sẽ chính là Dân thánh của Thiên Chúa để giải phóng chúng ta khỏi đại dịch giáo sĩ trị, vốn là mảnh đất màu mỡ cho mọi sự thất sủng này” [60].

Một lối thoát

103. Trong chương này, tôi đã dành giờ để xem xét thực tại của người trẻ trong thế giới ngày nay. Một số khía cạnh khác sẽ được bàn đến trong các chương sau. Như tôi đã nói, tôi không cho là mình thấu đáo trong cuộc phân tích này. Tôi khuyến khích các cộng đồng khảo sát, một cách tôn trọng và nghiêm túc, tình hình của người trẻ của họ, để tìm ra các cách thích đáng nhất để cung cấp cho họ sự chăm sóc mục vụ. Đồng thời, tôi không muốn kết thúc chương này mà không ngỏ vài lời cho mỗi người các bạn.

104. Tôi nhắc các bạn nhớ tin mừng chúng ta đã nhận được như một hồng phúc vào buổi sáng phục sinh: rằng trong mọi tình huống đen tối hoặc đau đớn mà chúng ta đã đề cập, có một lối thoát. Ví dụ, quả thật, thế giới kỹ thuật số có thể khiến các bạn có nguy cơ quá loay hoay với chính mình, cô lập và khoái cảm trống rỗng. Nhưng đừng quên rằng có các người trẻ ngay ở kia vẫn đang biểu lộ óc sáng tạo và thậm chí thiên tài. Đó là trường hợp của người tôi tớ trẻ tuổi của Thiên Chúa là Carlo Acutis.

105. Carlo ý thức rõ rằng toàn bộ bộ máy truyền thông, quảng cáo và kết mạng xã hội có thể được sử dụng để ru ngủ chúng ta, khiến chúng ta ghiền chủ nghĩa tiêu thụ và mua các thứ mới nhất trên thị trường, bị ám ảnh với thời gian rảnh rỗi, bị cuốn vào sự tiêu cực. Tuy nhiên, ngài biết cách sử dụng kỹ thuật truyền thông mới để truyền tải Tin Mừng, để truyền đạt các giá trị và vẻ đẹp.

106. Carlo không rơi vào bẫy. Ngài thấy nhiều người trẻ, vì muốn trở nên khác biệt, thực sự kết cục đã nên giống như mọi người khác, chạy theo bất cứ thứ gì kẻ quyền thế đặt trước mặt họ bằng các cơ chế tiêu dùng và phân tâm. Theo cách này, họ không sản sinh các năng khiếu mà Chúa đã ban cho họ; họ không cống hiến cho thế giới các tài năng bản thân độc đáo mà Chúa đã ban cho mỗi chúng ta. Kết quả, Carlo cho biết, “mọi người đều được sinh ra như một nguyên bản, nhưng nhiều người kết cục đã chết như những bản sao. Đừng để điều đó xảy ra với các bạn!”

107. Các bạn đừng để họ cướp đi hy vọng và niềm vui của các bạn, hoặc chuốc ma túy để các bạn trở thành nô lệ cho lợi ích của họ. Các bạn hãy dám trở thành nhiều hơn, bởi vì việc các bạn là ai quan trọng hơn bất cứ sở hữu nào. Điều gì tốt, sở hữu hay dáng vẻ bề ngoài? Các bạn có thể trở thành điều Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa của Các bạn biết các bạn là, chỉ khi nào các bạn nhận ra rằng các bạn được kêu gọi đến một điều lớn hơn. Hãy cầu xin sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần và tin tưởng nhắm đạt mục tiêu cao cả là sự thánh thiện. Bằng cách này, các bạn sẽ không phải là một bản sao. Các bạn sẽ là chính mình.

108. Muốn điều trên xảy ra, bạn cần nhận ra một sự thật căn bản: trẻ trung không chỉ là theo đuổi các thú vui thoáng qua và các thành tựu hời hợt. Nếu các năm tháng tuổi trẻ của các bạn là để phục vụ mục đích của chúng trong cuộc sống, thì chúng phải là một thời gian cam kết quảng đại, cống hiến hết lòng và hy sinh vốn khó khăn nhưng cuối cùng sẽ sinh hoa trái. Như một nhà thơ vĩ đại đã viết:

“Nếu để lấy lại điều tôi đã lấy lại,
Trước tiên tôi phải mất điều tôi đã mất;
Nếu để đạt được điều tôi đã đạt được,
Tôi đã phải chịu đựng điều tôi chịu đựng;
Nếu được yêu bây giờ
Đầu tiên tôi phải chịu thương tổn,
Tôi xem xét điều tôi đã chịu đựng giỏi,
Tôi xem xét điều tôi đã khóc cũng như đã khóc cho.
Bởi vì cuối cùng tôi đã tiến tới chỗ thấy
Rằng chúng ta không thực sự thưởng ngoạn điều chúng ta đã thưởng ngoạn
Trừ khi chúng ta đã chịu đau vì nó.
Vì cuối cùng tôi đã nhận ra
Rằng các bông hoa nở rộ trên cây
Hút sự sống từ những gì nằm chôn vùi bên dưới” [61].

109. Nếu các bạn vốn trẻ trung lâu nay, nhưng cảm thấy yếu đuối, mệt mỏi hoặc vỡ mộng, hãy xin Chúa Giêsu đổi mới bạn. Với Người, hy vọng không bao giờ thất bại. Các bạn cũng có thể làm thế nếu các bạn cảm thấy bị choáng ngợp bởi tệ nạn, thói quen xấu, ích kỷ hoặc trò tiêu khiển không lành mạnh. Chúa Giêsu, tràn đầy sức sống, muốn giúp các bạn làm cho tuổi trẻ các bạn trở nên đáng giá. Bằng cách này, các bạn sẽ không tước đi khỏi thế giới sự đóng góp mà chỉ một mình các bạn có thể thực hiện, trong tất cả tính duy nhất và độc đáo của các bạn.

110. Thế nhưng, hãy để tôi cũng nhắc nhở các bạn rằng “khi chúng ta sống xa cách người khác, sẽ rất khó chiến đấu chống tư dục, cạm bẫy và cám dỗ của ma qủy, và tính ích kỷ của thế gian. Bị bắn phá như chúng ta bởi rất nhiều dụ dỗ, chúng ta có thể trở nên quá cô lập, mất cảm thức về thực tại và sự rõ ràng bên trong, và dễ dàng sa ngã” (62). Điều này đặc biệt đúng với các người trẻ, vì bất cứ khi nào các bạn đoàn kết, các bạn có sức mạnh kỳ diệu. Bất cứ khi nào các bạn say mê cuộc sống chung, các bạn có khả năng hy sinh lớn lao cho người khác và cho cộng đồng. Mặt khác, sự cô lập làm suy yếu sức mạnh của chúng ta và phơi bày chúng ta cho các tội ác tồi tệ nhất của thời đại chúng ta.

CHƯƠNG BỐN: Một thông điệp lớn cho mọi người trẻ

111. Đặt mọi điều khác sang một bên, bây giờ tôi muốn nói với những người trẻ về điều thiết yếu, một điều chúng ta không bao giờ nên giữ im lặng. Đó là một sứ điệp chứa ba sự thật vĩ đại mà tất cả chúng ta cần liên tục lắng nghe.

Một vị Thiên Chúa vốn là tình yêu

112. Sự thật đầu tiên tôi muốn nói với mỗi người các bạn là thế này: “Thiên Chúa yêu các bạn”. Bất luận các bạn đã nghe nó hay chưa. Tôi muốn nhắc các bạn nhớ điều đó. Thiên Chúa yêu các bạn. Đừng bao giờ nghi ngờ điều này, bất cứ điều gì có thể xảy ra với các bạn trong cuộc sống. Ở mọi thời điểm, các bạn đều được yêu thương vô hạn.

113. Có lẽ kinh nghiệm về tình cha của các bạn chưa phải là tốt nhất. Người cha trần gian của các bạn có thể đã cách xa hoặc vắng mặt, hoặc khắc nghiệt và độc đoán. Hoặc có thể người ấy không phải là người cha các bạn cần. Tôi không biết. Nhưng điều tôi có thể nói với các bạn, một cách chắc chắn tuyệt đối, là các bạn có thể tìm thấy sự an toàn trong vòng tay của Cha trên trời, của Thiên Chúa, Đấng là người đầu tiên ban cho các bạn sự sống và tiếp tục ban nó cho các bạn mọi lúc. Người sẽ là chỗ dựa vững chắc cho các bạn, nhưng các bạn cũng sẽ nhận ra rằng Người hoàn toàn tôn trọng sự tự do của các bạn.

114. Trong hạn từ Thiên Chúa, chúng ta tìm thấy nhiều cách phát biểu tình yêu của Người. Như thể Người đã cố gắng tìm ra những cách khác nhau để biểu lộ tình yêu đó, để ít nhất, với một trong số này, Người có thể chạm vào trái tim các bạn. Chẳng hạn, có những lúc, khi Thiên Chúa nói về mình như một người cha giàu tình cảm, chơi đùa với con cái: “Ta lấy dây nhân nghĩa, lấy mối ân tình mà lôi kéo chúng. Ta xử với chúng như người nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má” (Hs 11: 4).

Ở những lúc khác, Người nói về Người như người tràn trề tình yêu của một người mẹ có tình yêu tận đáy lòng dành cho con cái khiến bà không thể bỏ bê hoặc bỏ rơi chúng: Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên con bao giờ” (Is 49:15).

Người thậm chí còn tự so sánh mình với một người yêu đến mức viết người mình yêu vào lòng bàn tay, để giữ khuôn mặt người yêu ấy luôn ở trước mặt Người: “Này, Ta đã khắc ghi con trong lòng bàn tay Ta!”(Is 49:16).

Ở những lúc khác, Người nhấn mạnh đến sức mạnh của tình yêu vô địch của mình: “Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình nghĩa của Ta đối với con vẫn không thay đổi, giao ước hoà bình của Ta cũng chẳng chuyển lay” (Is 54: 10).

Hoặc Người nói với chúng ta rằng chúng ta đã được chờ đợi từ cõi đời đời, vì không phải ngẫu nhiên chúng ta đến thế giới này: “Ta đã yêu con bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn tiếp tục lòng tín trung của Ta với con” (Grm 31: 3).

Hoặc Người cho chúng ta biết rằng Người thấy nơi chúng ta một vẻ đẹp mà không ai khác có thể thấy: “Vì trước mắt Ta, ngươi thật quý giá, vốn được Ta trân trọng và mến thương” (Is 43: 4).

Hoặc Người làm cho chúng ta hiểu ra rằng tình yêu của Người không phải là không vui vẻ, mà là niềm vui thuần khiết, dâng đầy bất cứ khi nào chúng ta để Người yêu thương chúng ta: “Chúa, Thiên Chúa của con đang ngự giữa con, Người là dũng sĩ chiến thắng. Vì con, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới con. Vì con, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng ca hát” (Xp 3:17).

115. Đối với Người, các bạn có giá trị; các bạn đáng kể. Các bạn quan trọng đối với Người, vì các bạn là công trình của bàn tay Người. Đó là lý do tại sao Người quan tâm đến các bạn và nhìn các bạn cách âu yếm. “Hãy tín thác vào ký ức của Thiên Chúa: ký ức của Người không phải là ’’đĩa cứng’ ‘lưu’ và ’trữ’ mọi dữ liệu của chúng ta. Ký ức của Người là một trái tim chứa đầy lòng trắc ẩn dịu dàng, một trái tim tìm thấy niềm vui trong việc ‘xóa’ khỏi chúng ta mọi dấu vết của sự ác [63]. Người không lưu giữ các thất bại của các bạn và Người luôn giúp các bạn học được điều gì đó ngay từ những sai lầm của các bạn. Vì Người yêu các bạn. Hãy cố gắng ở yên trong giây lát và để bản thân cảm nhận được tình yêu của Người. Hãy cố gắng làm im bặt mọi ồn ào bên trong, và nghỉ ngơi giây lát trong vòng tay yêu thương của Người.

116. Tình yêu của Người là một tình yêu không áp đảo hay áp bức, gạt sang một bên hoặc giản lượt vào im lặng, hạ nhục hay thống trị. Nó là tình yêu của Chúa, một tình yêu hàng ngày, kín đáo và tôn trọng; một tình yêu tự do và giải phóng, một tình yêu chữa lành và nâng cao. Tình yêu của Chúa liên quan nhiều tới việc nâng cao hơn là hạ gục, hòa giải hơn là cấm đoán, với việc đề nghị thay đổi mới hơn là lên án, với tương lai hơn là quá khứ” [64].

117. Khi Người yêu cầu các bạn điều gì, hoặc đơn giản khiến các bạn phải đối đầu với những thách thức trong cuộc sống, Người hy vọng rằng các bạn sẽ dành chỗ cho Người để Người thúc đẩy các bạn, giúp các bạn tăng trưởng. Người không buồn nếu bạn chia sẻ các vấn đề của các bạn với Người. Người lo lắng khi các bạn không nói chuyện với Người, khi các bạn không cởi mở đối thoại với Người. Kinh thánh cho chúng ta biết rằng Giacốp đã chiến đấu với Thiên Chúa (xem St 32: 25-31), nhưng điều đó không khiến Người không kiên trì trong hành trình của Người. Chính Chúa thúc giục chúng ta: “Hãy đến đây, ta cùng nhau tranh luận!” (Is 1:18). Tình yêu của Người rất thực chất, rất thật, cụ thể đến nỗi mời chúng ta tiến đến một mối liên hệ cởi mở và đối thoại hữu hiệu. Các bạn hãy tìm kiếm sự gần gũi của Cha trên trời của chúng ta nơi gương mặt yêu thương của các nhân chứng can đảm của Người trên trái đất!

Chúa Kitô cứu các bạn

118. Sự thật vĩ đại thứ hai là Chúa Kitô, vì tình yêu, đã hy sinh hoàn toàn để cứu các bạn. Những cánh tay dang rộng của Người trên thập giá là dấu hiệu đáng nói nhất cho thấy Người là một người bạn sẵn sàng không dừng lại ở bất cứ điều gì: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13: 1).

Thánh Phaolô nói rằng đời ngài là một niềm tín thác hoàn toàn vào tình yêu tự hiến sinh đó: “Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2:20).

119. Cũng chính Chúa Kitô này, Đấng, bằng thập giá của Người, đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi của chúng ta, hôm nay tiếp tục cứu rỗi và cứu chuộc chúng ta bằng sức mạnh của việc hoàn toàn tự từ bỏ mình của Người. Hãy nhìn vào thập giá của Người, bám vào Người, để Người cứu các bạn vì “những người chấp nhận lời đề nghị cứu rỗi của Người được giải thoát khỏi tội lỗi, sầu khổ, trống rỗng nội tâm và cô đơn” [65]. Và nếu các bạn phạm tội và lạc xa Người, Người sẽ đến nâng các bạn lên bằng sức mạnh thập giá của Người. Đừng bao giờ quên rằng Người tha thứ cho chúng ta bảy mươi lần bảy. Hết lần này đến lần khác, Người cõng chúng ta trên vai. Không ai có thể tước đi phẩm giá của chúng ta do tình yêu vô biên và vô tận này ban cho chúng ta. Với một sự dịu dàng không bao giờ làm thất vọng nhưng luôn có khả năng khôi phục niềm vui của chúng ta, Người khiến chúng ta có thể ngẩng cao đầu và bắt đầu lại một lần nữa” [66].

120. “Chúng ta được Chúa Giêsu cứu vớt vì Người yêu chúng ta và không thể đi ngược lại với bản tính của Người. Chúng ta có thể làm bất cứ điều gì chống lại Người, nhưng Người yêu chúng ta và Người cứu chúng ta. Chỉ những gì được yêu thương mới có thể được cứu vớt. Chỉ những gì được ôm ấp mới có thể được biên đổi. Tình yêu của Chúa lớn hơn tất cả các nan đề, yếu đuối và sai sót của chúng ta. Tuy nhiên, chính qua các nan đề, yếu đuối và sai sót của chúng ta mà Người muốn viết nên câu chuyện tình này. Người ôm lấy đứa con hoang đàng, Người ôm lấy Phêrô sau những lời ông chối Người, và Người luôn luôn, luôn luôn ôm lấy chúng ta sau mỗi lần vấp ngã, giúp chúng ta chỗi dậy và đi bằng đôi chân của mình. Vì vấp ngã tồi tệ nhất, và các bạn hãy chú ý điều này, “vấp ngã tồi tệ nhất, thứ có thể hủy hoại cuộc sống của chúng ta, là khi chúng ta nằm bẹp và không để bản thân được giúp đỡ để đứng lên” [67].

121. Sự tha thứ và sự cứu rỗi của Người không phải là thứ chúng ta có thể mua, hoặc chúng ta phải có được bằng chính việc làm hoặc nỗ lực của mình. Người tha thứ cho chúng ta và giải phóng chúng ta một cách nhưng không, miễn phí. Sự tự hy sinh của Người trên thập giá lớn đến nỗi chúng ta không bao giờ có thể đền đáp, mà chỉ có thể tiếp nhận với lòng biết ơn lớn lao và niềm vui được yêu thương nhiều hơn điều chúng ta có thể tưởng nghĩ: “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4: 19).

122. Hỡi các người trẻ, những người yêu dấu của Chúa, các bạn hẳn có giá trị xiết bao, vì các bạn đã được cứu chuộc bằng máu quý giá của Chúa Kitô! Các bạn trẻ thân mến, “các bạn là vô giá! Các bạn không là hàng bán rẻ! Xin vui lòng, đừng để mình bị mua. Đừng để mình bị quyến rũ. Đừng để bản thân bị nô lệ bởi các hình thức thực dân ý thức hệ từng nhồi nhét các ý tưởng vào đầu các bạn, kết quả là cuối cùng các bạn trở thành nô lệ, nghiện ngập, thất bại trong đời. Các bạn là vô giá. Các bạn phải lặp lại điều này luôn: Tôi không là hàng bán rẻ; Tôi không có giá. Tôi tự do! Hãy yêu thích sự tự do này, sự tự do mà Chúa Giêsu đã cung cấp” [68].

123. Các bạn hãy nhìn chăm chăm vào hai cánh tay dang rộng của Chúa Kitô bị đóng đinh, hãy để mình được cứu vớt đi cứu vớt lại. Và khi các bạn đi xưng các tội lỗi của mình, hãy tin tưởng chắc chắn vào lòng thương xót của Người, lòng thương xót giải thoát các bạn khỏi cảm giác tội lỗi. Các bạn hãy chiêm ngưỡng máu Người tuôn ra với tình yêu vĩ đại như vậy, và để nó tẩy rửa mình. Bằng cách này, các bạn có thể mãi mãi được tái sinh.

Người đang sống!

124. Cuối cùng, có một sự thật thứ ba, không thể tách rời với sự thật thứ hai: Chúa Kitô đang sống! Chúng ta cần phải nhắc nhở bản thân về điều này, bởi vì chúng ta liều mình thấy Chúa Kitô chỉ đơn giản là một mô hình tốt từ quá khứ xa xôi, như một ký ức, như một người đã cứu chúng ta hai ngàn năm trước. Nhưng điều đó sẽ không có ích gì đối với chúng ta: nó sẽ khiến chúng ta không thay đổi, nó sẽ không giải thoát chúng ta. Đấng lấp đầy chúng ta bằng ơn thánh của Người, Đấng giải thoát chúng ta, biến đổi chúng ta, chữa lành và an ủi chúng ta là một người hoàn toàn đang sống. Người là Đấng Kitô, sống lại từ cõi chết, tràn đầy sức sống và năng lực siêu nhiên, và mặc áo ánh sáng vô biên. Đó là lý do tại sao Thánh Phaolô có thể nói: “Nếu Chúa Kitô không sống lại, đức tin của anh em vô ích” (1 Cr 15: 7).

125. Đang sống, Người có thể có mặt trong cuộc sống của các bạn mọi lúc, để lấp đầy nó bằng ánh sáng và lấy đi mọi buồn phiền và cô độc. Ngay cả khi mọi người khác ra đi, Người vẫn sẽ ở lại, như Người đã hứa: “Thầy sẽ luôn ở bên các con, cho đến tận cùng thời gian” (Mt 28:20). Người lấp đầy cuộc sống của các bạn bằng sự hiện diện vô hình của Người; bất cứ các bạn đi đâu, Người sẽ chờ các bạn ở đó. Bởi vì Người không chỉ đến trong quá khứ, mà Người còn đến với các bạn hôm nay và mỗi ngày, mời các bạn lên đường đến những chân trời luôn luôn mới.

126. Các bạn hãy xem Chúa Giêsu như người hạnh phúc, tràn ngập niềm vui. Hãy vui mừng với Người như với một người bạn đã chiến thắng. Người ta đã giết Người, Đấng thánh, Đấng duy nhất công chính, Đấng vô tội, nhưng cuối cùng Người đã chiến thắng. Cái ác không có lời cuối cùng. Nó cũng sẽ không có lời cuối cùng trong cuộc đời các bạn, vì các bạn có một người bạn yêu các bạn và muốn chiến thắng trong các bạn. Đấng Cứu Rỗi của các bạn đang sống.

127. Bởi vì Người sống, nên không thể nghi ngờ gì là lòng tốt sẽ chiếm ưu thế trong cuộc sống của các bạn và mọi cuộc đấu tranh của chúng ta sẽ được chứng minh là có giá trị. Nếu đúng như thế, thì chúng ta nên ngưng việc phàn nàn và nhìn về tương lai, vì với Người điều này luôn luôn khả hữu. Đó là điều chắc chắn chúng ta có. Chúa Giêsu đang sống mãi mãi. Nếu chúng ta bám chặt lấy Người, chúng ta sẽ có sự sống và được bảo vệ khỏi các mối đe dọa của cái chết và bạo lực có thể tấn công chúng ta trong cuộc sống.

128. Mọi giải pháp khác đều chứng tỏ không thỏa đáng và chỉ tạm thời. Nó có thể hữu ích trong một thời gian, nhưng một lần nữa chúng ta sẽ thấy mình bị phơi bày và bị bỏ rơi trước những cơn giông bão của cuộc sống. Mặt khác, với Chúa Giêsu, trái tim của chúng ta cảm nghiệm một sự an toàn bắt nguồn vững chắc và bền bỉ. Thánh Phaolô nói rằng ngài muốn trở thành một với Chúa Kitô để có thể “biết Người và sức mạnh của sự phục sinh của Người” (Pl 3:10). Sức mạnh đó cũng sẽ liên tục được mặc khải trong cuộc sống của các bạn, vì Người đã đến để ban cho các bạn sự sống, và “sự sống dư thừa” (Ga 10, 10).

129. Nếu trong tâm hồn các bạn, các bạn có thể học cách đánh giá cao vẻ đẹp của sứ điệp này, nếu các bạn sẵn lòng gặp Chúa, nếu các bạn sẵn lòng để Người yêu các bạn và cứu các bạn, nếu các bạn có thể kết bạn với Người và bắt đầu nói chuyện với Người, Chúa Kitô hằng sống, về những thực tại của cuộc đời các bạn, thì các bạn sẽ có một cảm nghiệm sâu sắc có khả năng nâng đỡ toàn bộ đời sống Kitô hữu của các bạn. Các bạn cũng sẽ có thể chia sẻ kinh nghiệm đó với những người trẻ tuổi khác. Vì “làm một Kitô hữu không phải là kết quả của một lựa chọn đạo đức hay một ý tưởng cao cả, mà là cuộc gặp gỡ với một biến cố, một người, mang đến cho cuộc sống một chân trời mới và một hướng đi dứt khoát” [69].

Thần Trí ban sự sống

130. Trong ba sự thật này – Thiên Chúa yêu các bạn; Chúa Kitô là Đấng Cứu Rỗi của các bạn; Người đang sống – chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa Cha và Chúa Giêsu. Bất cứ Chúa Cha và Chúa Con ở đâu, cũng có Chúa Thánh Thần ở đó. Người là người lặng lẽ mở các cõi lòng để tiếp nhận sứ điệp đó. Người tiếp tục duy trì sống động niềm hy vọng cứu rỗi của chúng ta, và Người sẽ giúp các bạn lớn lên trong niềm vui nếu các bạn cởi mở với việc làm của Người. Chúa Thánh Thần tràn đầy trái tim Chúa Kitô phục sinh và sau đó tràn qua cuộc sống của các bạn. Khi các bạn nhận được Chúa Thánh Thần, Người sẽ kéo các bạn sâu hơn vào trái tim của Chúa Kitô, để các bạn có thể lớn lên trong tình yêu, cuộc sống và quyền năng của Người.

131. Hãy cầu xin Chúa Thánh Thần mỗi ngày giúp các bạn trải nghiệm như mới sứ điệp tuyệt vời. Tại sao không? Các bạn không có gì để mất, và Người có thể thay đổi cuộc sống của các bạn, lấp đầy nó bằng ánh sáng và dẫn nó theo đường tốt hơn. Người không lấy gì khỏi các bạn, nhưng thay vào đó giúp các bạn tìm thấy mọi điều các bạn cần, và theo cách tốt nhất có thể. Các bạn có cần tình yêu không? Các bạn sẽ không tìm thấy nó trong sự phóng đãng, sử dụng người khác hoặc cố gắng chiếm hữu hoặc thống trị. Các bạn sẽ tìm thấy nó một cách sẽ làm cho bạn thực sự hạnh phúc. Các bạn đang tìm kiếm cảm xúc mạnh mẽ phải không? Các bạn sẽ không cảm nghiệm chúng bằng cách tích lũy các vật vật chất, tiêu tiền, tuyệt vọng chạy theo sau những điều thuộc thế gian này. Chúng sẽ đến, nhưng một cách đẹp đẽ và ý nghĩa hơn nhiều, nếu bạn để cho mình được Chúa Thánh Thần thúc đẩy.

132. Các bạn đang tìm kiếm đam mê? Như bài thơ hay kia từng nói: “Hãy si tình, (hay hãy để mình được yêu)”, vì “không có gì thực tế hơn là tìm thấy Thiên Chúa, hơn là yêu một cách khá tuyệt đối, dứt khoát. Những gì các bạn đang yêu, những gì chiếm hữu trí tưởng tượng của các bạn, sẽ ảnh hưởng đến mọi sự. Nó sẽ quyết định những gì sẽ đưa các bạn ra khỏi giường vào buổi sáng, những gì các bạn làm vào buổi tối của các bạn, cách các bạn sống cuối tuần, những gì các bạn đọc, những người các bạn biết, những gì làm tan nát trái tim của các bạn, và những gì làm các bạn ngạc nhiên và biết ơn. Si tình, ở lại trong tình yêu, và nó sẽ quyết định mọi sự” [70]. Tình yêu dành cho Thiên Chúa này, một tình yêu có thể tiếp cận mọi thứ trong cuộc sống một cách đam mê, có thể có là nhờ Chúa Thánh Thần, vì “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5: 5).

133. Người là nguồn của tuổi trẻ ở lúc đẹp nhất của nó. Vì những người tín thác vào Chúa “như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi” (Grm 17: 8). Trong khi “Thanh niên mệt mỏi, nhọc nhằn” (Is 40:30), những người chờ đợi Chúa “Nhưng những người cậy trông Chúa sẽ được thêm sức mạnh, Như thể chim bằng, họ tung cánh, Họ chạy hoài mà không mỏi mệt, và đi mãi mà chẳng chùn chân” (Is 40:31).

CHƯƠNG NĂM: Các nẻo đường của tuổi trẻ

134. Sống những năm tháng tuổi trẻ của chúng ta trong ánh sáng biến đổi của Tin Mừng có ý nghĩa gì? Chúng ta cần nêu lên câu hỏi này, vì tuổi trẻ, vốn không phải chỉ là một nguồn tự hào, mà là một hồng phúc của Thiên Chúa: “Trẻ trung là một ơn thánh, một chúc phúc” [71]. Đó là một hồng phúc mà chúng ta có thể phung phí một cách vô nghĩa, hoặc tiếp nhận với lòng biết ơn và sống hết mình.

135. Thiên Chúa là người ban tuổi trẻ và Người đang làm việc trong cuộc đời của mỗi người trẻ. Tuổi trẻ là thời gian được chúc phúc đối với giới trẻ và là ơn thánh đối với Giáo hội và thế giới. Nó là niềm vui, một bài ca hy vọng và một chúc phúc. Tận dụng tối đa những năm tháng tuổi trẻ của chúng ta đòi hỏi phải xem mùa này của cuộc đời là đáng giá ngay trong nó, và không chỉ đơn giản là một khúc dạo đầu ngắn ngủi bước vào tuổi trưởng thành.

Thời của những giấc mơ và quyết định

136. Thời Chúa Giêsu, việc chuyển tiếp từ thời thơ ấu là một bước quan trọng trong đời, một bước được cử hành hân hoan. Khi Chúa Giêsu hồi phục sự sống cho con gái một người kia, đầu tiên Người gọi em là “đứa bé” (Mc 5:39), nhưng sau đó gọi em là một “thiếu nữ” (Mc 5:41). Khi nói với em: “Hỡi thiếu nữ, hãy chỗi dậy (Talitha cum)”, Người làm em nhận trách nhiệm nhiều hơn với cuộc sống của em, mở ra trước em cánh cửa để bước vào tuổi trẻ.

137. “Tuổi trẻ, như một giai đoạn phát triển nhân cách, được đánh dấu bằng các giấc mơ đang dần dần thăng tiến, bằng các mối liên hệ ngày càng trở nên nhất quán và cân bằng hơn, bằng các dò dẫm và thử nghiệm, bằng các lựa chọn đang dần dần xây dựng một dự án sống. Vào thời kỳ sống này, người trẻ được kêu gọi tiến lên phía trước, không cắt đứt khỏi gốc rễ, xây dựng quyền tự lập của họ, nhưng không phải trong sự cô độc” [72].

138. Tình yêu Thiên Chúa và mối liên hệ của chúng ta với Chúa Kitô hằng sống không kìm hãm chúng ta khỏi mơ mộng; chúng không yêu cầu chúng ta thu hẹp các chân trời của chúng ta. Trái lại, tình yêu đó nâng cao chúng ta, khuyến khích chúng ta và gợi hứng cho chúng ta bước vào một cuộc sống tốt và đẹp hơn. Phần lớn các hoài mong hiện diện trong trái tim người trẻ có thể được tóm tắt trong hạn từ “bồn chồn”. Như Thánh Phaolô VI đã nói, “trong sự bất mãn mà các bạn thường cảm thấy… có một tia sáng hiện diện” [73]. Sự bất mãn bồn chồn, kết hợp với sự vui tươi hớn hở trước việc mở ra những chân trời mới, tạo ra một sự táo bạo dẫn các bạn đứng lên và đảm nhận trách nhiệm đối với sứ mệnh. Sự bồn chồn lành mạnh đầy tính đặc trưng của tuổi trẻ này tiếp tục hiện diện trong mọi trái tim vẫn giữ cho mình trẻ trung, cởi mở và quảng đại. Bình an nội tâm thực sự cùng hiện diện với sự bồn chồn sâu sắc đó. Như Thánh Augustinô đã nói: “Lạy Chúa, Chúa đã tạo nên chúng con cho chính Chúa, và trái tim chúng con bồn chồn cho đến khi chúng tìm được nghỉ ngơi trong Chúa” [74].

139. Cách đây không lâu, một người bạn đã hỏi xem tôi thấy gì nơi một người trẻ. Câu trả lời của tôi là “tôi thấy một người đang đi tìm đường đi của riêng mình, muốn bay bằng hai chân, đối đầu với thế giới và nhìn về phía chân trời với đôi mắt tràn đầy tương lai, tràn đầy hy vọng cũng như ảo ảnh. Người trẻ đứng bằng hai chân như người lớn, nhưng không giống như người lớn với hai chân song song, người trẻ luôn có một chân hướng về phía trước, sẵn sàng lên đường, phóng về phía trước. Luôn luôn chạy đua về phía trước. Nói về người trẻ là nói về lời hứa và nói về niềm vui. Người trẻ có rất nhiều sức mạnh; họ có thể nhìn về phía trước lòng đầy hy vọng. Một người trẻ là một lời hứa của cuộc sống ngụ hàm một mức độ ngoan cường nào đó. Họ đủ dại dột để đánh lừa bản thân, và đủ kiên cường để vực dậy từ sự tự đánh lừa đó” [75].

140. Một số người trẻ có thể ghét giai đoạn này của cuộc đời, vì họ muốn tiếp tục làm trẻ con hoặc kéo dài vô hạn thời niên thiếu và trì hoãn việc đưa ra quyết định. “Nỗi sợ điều dứt khoát do đó tạo ra một loại tê liệt làm họ không quyết định được. Tuy nhiên, tuổi trẻ không thể mãi là một thời gian lơ lửng: đó là tuổi của các lựa chọn và tính quyến rũ cùng nhiệm vụ lớn nhất của nó hệ chính ở điều này. Các người trẻ tuổi đưa ra quyết định trong các lĩnh vực chuyên nghiệp, xã hội, chính trị và các lĩnh vực khác có tính triệt để hơn, nhằm khuôn định đời họ” [76]. Họ cũng đưa ra quyết định về tình yêu, chọn bạn đời và bắt đầu một gia đình. Chúng ta sẽ xem xét các vấn đề này chặt chẽ hơn trong các chương cuối cùng, khi bàn đến các ơn gọi cá thể và việc biện phân ra chúng.

141. Nhưng trái ngược với những hy vọng và ước mơ tạo ra quyết định này, luôn có cơn cám dỗ phàn nàn hoặc đầu hàng. “Chúng ta có thể để điều đó cho những người tôn thờ ‘nữ thần than thở’… Nó vốn là một nữ thần giả dối: nó khiến các bạn chọn sai đường. Khi mọi thứ dường như đứng yên và trì trệ, khi các vấn đề bản thân của chúng ta gây rắc rối cho chúng ta và các vấn đề xã hội không đáp ứng bằng các giải đáp đúng đắn, đầu hàng sẽ không ích gì. Chúa Giêsu là đường: các bạn hãy chào đón Người vào ‘thuyền’ của các bạn và ra khơi! Người là Chúa! Người thay đổi cách chúng ta nhìn cuộc đời. Đức tin vào Chúa Giêsu dẫn đến niềm hy vọng lớn hơn, đến một sự chắc chắn không dựa trên phẩm tính và kỹ năng của chúng ta, mà dựa trên lời Thiên Chúa, trên lời mời phát xuất từ Người. Không cần các tính toán nhân bản, và không lo lắng về những điều thách thức an toàn của các bạn, hãy ra khơi. Ra khỏi bản thân các bạn” [77].

142. Tiếp tục theo đuổi hy vọng và ước mơ của các bạn. Nhưng hãy cẩn thận về một cám dỗ có thể giữ chúng ta lại. Đó là sự lo lắng xao xuyến. Lo lắng có thể chống lại chúng ta bằng cách khiến chúng ta bỏ cuộc bất cứ khi nào chúng ta không thấy kết quả ngay lập tức. Những giấc mơ tốt nhất của chúng ta chỉ đạt được qua hy vọng, kiên nhẫn và cam kết, chứ không vội vã. Đồng thời, chúng ta không nên do dự, ngại nắm bắt cơ hội hoặc sợ phạm sai lầm. Tránh sự tê liệt của người sống mà đã chết, những người không có sự sống vì họ sợ mạo hiểm, sợ phạm sai lầm hoặc sợ phải kiên trì trong các cam kết của mình. Ngay cả khi các bạn phạm sai lầm, các bạn vẫn luôn có thể đứng dậy và bắt đầu lại, vì không ai có quyền cướp đi hy vọng của các bạn.

143. Các bạn trẻ thân mến, các bạn hãy tận dụng những năm tháng tuổi trẻ này của các bạn. Đừng quan sát cuộc sống từ ban công. Đừng dành cuộc sống của các bạn cho màn hình. Dù bạn làm gì, đừng trở thành cảnh tượng đáng tiếc của một chiếc xe bị bỏ rơi! Đừng là chiếc xe đậu ở bãi đậu, nhưng hãy mơ ước một cách tự do và đưa ra các quyết định tốt. Hãy chấp nhận rủi ro, ngay cả khi nó có nghĩa là phạm sai lầm. Đừng đi qua cuộc sống như người bị gây mê hoặc tiếp cận thế giới như các khách du lịch. Hãy gây náo động! Hãy vứt bỏ những nỗi sợ làm tê liệt các bạn, để các bạn không trở thành những xác ướp trẻ. Hãy sống! Hãy hiến mình cho những điều tốt đẹp nhất của cuộc sống! Mở cửa lồng, thoát ra ngoài và bay xa! Xin vui lòng, đừng nghỉ hưu sớm.

Khát khao sống và trải nghiệm

144. Dù được lôi kéo hướng về tương lai và các hứa hẹn của nó, người trẻ cũng có khát khao mạnh mẽ muốn trải nghiệm thời điểm hiện tại, tận dụng tối đa các cơ hội mà cuộc sống mang lại. Thế giới của chúng ta tràn ngập vẻ đẹp! Làm thế nào chúng ta có thể coi thường rất nhiều hồng phúc của Thiên Chúa?

145. Trái ngược với những gì nhiều người vốn nghĩ, Chúa không muốn dập tắt những ham muốn có một cuộc sống trọn vẹn này. Điều rất tốt cho chúng ta là nhớ lại lời lẽ của một nhà hiền triết trong Cựu Ước: “Con ơi, nếu có của, hãy làm cho đời con được tốt đẹp, và tiến dâng lễ vật lên Đức Chúa sao cho xứng. Đừng từ chối hưởng một ngày vui, hoài bão của con, đừng để cho phần nào trôi đi mất” (Hc 14: 11,14). Thiên Chúa đích thực, Đấng yêu các bạn, muốn các bạn được hạnh phúc. Vì lý do này, Kinh Thánh cũng chứa đựng lời khuyên này cho người trẻ: “Này bạn thanh niên, cứ vui hưởng tuổi xuân của bạn, và làm cho tâm hồn được hạnh phúc trong những ngày còn trẻ… Hãy đẩy lui sầu não khỏi tâm hồn” (Gv 11:9-10). Vì Thiên Chúa, “Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng” (1 Tm 6:17).

146. Làm thế nào Thiên Chúa có thể vui nơi một người không có khả năng tận hưởng những phúc lành nho nhỏ hàng ngày của họ, một người không nhìn ra những thú vui đơn giản mà chúng ta tìm thấy xung quanh chúng ta? “Không ai tệ hơn kẻ làm hại chính mình” (Hc 14: 6). Khác xa với việc tìm kiếm những thú vui mới một cách đầy ám ảnh, khiến chúng ta không thể tận dụng tối đa thời điểm hiện tại, chúng ta được yêu cầu mở mắt và dành một chút thì giờ để trải nghiệm đầy đủ và biết ơn mọi hồng phúc nho nhỏ trong cuộc sống.

147. Rõ ràng, lời Chúa yêu cầu các bạn tận hưởng giây phút hiện tại, chứ không chỉ đơn giản chuẩn bị cho tương lai: “anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:34). Nhưng điều này không giống như dấn thân một cách vô trách nhiệm vào một cuộc sống phóng đãng chỉ có thể khiến chúng ta trống rỗng và bất mãn vĩnh viễn. Thay vào đó, đây là việc sống trọn vẹn hiện tại, dành năng lực của chúng ta cho những điều tốt đẹp, vun sới tình huynh đệ, theo chân Chúa Giêsu và tận dụng tối đa các niềm vui nho nhỏ của cuộc sống như những hồng phúc của tình yêu Thiên Chúa.

148. Đức Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận, khi bị giam cầm trong một trại tập trung, đã từ chối không làm gì ngoài việc chờ đợi ngày mà ngài sẽ được tự do. Ngài đã chọn “sống trong giây phút hiện tại, lấp đầy nó bằng tình yêu”. Ngài quyết định: “tôi sẽ nắm bắt các cơ hội tự xuất hiện mỗi ngày; tôi sẽ hoàn thành những hành động bình thường một cách phi thường” [78]. Khi các bạn làm việc để đạt được ước mơ của mình, hãy tận dụng tối đa mỗi ngày và cố gắng hết sức để mỗi giây phút tràn ngập tình yêu. Ngày trẻ trung này cũng có thể là ngày cuối cùng của các bạn, và vì vậy thật đáng nỗ lực để sống nó một cách nhiệt tình và đầy đủ nhất có thể.

149. Điều này cũng có thể được áp dụng cho những lúc khó khăn, những lúc phải được trải nghiệm đầy đủ nếu chúng ta muốn học được sứ điệp mà chúng có thể dạy chúng ta. Theo lời các Giám mục Thụy Sĩ: “Thiên Chúa ở đó nơi chúng ta nghĩ Ngài đã bỏ rơi chúng ta và không còn hy vọng cứu rỗi gì nữa. Đó là một nghịch lý, nhưng đối với nhiều Kitô hữu, đau khổ và bóng tối đã trở thành… những nơi gặp gỡ Thiên Chúa” [79]. Mong muốn được sống trọn vẹn và trải nghiệm những điều mới mẻ cũng được cảm nhận bởi nhiều người trẻ bị khuyết tật về thể chất, tinh thần và giác quan. Mặc dù không phải lúc nào họ cũng có thể có những trải nghiệm giống như những người khác, họ vẫn sở hữu những nguồn lực và khả năng đáng kinh ngạc thường vượt xa mức trung bình. Chúa Giêsu ban cho họ những hồng phúc khác, mà cộng đồng được kêu gọi công nhận và đánh giá cao, để họ có thể khám phá kế hoạch tình yêu của Người dành cho mỗi người.

Trong tình bạn với Chúa Kitô

150. Cho dù các bạn sống bao nhiêu trải nghiệm trong những năm tháng tuổi trẻ này, các bạn sẽ không bao giờ biết ý nghĩa sâu sắc và đầy đủ nhất của chúng trừ khi mỗi ngày các bạn gặp người bạn thân nhất của các bạn, người bạn có tên là Giêsu.

151. Tình bạn là một trong những quà phúc của cuộc sống và một ơn thánh của Thiên Chúa. Qua bạn bè của chúng ta, Chúa tinh chỉnh chúng ta và dẫn chúng ta đến sự trưởng thành. Những người bạn trung thành, những người luôn sát cánh bên chúng ta trong những lúc khó khăn, cũng là một phản chiếu của tình yêu Chúa, sự hiện diện dịu dàng và đầy an ủi của Người trong cuộc sống của chúng ta. Kinh nghiệm tình bạn dạy chúng ta cởi mở, thấu hiểu và quan tâm đến người khác, thoát ra khỏi sự cô lập êm ái của chính mình và chia sẻ cuộc sống của mình với người khác. Vì lý do này, “Không gì đổi lấy được một người bạn trung thành” (Hc 6:15).

152. Tình bạn không phải là mối liên hệ thoáng qua hoặc tạm thời, mà là mối liên hệ ổn định, bền chặt và chung thủy và trưởng thành với thời gian. Một mối liên hệ âu yếm mang chúng ta lại với nhau và một tình yêu rộng lượng khiến chúng ta tìm kiếm điều tốt đẹp của bạn mình. Bạn bè có thể khá khác biệt với nhau, nhưng họ luôn có những điểm chung khiến họ gần gũi nhau hơn trong sự cởi mở và tin tưởng lẫn nhau [80].

153. Tình bạn rất quan trọng đến nỗi Chúa Giêsu tự gọi Người là một người bạn: “Thầy không gọi các con là đầy tớ, nhưng Thầy gọi các con là bạn bè” (Ga 15:15). Nhờ hồng phúc ơn thánh của Người, chúng ta được nâng cao một cách đến nỗi thực sự trở thành bạn bè của Người. Với cùng một tình yêu mà Chúa Kitô đã tuôn đổ cho chúng ta, chúng ta có thể lần lượt yêu Người trở lại và chia sẻ tình yêu của Người với những người khác, với hy vọng rằng họ cũng sẽ chiếm vị trí của họ trong cộng đồng tình bạn mà Người đã thiết lập. Và cả khi Người đang tận hưởng niềm hạnh phúc trọn vẹn của cuộc sống phục sinh, chúng ta, về phần mình, chúng ta có thể làm việc cách quảng đại để giúp Người xây dựng vương quốc của Người trong thế giới này, bằng cách mang sứ điệp của Người, ánh sáng của Người và trên hết tình yêu của Người, đến những người khác (x. Ga 15:16). Các môn đệ nghe Chúa Giêsu gọi họ là bạn của Người. Đó là một lời mời không gây áp lực cho họ, nhưng nhẹ nhàng kêu gọi sự tự do của họ. Chúa Giêsu nói với họ “Hãy đến mà xem”; vì vậy, “họ đã đến và thấy nơi Người ở, và họ ở lại với Người ngày hôm đó” (Ga 1, 39). Sau cuộc gặp gỡ bất ngờ và cảm động đó, họ bỏ mọi sự và đi theo Người.

154. Tình bạn với Chúa Giêsu không thể bị phá vỡ. Người không bao giờ rời xa chúng ta, mặc dù đôi lúc dường như Người giữ im lặng. Khi chúng ta cần Người, Người tự làm chúng ta thấy Người (xem Grm 29:14); Người vẫn ở bên chúng ta bất cứ chúng ta đi đâu (xem Gs 1: 9). Người không bao giờ phá vỡ giao ước của Người. Người chỉ đơn giản yêu cầu chúng ta đừng bỏ rơi Người: “Hãy ở trong Thầy” (Ga 15: 4). Nhưng ngay cả khi chúng ta lạc xa Người, Người vẫn trung thành, vì Người không thể chối bỏ chính mình” (2 Tm 2:13).

155. Với một người bạn, chúng ta có thể nói và chia sẻ những bí mật sâu sắc nhất. Với Chúa Giêsu cũng vậy, chúng ta luôn có thể có một cuộc chuyện vãn. Cầu nguyện vừa là một thách thức vưà là một phiêu lưu. Và thật là một cuộc phiêu lưu kỳ thú! Dần dần, Chúa Giêsu làm chúng ta đánh giá cao sự vĩ đại của Người và tiến lại gần Người hơn. Cầu nguyện cho phép chúng ta chia sẻ với Người mọi khía cạnh của cuộc sống chúng ta và tin tưởng nghỉ ngơi trong vòng tay của Người. Đồng thời, nó cho chúng ta tham dự vào cuộc sống và tình yêu của Người. Khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta “thổ lộ mọi điều chúng ta làm” với Người và chúng ta dành cho Người không gian” để Người có thể hành động, nhập cuộc và giành chiến thắng” [81].

156. Nhờ cách trên, chúng ta có thể trải nghiệm sự gần gũi liên tục với Người, lớn hơn bất cứ điều gì chúng ta có thể trải nghiệm với một người khác: “Không còn là tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2:20). Đừng tước đi khỏi tuổi trẻ các bạn tình bạn này. Các bạn sẽ có thể cảm thấy Người ở bên các bạn không chỉ lúc các bạn cầu nguyện, mà ở mọi thời điểm. Hãy cố gắng tìm kiếm Người, thì các bạn sẽ có những trải nghiệm tuyệt vời khi thấy Người luôn ở bên các bạn. Đó là những gì mà các môn đệ Emmau đã trải qua khi, trong lúc họ đang bước đi một cách chán nản, Chúa Giêsu “tiến đến gần và cuốc bộ với họ” (Lc 24:15). Theo lời một vị thánh, “Kitô giáo không phải là một tập hợp các sự thật phải được tin, các quy tắc phải được tuân theo hoặc các cấm đoán. Nhìn cách này, nó làm chúng ta cụt hứng. Kitô giáo là một người yêu tôi vô cùng, người đòi hỏi và yêu cầu tình yêu của tôi. Kitô giáo là Chúa Kitô” [82].

157. Chúa Giêsu có thể mang mọi người trẻ của Giáo hội đến với nhau trong một giấc mơ đơn nhất, “một giấc mơ vĩ đại, một giấc mơ có chỗ cho mọi người. Giấc mơ mà Chúa Giêsu đã hiến mạng sống mình trên thập tự giá cho, mà Chúa Thánh Thần đã được tuôn tràn cho vào ngày Lễ Ngũ Tuần và mang lửa đến trái tim của mọi người nam nữ, đến trái tim của các bạn và của tôi. Người cũng đã mang ngọn lửa đó đến cả trái tim của các bạn nữa, với hy vọng tìm được chỗ cho nó phát triển và đơm bông. Một giấc mơ có tên là Giêsu, được Chúa Cha gieo trồng với niềm tin tưởng rằng nó sẽ lớn lên và sống trong mọi trái tim. Một giấc mơ cụ thể vốn là một con người, chạy khắp các huyết quản của chúng ta, làm rung động trái tim của chúng ta và khiến chúng nhảy múa” [83].

Tăng trưởng tới trưởng thành

158. Nhiều người trẻ quan tâm đến cơ thể của họ, cố gắng xây dựng sức mạnh thể chất hoặc cải thiện ngoại hình của họ. Những người khác làm việc để phát triển tài năng và kiến thức của họ, để cảm thấy chắc chắn hơn về bản thân. Một số nhắm cao hơn, tìm cách tham gia nhiều hơn và phát triển về thiêng liêng. Thánh Gioan đã nói: “Hỡi các bạn trẻ, tôi đã viết cho anh em: anh em là những người mạnh mẽ; “lời Thiên Chúa ở lại trong anh em” (1 Ga 2:14). Tìm kiếm Chúa, giữ lời Người, phó thác đời sống chúng ta cho Người và lớn lên trong các nhân đức: tất cả những điều này làm cho trái tim trẻ mạnh mẽ. Đó là lý do tại sao các bạn cần nối kết cới Chúa Giêsu”ở lại trực tuyến” với Người, vì các bạn sẽ không tăng trưởng thành người hạnh phúc và thánh thiện chỉ bằng nỗ lực và trí thông minh của riêng các bạn. Giống như các bạn đã cố gắng không để mất kết nối với internet, hãy chắc chắn rằng bạn vẫn kết nối với Chúa. Điều này có nghĩa là không cắt đứt cuộc đối thoại, lắng nghe Người, chia sẻ cuộc sống của các bạn với Người và, bất cứ khi nào bạn không chắc chắn về những gì bạn nên làm, hãy hỏi Người: “Lạy Chúa Giêsu, ở vị trí con Chúa sẽ làm gì”? [84]

159. Tôi hy vọng rằng các bạn sẽ đủ nghiêm túc về bản thân để nỗ lực phát triển về thiêng liêng. Cùng với tất cả những điều thú vị khác về tuổi trẻ, cũng có vẻ đẹp của việc tìm kiếm “sự chính trực, đức tin, tình yêu và hòa bình” (2 Tm 2:22). Điều này không liên quan đến việc để mất bất cứ điều gì thuộc tính tự phát, táo bạo, nhiệt tình và dịu dàng của các bạn. Trở thành người lớn không có nghĩa bạn phải từ bỏ những gì tốt đẹp nhất trong giai đoạn này của cuộc đời các bạn. Nếu các bạn làm thế, một ngày nào đó Chúa sẽ trách mắng các bạn: “Ta nhớ lại lòng trung nghĩa của ngươi lúc ngươi còn trẻ, tình yêu của ngươi khi ngươi mới thành hôn, lúc ngươi theo Ta trong sa mạc” (Grm 2: 2).

160. Người lớn cũng vậy, phải trưởng thành mà không đánh mất các giá trị của tuổi trẻ. Mỗi giai đoạn của cuộc đời là một ơn thánh thường hằng, với giá trị lâu bền của riêng nó. Kinh nghiệm của một tuổi trẻ được sống tốt luôn tồn tại trong trái tim của chúng ta. Nó tiếp tục lớn lên và sinh hoa trái suốt tuổi trưởng thành. Người trẻ tự nhiên bị thu hút bởi một chân trời vô tận mở ra trước mắt họ [85]. Cuộc sống trưởng thành, với các an toàn và tiện nghi của nó, có thể có nguy cơ thu hẹp chân trời đó và mất đi sự phấn khích trẻ trung đó. Điều ngược lại sẽ xảy ra: khi chúng ta trưởng thành, lớn tuổi hơn và lên cơ cấu cho cuộc sống của mình, chúng ta không bao giờ nên đánh mất sự nhiệt tình và cởi mở đối với một thực tại luôn lớn hơn. Tại mọi thời điểm trong cuộc sống, chúng ta có thể làm mới sự trẻ trung của mình. Khi tôi bắt đầu sứ vụ của mình với tư cách là Giáo hoàng, Chúa đã mở rộng các chân trời của tôi và ban cho tôi tuổi trẻ đổi mới. Điều tương tự có thể xảy ra với một cặp vợ chồng kết hôn đã nhiều năm, hoặc với một đan sĩ trong đan viện của ngài. Có những thứ chúng ta cần “buông thả” với năm tháng trôi qua, nhưng việc tăng trưởng có thể cùng tồn tại với một ngọn lửa không ngừng được nhóm lên, với một trái tim trẻ trung mãi.

161. Lớn lên có nghĩa là giữ gìn và trân trọng những điều quý giá nhất của tuổi trẻ chúng ta, nhưng nó cũng liên quan đến việc phải thanh lọc những điều không tốt và nhận những hồng phúc mới của Chúa để chúng ta có thể phát triển những điều thực sự quan trọng. Đôi khi, một mặc cảm tự ti nào đó có thể khiến bạn bỏ qua những khiếm khuyết và điểm yếu của mình, nhưng điều đó có thể kìm hãm bạn phát triển trong việc trở nên trưởng thành. Thay vào đó, hãy để mình được Chúa yêu thương, vì các bạn như thế nào Người cũng yêu các bạn như thế. Người trân trọng và tôn trọng các bạn, nhưng Người cũng tiếp tục ban cho các bạn nhiều hơn: nhiều tình bạn của Người hơn, nhiều nhiệt thành trong lời cầu nguyện hơn, nhiều khao khát lời của Người hơn, nhiều khao khát được tiếp nhận Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể hơn, nhiều mong muốn được sống theo Tin Mừng của Người hơn, nhiều sức mạnh nội tâm hơn, nhiều bình an và niềm vui thiêng liêng hơn.

162. Nhưng tôi cũng muốn nhắc nhở các bạn rằng các bạn sẽ không trở thành thánh thiện và tìm thấy sự thành toàn bằng cách sao chép người khác. Bắt chước các Thánh không có nghĩa là sao chép lối sống và cách sống sự thánh thiện của các ngài: “có một số chứng từ có thể chứng minh là hữu ích và gợi hứng, nhưng người ta không mong chờ chúng ta sao chép, vì điều này thậm chí có thể khiến chúng ta lạc xa nẻo đường chuyên biệt mà Chúa có ý dành cho chúng ta [86]. Các bạn phải khám phá ra các bạn là ai và khai triển cách nên thánh của riêng các bạn, bất kể người khác muốn nói hoặc nghĩ gì. Trở thành một vị thánh có nghĩa là trở thành chính các bạn một cách đầy đủ hơn, trở thành điều Chúa muốn mơ ước và tạo nên, chứ không phải một bản sao. Cuộc sống của các bạn phải là một kích thích tiên tri cho người khác và để lại dấu ấn trên thế giới này, dấu ấn độc nhất mà chỉ các bạn mới có thể để lại. Trong khi đó, nếu các bạn chỉ sao chép một ai khác, các bạn sẽ tước đi của trái đất này và của cả thiên đàng một điều gì đó không ai có thể cung hiến. Tôi nghĩ tới Thánh Gioan Thánh giá, người đã viết trong Ca Khúc Thiêng Liêng của ngài rằng mọi người nên được hưởng lợi từ lời khuyên thiêng liêng của ngài, “theo cách riêng của họ” [87], vì Thiên Chúa duy nhất muốn biểu lộ ơn thánh của Người “cho người này một cách và cho người khác một cách khác” [88].

Các nẻo đường huynh đệ

163. Sự tăng trưởng thiêng liêng của các bạn được biểu lộ trước hết bằng sự tăng trưởng của các bạn trong tình yêu huynh đệ, rộng lượng và nhân hậu. Thánh Phaolô đã cầu nguyện: “Xin Chúa làm cho anh em gia tăng và dồi dào trong tình yêu dành cho nhau và dành cho mọi người” (1 Tx 3:12). Thật tuyệt vời biết bao được trải nghiệm điều “xuất thần” ra khỏi con người chúng ta này và tìm kiếm điều tốt đẹp cho người khác, thậm chí đến hy sinh mạng sống của chúng ta.

164. Sở dĩ người ta gọi một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa là “xuất thần”, là bởi vì nó đưa chúng ta ra khỏi chính mình, nâng chúng ta lên và làm chúng ta choáng ngợp trong tình yêu và vẻ đẹp của Thiên Chúa. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể trải nghiệm sự xuất thần khi chúng ta nhận ra ở người khác vẻ đẹp tiềm ẩn, phẩm giá và sự vĩ đại của họ như hình ảnh của Thiên Chúa và con cái của Chúa Cha. Chúa Thánh Thần muốn làm cho chúng ta ra khỏi chính mình, để ôm lấy người khác một cách đầy yêu thương và tìm kiếm điều tốt cho họ. Đó là lý do tại sao luôn là điều tốt hơn khi sống đức tin với nhau và biểu lộ tình yêu của chúng ta bằng cách sống trong cộng đồng và chia sẻ tình âu yếm, thì giờ, đức tin và các rắc rối của chúng ta với các người trẻ khác. Giáo hội cung cấp nhiều khả thể khác nhau để sống đức tin của chúng ta trong cộng đồng, vì mọi sự sẽ dễ dàng hơn khi chúng ta làm điều đó cùng với nhau.

165. Những tổn thương mà các bạn đã kinh qua có thể cám dỗ các bạn rút lui khỏi người khác, tự quay vào chính mình và nuôi dưỡng các cảm quan tức giận, nhưng đừng bao giờ ngừng lắng nghe tiếng Chúa gọi tha thứ. Các Giám mục Rwanda nói rất rõ: “Để hòa giải với một người khác, trước hết anh chị em phải có khả năng nhìn thấy sự tốt lành nơi người đó, lòng tốt mà Thiên Chúa đã tạo nên nơi họ… Điều này đòi hỏi rất nhiều cố gắng để phân biệt hành vi phạm tội với người phạm tội; nó có nghĩa anh chị em ghét sự xúc phạm mà người đó vi phạm, nhưng anh chị em yêu người đó bất chấp sự yếu đuối của họ, vì nơi họ, anh chị em thấy hình ảnh của Thiên Chúa” [89].

166. Có những lúc khi mọi năng lực, ước mơ và nhiệt huyết trẻ trung của chúng ta có thể giảm sút vì chúng ta bị cám dỗ chỉ loay hoay với chính mình và những vấn đề của chính mình, những cảm xúc tổn thương và bất bình của chúng ta. Đừng để những điều này xảy ra với các bạn! Các bạn sẽ già trước tuổi. Mỗi tuổi đều có vẻ đẹp của nó, và những năm tháng tuổi trẻ của chúng ta cần được đánh dấu bằng những lý tưởng, hy vọng và ước mơ chung, những chân trời vĩ đại mà chúng ta có thể cùng nhau chiêm ngưỡng.

167. Chúa yêu niềm vui của người trẻ. Người muốn họ đặc biệt chia sẻ niềm vui của tình hiệp thông huynh đệ, niềm vui cao siêu của những người biết chia sẻ với người khác, vì, “cho có phúc hơn nhận” (Cv 20:35). “Thiên Chúa yêu người cho vui vẻ” (2 Cr 9: 7). Tình yêu huynh đệ nhân thừa khả năng trải nghiệm niềm vui của chúng ta, vì nó khiến chúng ta hân hoan trong điều tốt của người khác: “Hãy vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12:15). Mong sao sự tự phát trẻ trung của các bạn ngày càng được phát biểu qua tình yêu huynh đệ và sự sẵn sàng liên tục để tha thứ, rộng lượng và xây dựng cộng đồng. Như một câu ngạn ngữ châu Phi thường nói: “Nếu bạn muốn đi nhanh, hãy tự đi bộ. Nếu bạn muốn đi xa, hãy đi bộ với những người khác”. Chúng ta đừng để mình bị cướp mất tình huynh đệ.

Trẻ trung và dấn thân

168. Đôi khi, thấy một thế giới đầy bạo lực và ích kỷ, người trẻ có thể bị cám dỗ muốn rút vào các nhóm nhỏ, trốn tránh các thách thức và vấn đề do cuộc sống trong xã hội và trong thế giới rộng lớn hơn đặt ra. Họ có thể cảm thấy họ đang trải nghiệm tình anh em và tình yêu, nhưng thực tế nhóm nhỏ của họ có thể trở thành chỉ là một cánh tay vươn dài của chính bản ngã họ. Điều này thậm chí còn nghiêm trọng hơn nếu họ nghĩ tới ơn gọi giáo dân chỉ đơn giản là một hình thức phục vụ bên trong Giáo hội: phục vụ như những người đọc sách, thừa tác viên thánh thể, giáo lý viên, v.v. Họ quên rằng ơn gọi giáo dân trước hết được điều hướng sống bác ái trong gia đình và trong xã hội cũng như chính trị. Nó là một dấn thân cụ thể và dựa trên đức tin để xây dựng một xã hội mới. Nó liên quan đến việc sống giữa xã hội và thế giới để mang Tin Mừng tới khắp mọi nơi, hoạt động vì sự lớn mạnh của hòa bình, hòa hợp, công bằng, nhân quyền và lòng thương xót, và do đó mở rộng vương quốc Thiên Chúa trong thế giới này.

169. Tôi yêu cầu người trẻ vượt ra ngoài các nhóm nhỏ của họ và xây dựng “tình bạn xã hội, trong đó, mọi người làm việc vì lợi ích chung. Sự thù hận xã hội, mặt khác, có tính phá hoại. Các gia đình bị phá hoại bởi sự thù hận. Các quốc gia bị phá hoại bởi thù hận. Thế giới bị hủy diệt bởi sự thù hận. Và thù hận lớn nhất là chiến tranh. Ngày nay, chúng ta thấy thế giới đang tự hủy hoại chính mình bởi chiến tranh… Vì vậy, hãy tìm cách xây dựng tình bạn xã hội” [90]. Điều này không dễ dàng, nó luôn có nghĩa là từ bỏ một thứ gì đó và thương lượng, nhưng nếu chúng ta làm điều đó vì mục đích giúp đỡ người khác, chúng ta có thể có một trải nghiệm tuyệt vời về việc gạt khác biệt của mình sang một bên và cùng nhau làm một điều gì đó lớn lao hơn. Nếu, nhờ các cố gắng đơn giản và đôi khi đắt giá của mình, chúng ta có thể tìm thấy những điểm thỏa thuận giữa xung đột, xây dựng các cây cầu và tạo hòa bình vì lợi ích của mọi người, thì chúng ta sẽ trải nghiệm được phép màu của nền văn hóa gặp gỡ. Đây là điều các bạn trẻ có thể dám theo đuổi một cách say mê.

170. Thượng hội đồng nhìn nhận rằng, “mặc dù theo cách khác với các thế hệ trước, cam kết xã hội là một đặc điểm chuyên biệt của người trẻ ngày nay. Bên cạnh một số người thờ ơ, có nhiều người khác sẵn sàng tự dấn thân thực hiện các sáng kiến làm việc thiện nguyện, công dân tích cực và liên đới xã hội. Họ cần được đồng hành và khuyến khích trong việc sử dụng tài năng và kỹ năng của họ một cách sáng tạo, và được khuyến khích đảm nhận các trách nhiệm của họ. Sự dấn thân xã hội và tiếp xúc trực tiếp với người nghèo vẫn là những cách căn bản để tìm kiếm hoặc làm sâu sắc thêm đức tin của người ta và sự biện phân ơn gọi của họ… Người ta cũng ghi nhận rằng người trẻ sẵn sàng bước vào đời sống chính trị để xây dựng lợi ích chung [91].

171. Cảm ơn Chúa, hôm nay, nhiều người trẻ trong các giáo xứ, trường học, phong trào và các nhóm đại học thường ra ngoài, dành thì giờ với người già và người yếu ớt, hoặc đến thăm các khu dân cư nghèo, hoặc để đáp ứng nhu cầu của người ta qua “các đêm bác ái”. Họ rất thường xuyên nhận ra rằng ở những nơi đó họ nhận được nhiều hơn những gì họ cho đi. Chúng ta lớn lên trong sự khôn ngoan và trưởng thành khi chúng ta dành thì giờ tiếp xúc với nỗi khổ đau của người khác. Người nghèo có sự khôn ngoan tiềm ẩn và, bằng một vài lời đơn giản, họ có thể giúp chúng ta khám phá ra các giá trị bất ngờ.

172. Những người trẻ khác tham gia vào các chương trình xã hội xây dựng nhà cửa cho người vô gia cư, hoặc phục hồi các khu vực bị ô nhiễm hoặc cung cấp nhiều loại trợ giúp cho người túng thiếu. Sẽ rất hữu ích nếu năng lực chung này có thể được gom góp và tổ chức một cách ổn định hơn và với các mục tiêu rõ ràng, để có thể hữu hiệu hơn nữa. Các sinh viên đại học có thể áp dụng kiến thức của họ một cách liên ngành, cùng với các người trẻ của các giáo hội hoặc tôn giáo khác, để đề ra các giải pháp cho các vấn đề xã hội.

173. Như trong phép lạ của Chúa Giêsu, bánh và cá được cung cấp bởi người trẻ có thể được nhân thừa (x. Ga 6: 4-13). Như trong dụ ngôn, những hạt giống nhỏ được người trẻ gieo trồng có thể mang lại một vụ mùa bội thu (x. Mt 13: 23,31-32). Tất cả những điều này có nguồn sống của nó trong Bí tích Thánh Thể, trong đó bánh và rượu của chúng ta được biến đổi để ban cho chúng ta sự sống đời đời. Người trẻ phải đối đầu với những thách thức to lớn và khó khăn. Với đức tin vào Chúa phục sinh, họ có thể đối đầu với chúng một cách sáng tạo và đầy hy vọng, luôn sẵn sàng phục vụ, giống như những đầy tớ trong tiệc cưới, vô tình hợp tác trong phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu. Họ không làm gì khác hơn là tuân theo mệnh lệnh của Mẹ Người. “Hãy làm bất cứ điều gì Người nói với anh em” (Ga 2: 5). Lòng thương xót, óc sáng tạo và niềm hy vọng làm cho cuộc sống lớn mạnh.

174. Tôi muốn khuyến khích tất cả các bạn trong nỗ lực này, vì tôi biết rằng, trái tim trẻ trung của các bạn muốn xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Tôi đã theo dõi các bản tin thời sự về nhiều người trẻ trên khắp thế giới, những người đã xuống đường để bày tỏ mong muốn về một xã hội công bằng và huynh đệ hơn. Các bạn trẻ xuống đường! Các bạn trẻ muốn trở thành nhân vật chủ động của sự thay đổi. Xin vui lòng, đừng để người khác làm nhân vật chủ động của sự thay đổi. Các bạn là người nắm giữ tương lai! Qua các bạn, tương lai đi vào thế giới. Tôi yêu cầu các bạn cũng là nhân vật chủ động của việc biến đổi này. Các bạn là người nắm giữ chìa khóa mở cửa tương lai! Hãy tiếp tục đánh phá sự lãnh cảm và đưa ra một phản ứng Kitô giáo đối với các rắc rối xã hội và chính trị đang xuất hiện ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Tôi yêu cầu các bạn xây dựng tương lai, làm việc cho một thế giới tốt đẹp hơn. Các bạn trẻ thân mến, xin vui lòng, đừng là người ngoài cuộc trong cuộc sống. Hãy can dự vào! Chúa Giêsu không làm người ngoài cuộc. Người đã can dự. Đừng đứng cách biệt, nhưng hãy dìm mình vào thực tại cuộc sống, như Chúa Giêsu đã từng làm” [92]. Trên hết, bằng cách này hay cách khác, hãy đấu tranh vì lợi ích chung, hãy phục vụ người nghèo, hãy là các nhân vật chủ động của cuộc cách mạng bác ái và phục vụ, có khả năng chống lại các bệnh lý của chủ nghĩa tiêu thụ và chủ nghĩa cá nhân hời hợt.

Những nhà truyền giáo can đảm

175. Tràn đầy tình yêu Chúa Kitô, người trẻ được mời gọi làm chứng nhân Tin Mừng bất cứ họ ở đâu, qua cách họ sống. Thánh Alberto Hurtado từng nói rằng, “trở thành một tông đồ không có nghĩa là đeo một cái ghim cài áo; không phải là nói về sự thật mà là sống sự thật, hiện thân cho nó, được biến đổi trong Chúa Kitô. Trở thành một tông đồ không có nghĩa là mang một ngọn đuốc trong tay, sở hữu ánh sáng, nhưng là ánh sáng đó… Hơn một bài học, Tin Mừng là một điển hình. Một sứ điệp trở thành một cuộc sống được sống trọn vẹn” [93].

176. Tầm quan trọng của chứng nhân không có nghĩa chúng ta nên im lặng trong lời nói. Tại sao chúng ta không nên nói về Chúa Giêsu, tại sao chúng ta không nên kể cho người khác hay Người ban cho chúng ta sức mạnh trong cuộc sống, chúng ta vui hưởng việc nói chuyện với Người, chúng ta được hưởng ích từ việc suy nghĩ về lời nói của Người? Các bạn trẻ thân mến, đừng để thế giới lôi kéo các bạn vào những điều sai trái và hời hợt. Hãy học cách bơi ngược dòng, hãy học cách chia sẻ Chúa Giêsu và đức tin Người đã ban cho các bạn. Ước mong các bạn được thúc đẩy bởi cùng một thôi thúc không thể cưỡng lại đó, một thôi thúc từng khiến Thánh Phaolô nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không loan báo Tin Mừng!” (1 Cr 9:16)

177. “Chúa Giêsu sai chúng ta đi đâu? Không có biên giới, không có giới hạn: Người sai chúng ta đi khắp nơi. Tin Mừng dành cho mọi người, không chỉ dành cho một số người. Nó không chỉ dành cho những người có vẻ gần gũi với chúng ta hơn, dễ tiếp thu hơn, chào đón hơn. Nó dành cho tất cả mọi người. Đừng ngại ra đi và mang Chúa Kitô vào mọi lĩnh vực của cuộc sống, đến các ngoại vi xã hội, đến với cả những người có vẻ xa cách và hờ hững nhất. Chúa tìm kiếm mọi người; Người muốn mọi người cảm nhận được sự ấm áp của lòng thương xót và tình yêu của Người [94]. Người mời chúng ta trở thành những nhà truyền giáo không sợ hãi bất kể chúng ta ở đâu và trong bất cứ môi trường nào: trong các khu phố của chúng ta, trong trường học hoặc thể thao hoặc sinh hoạt xã hội, trong phục vụ tình nguyện hoặc tại nơi làm việc. Bất cứ ở đâu, chúng ta luôn có cơ hội để chia sẻ niềm vui Tin Mừng. Các người trẻ thân mến, đó là cách Chúa ra đi gặp gỡ mọi người. Người yêu các bạn, vì các bạn là các phương thế để Người có thể lan tỏa ánh sáng và hy vọng. Người đang trông chờ vào sự can đảm, sự táo bạo và nhiệt tình của các bạn.

178. Đừng nghĩ rằng sứ mệnh này là nhẹ nhàng và dễ dàng. Một số người trẻ đã hy sinh mạng sống của họ vì mục đích ra đi truyền giáo. Như các giám mục Hàn Quốc đã nói: “chúng ta hy vọng rằng chúng ta có thể là những hạt lúa mì và dụng cụ để cứu rỗi nhân loại, noi gương các vị tử đạo. Mặc dù đức tin của chúng ta nhỏ bé như hạt cải, Thiên Chúa sẽ cho nó tăng trưởng và sử dụng nó như một công cụ cho công việc cứu rỗi của Người [95]. Các bạn trẻ thân mến, đừng đợi đến ngày mai để đóng góp năng lực, sự táo bạo và sự sáng tạo của các bạn để thay đổi thế giới của chúng ta. Tuổi trẻ của các bạn không phải là “một thời gian ở giữa”. Các bạn là lúc bây giờ của Thiên Chúa, và Người muốn các bạn sinh hoa trái [96]. Vì “lúc cho đi là lúc chúng ta nhận lãnh” [97]. Cách tốt nhất để chuẩn bị một tương lai tươi sáng là trải nghiệm hiện tại bao nhiêu có thể, một cách dấn thân và rộng lượng.

CHƯƠNG SÁU: Những người trẻ có gốc rễ

179. Đôi khi tôi thấy những cây non và đẹp, cành của chúng vươn lên trời, mỗi ngày mỗi tự đẩy lên cao hơn, và chúng giống như một bài ca hy vọng. Sau đó, sau một cơn bão, tôi thấy chúng ngã xuống, vô hồn. Chúng thiếu rễ sâu. Chúng tỏa rộng các nhánh mà không được trồng chắc chắn, và vì vậy chúng ngã xuống ngay khi thiên nhiên xổ lồng sức mạnh của nó. Đó là lý do tại sao tôi cảm thấy đau đớn khi thấy những người trẻ đôi khi được khuyến khích xây dựng một tương lai mà không có gốc rễ chi, như thể thế giới chỉ mới bắt đầu bây giờ. Vì “chúng ta không thể lớn mạnh nếu không có gốc rễ mạnh mẽ để nâng đỡ chúng ta và giữ cho chúng ta có nền tảng vững chắc. Thật dễ dàng bị trôi dạt, khi không có gì để bám vào, để giữ vững” [98].

Đừng để các bạn bị bứng rễ

180. Đây là một vấn đề quan trọng và tôi muốn dành một chương ngắn để thảo luận về nó. Nếu chúng ta đánh giá cao vấn đề này, chúng ta có thể phân biệt niềm vui của tuổi trẻ với sự sùng bái tuổi trẻ cách sai lầm, có thể bị sử dụng để quyến rũ và thao túng những người trẻ tuổi.

181. Hãy nghĩ đến điều đó: nếu ai đó nói với những người trẻ tuổi bỏ qua lịch sử của họ, bác bỏ các kinh nghiệm của người lớn tuổi, coi thường quá khứ và hướng tới một tương lai mà người này đề cao, há không trở nên dễ dàng lôi kéo họ tin theo để họ chỉ làm những gì người này nói với họ đó sao? Người này cần những người trẻ nông cạn, bị bứng gốc và không tin tưởng, để họ chỉ có thể tin tưởng vào những lời hứa của người này và hành động theo kế hoạch của người này. Đó là cách các ý thức hệ khác nhau đang hoạt động: chúng phá hoại (hoặc phá tung) mọi khác biệt để chúng có thể trị vì không bị chống đối. Tuy nhiên, để làm được như vậy, chúng cần những người trẻ không ích gì cho lịch sử, những người vứt bỏ các kho tàng thiêng liêng và nhân bản thừa hưởng từ các thế hệ trước và không biết bất cứ điều gì đã xuất hiện trước họ.

182. Những bậc thầy thao túng trên còn sử dụng một chiến thuật khác: sùng bái tuổi trẻ, bác bỏ tất cả những gì không trẻ như là đáng khinh và lỗi thời. Cơ thể trẻ trở thành biểu tượng của giáo phái mới này; tất cả mọi thứ liên quan đến cơ thể đó đều được thần tượng hóa và thèm muốn, trong khi bất cứ điều gì không còn trẻ đều bị coi thường. Nhưng sự sùng bái tuổi trẻ này chỉ đơn giản là một mưu chước, cuối cùng chứng tỏ chỉ có tính hạ giá người trẻ; nó tước đi của họ bất cứ giá trị thực chất nào và sử dụng chúng cho lợi ích cá nhân, tài chính hoặc chính trị.

183. Các bạn trẻ thân mến, đừng để họ khai thác tuổi trẻ của các bạn để cổ vũ một cuộc sống nông cạn làm cho vẻ đẹp bị lẫn lộn với vẻ bề ngoài. Hãy nhận ra rằng có một vẻ đẹp trong người lao động trở về nhà đầy bụi bặm và xốc xếch, nhưng với niềm vui đã kiếm được thức ăn cho gia đình. Có một vẻ đẹp phi thường trong mối hiệp thông của một gia đình tại bàn ăn, quảng đại chia sẻ những gì nó có. Có vẻ đẹp nơi người vợ, hơi nhếch nhác và không còn trẻ, người vẫn tiếp tục chăm sóc người chồng ốm yếu mặc dù sức khỏe của bà không ổn. Rất lâu sau khi mùa xuân tán tỉnh của họ trôi qua, còn cái đẹp trong lòng chung thủy của những cặp vợ chồng vẫn còn yêu nhau trong cảnh mùa thu của cuộc đời, những người già vẫn nắm tay nhau bước đi. Ngoài ra còn một vẻ đẹp, không liên quan gì tới vẻ bề ngoài hay áo quần thời trang, nơi mọi người đàn ông và đàn bà theo đuổi ơn gọi bản thân của họ bằng tình yêu, quên mình phục vụ cộng đồng hay quốc gia, trong việc cố gắng xây dựng một gia đình hạnh phúc, trong việc nỗ lực đầy vị tha và đòi hỏi để thăng tiến sự hòa hợp xã hội. Tìm ra, biểu lộ và làm nổi bật vẻ đẹp này, một vẻ đẹp giống như vẻ đẹp của Chúa Kitô trên thập giá, là đặt nền tảng cho tình liên đới xã hội chân chính và nền văn hóa gặp gỡ.

184. Cùng với các chiến lược tôn sùng tuổi trẻ và ngoại hình, chúng ta cũng đang mục kích các mưu toan nhằm cổ vũ một nền linh đạo không có Thiên Chúa, một cảm giới không có cộng đồng hoặc quan tâm đến những người đau khổ, sợ người nghèo, bị coi là nguy hiểm và hàng loạt các chủ trương nhằm cung hiến một thiên đường trong tương lai mà dù sao dường như ngày càng xa vời. Tôi không muốn cung cấp cho các bạn bất cứ điều gì như thế, và với tình yêu lớn, tôi khuyên các bạn đừng để bản thân bị cuốn theo ý thức hệ này. Nó sẽ không làm các bạn trẻ hơn, nhưng thay vào đó nô dịch các bạn. Tôi đề nghị một cách khác, cách phát sinh từ tự do, nhiệt huyết, sáng tạo và những chân trời mới, đồng thời vun sới các gốc rễ nhằm nuôi dưỡng và duy trì chúng ta.

185. Về vấn đề này, tôi muốn lưu ý điều này, “nhiều nghị phụ Thượng hội đồng phát xuất từ các bối cảnh không thuộc phương Tây đã chỉ ra rằng ở nước họ, hoàn cầu hóa đang mang theo với nó hình thức thực dân hóa văn hóa, cắt đứt người trẻ khỏi cội nguồn văn hóa và tôn giáo của họ. Giáo hội cần phải cam kết đồng hành với những người trẻ này, để trong diễn trình này, họ không quên bỏ các đặc điểm quý giá nhất trong bản sắc của họ” [99].

186. Thực vậy, ngày nay, chúng ta thấy có xu hướng muốn “đồng nhất hóa” (homogenize) người trẻ, làm mờ nhạt điều vốn khác biệt về nguồn gốc và bối cảnh của họ, và biến họ thành một đường hàng hóa mới dễ uốn nắn. Điều này tạo ra một sự tàn phá văn hóa cũng nghiêm trọng như sự diệt vong của các loài động vật và thực vật [100]. Vì lý do này, khi ngỏ lời với những người bản địa trẻ tuổi tụ tập ở Panama, tôi đã khuyến khích họ “chăm sóc các gốc rễ của các bạn, vì từ các gốc rễ phát sinh sức mạnh sẽ làm cho các bạn lớn lên, phát triển và sinh hoa trái” [101].

Mối liên hệ của các bạn với người già

187. Tại Thượng Hội Đồng, chúng ta đã nghe nói rằng “người trẻ tập chú vào tương lai và họ đương đầu với cuộc sống một cách đầy nghị lực và năng động tính. Nhưng họ cũng bị cám dỗ… ít chú ý đến ký ức quá khứ của nơi họ phát xuất, nhất là nhiều hồng phúc được cha mẹ, ông bà của họ và kinh nghiệm văn hóa của xã hội nơi họ sống truyền lại. Giúp người trẻ khám phá ra kho tàng sống động của quá khứ, trân trọng ký ức và tận dụng nó cho các lựa chọn và cơ hội của họ, là một hành động yêu thương chân chính đối với họ, vì sự phát triển của họ và những quyết định mà họ được kêu gọi thực hiện” [102].

188. Lời Chúa khuyến khích chúng ta gần gũi với người cao niên, để chúng ta có thể hưởng lợi ích từ kinh nghiệm của các ngài: “Hãy có mặt khi các bậc lão thành hội họp. Thấy vị nào khôn ngoan, hãy hết lòng gắn bó… Thấy người học thức uyên thâm, con hãy năng lui tới, chân đi mòn ngưỡng cửa nhà họ” (Hc 6: 34.36). Dù gì, những năm dài các ngài sống và tất cả những gì các ngài đã trải qua trong cuộc sống nên khiến chúng ta phải nhìn các ngài một cách tôn kính: “Thấy người đầu bạc, ngươi phải đứng lên” (Lv 19:32). Vì “Sức mạnh là niềm tự hào của giới thanh niên, mái đầu bạc là vinh dự của hàng bô lão” (Cn 20:29).

189. Kinh thánh cũng nói với chúng ta: “Hãy lắng nghe cha con, đấng sinh thành ra con, đừng khinh dể mẹ con khi người già yếu” (Cn 23:22). Lệnh truyền tôn vinh cha và mẹ chúng ta là điều răn đầu tiên mang theo một lời hứa với nó (Eph 6: 2, xem Xh 20:12; Đnl 5:16; Lv19: 3), và lời hứa đó là: “để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này (Eph 6: 3).

190. Điều này không có nghĩa là phải đồng ý với mọi điều người lớn nói hoặc tán thành mọi hành động của các ngài. Người trẻ nên luôn có tinh thần phê phán. Thánh Basilêô Cả khuyến khích giới trẻ quý trọng các tác giả Hy Lạp cổ điển, nhưng chỉ chấp nhận bất cứ điều gì tốt họ có thể dạy mà thôi [103]. Điều thực sự quan trọng là cởi mở tiếp nhận sự khôn ngoan được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, một sự khôn ngoan quen thuộc với sự yếu đuối của con người và không đáng bị tan biến trước những điều mới lạ của xã hội tiêu dùng và thị trường.

191. Thế giới chưa bao giờ được hưởng lợi, cũng như sẽ không bao giờ được hưởng lợi, từ sự đứt đoạn giữa các thế hệ. Đó là bài hát mỹ nhân ngư về một tương lai không có gốc rễ và nguồn cội. Đó là lời nói dối sẽ khiến các bạn tin rằng chỉ những gì mới mới tốt và đẹp. Khi các mối liên hệ giữa các thế hệ hiện hữu, một ký ức tập thể cũng có mặt trong các cộng đồng, vì mỗi thế hệ tiếp nhận những lời dạy dỗ của những thế hệ đi trước và lần lượt để lại một di sản cho những thế hệ kế tiếp. Bằng cách này, chúng cung cấp các khung tham chiếu để thiết lập vững chắc một xã hội mới. Như ngạn ngữ xưa vẫn nói: “Nếu người trẻ có kiến thức và sức mạnh cũ, thì sẽ không có gì họ không thể hoàn thành được”.

Các giấc mơ và thị kiến

192. Lời tiên tri của Gioen chứa một câu diễn tả điều trên rất hay: Ta sẽ đổ thần khí Ta trên hết thảy người phàm. Con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, người già được báo mộng, thanh niên thấy thị kiến” (3: 1; xem Cv 2:17). Khi cả trẻ lẫn già đều mở lòng ra cho Chúa Thánh Thần, họ tạo nên một sự kết hợp tuyệt vời. Người già mơ các giấc mơ, và người trẻ nhìn thấy các thị kiến. Làm thế nào để hai lớp tuổi bổ sung cho nhau?

193. Người cao tuổi có những giấc mơ được xây dựng từ những ký ức và hình ảnh mang dấu ấn của trải nghiệm lâu dài của các ngài. Nếu người trẻ đâm rễ trong những giấc mơ đó, họ có thể nhìn vào tương lai; họ có thể có các viễn kiến có thể mở rộng các chân trời của họ và chỉ cho họ những nẻo đường mới. Nhưng nếu người già không mơ, người trẻ sẽ không nhìn rõ đường chân trời.

194. Có lẽ cha mẹ chúng ta đã lưu giữ một ký ức có thể giúp chúng ta tưởng tượng giấc mơ mà ông bà chúng ta từng mơ ước cho chúng ta. Tất cả chúng ta, ngay trước khi sinh ra, đã nhận được, như một chúc phúc từ ông bà của chúng ta, một giấc mơ tràn ngập tình yêu và hy vọng, giấc mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Ngay cả khi không phải là ông bà của chúng ta, chắc chắn một số cụ cố của chúng ta đã có giấc mơ hạnh phúc đó khi họ chiêm ngưỡng những đứa con của họ và sau đó những đứa cháu của họ nằm trong nôi. Giấc mơ trước mọi giấc mơ là giấc mơ sáng tạo của Thiên Chúa Cha chúng ta, một giấc mơ đi trước và đồng hành với cuộc sống của mọi con cái của Người. Ký ức về sự chúc phúc kéo dài từ thế hệ này sang thế hệ khác này là một di sản quý giá mà chúng ta nên tiếp tục duy trì sống động để chúng ta cũng có thể truyền nó lại cho các thế hệ về sau.

195. Đó là lý do tại sao nên để người già kể những câu chuyện dài của họ, đôi khi có vẻ dã sử hoặc kỳ lạ – chúng là các giấc mơ của người già – nhưng thường chứa đầy những trải nghiệm phong phú, những biểu tượng hùng hồn, những sứ điệp ẩn tàng. Những câu chuyện này cần có thời gian để kể, và chúng ta nên sẵn sàng lắng nghe một cách kiên nhẫn và để chúng lắng sâu, mặc dù chúng dài hơn nhiều so với những gì chúng ta đã quen trên phương tiện truyền thông xã hội. Chúng ta phải nhận ra rằng sự khôn ngoan cần thiết cho cuộc sống đã phá vỡ giới hạn của các tài nguyên truyền thông ngày nay.

196. Trong cuốn sách Chia sẻ sự Khôn ngoan của Thời gian (Sharing the Wisdom of Time), [104] tôi đã phát biểu một số suy nghĩ dưới hình thức câu hỏi “Tôi yêu cầu điều gì nơi những người lớn tuổi trong đó có tôi? Tôi kêu gọi chúng tôi trở thành những người gìn giữ trí nhớ. Các ông các bà chúng tôi cần phải thành lập một ca đoàn. Tôi vốn hình dung các người lớn tuổi như một ca đoàn thường trực của một đền thánh tâm linh vĩ đại, nơi những lời cầu khẩn và những bài ca ngợi nâng đỡ cộng đồng lớn hơn đang hoạt động và đấu tranh trong lĩnh vực sự sống” [105]. Quả là một điều tuyệt vời “khi những chàng trai và thiếu nữ cùng nhau, những người già và trẻ em, đều ca ngợi thánh danh Chúa” (Tv 148: 12-13).

197. Người già chúng ta có thể tặng gì cho người trẻ? “Chúng ta có thể nhắc nhở những người trẻ tuổi ngày nay, những người có sự pha trộn giữa những tham vọng anh hùng và sự bất an, rằng một cuộc sống không có tình yêu là một cuộc sống khô cằn” [106]. Chúng ta có thể nói gì với họ? “Chúng ta có thể nói với người trẻ sợ hãi rằng sự lo lắng tương lai có thể vượt qua được” [107]. Chúng ta có thể dạy họ điều gì? “Chúng ta có thể dạy những người trẻ đó, đôi khi quá tập chú vào bản thân họ, rằng có nhiều niềm vui khi cho đi hơn là nhận lãnh và tình yêu đó không chỉ được biểu lộ bằng lời nói mà còn bằng hành động” [108].

Cùng nhau chấp nhận rủi ro

198. Một tình yêu rộng lượng và thoải mái, hành động và chấp nhận rủi ro, đôi khi có thể phạm sai lầm. Ở đây chúng ta có thể kịp thời được thấy chứng tá của Maria Gabriella Perin, người đã mất cha ngay sau khi bà sinh ra: bà suy nghĩ về việc điều này ảnh hưởng đến cuộc sống của bà như thế nào, trong một mối liên hệ tuy không kéo dài nhưng đã để bà lại thành một người mẹ và giờ đây một người bà. “Điều tôi biết là Chúa tạo ra các câu chuyện. Trong thiên tài và lòng thương xót của Người, Người đã lấy các chiến thắng và các thất bại của chúng ta và dệt nên những tấm thảm đẹp đẽ đầy nghịch lý. Mặt trái của tấm vải có thể trông rất lộn xộn với các sợi rối tung của nó – những biến cố trong cuộc sống của chúng ta – và có lẽ đây là mặt chúng ta loay hoay dừng lại khi chúng ta nghi ngờ. Nhưng phía phải tấm thảm hiển thị một câu chuyện tuyệt vời, và đây là mặt mà Thiên Chúa nhìn thấy” [109]. Khi những người lớn tuổi nhìn vào cuộc sống một cách kỹ lưỡng, do bản năng, các ngài thường biết điều gì ẩn đàng sau những sợi chỉ rối bời và các ngài nhận ra điều Thiên Chúa có thể tạo nên ngay từ cả những sai lầm của chúng ta.

199. Nếu chúng ta cùng nhau lữ hành, già và trẻ, chúng ta có thể bám rễ vững chắc trong hiện tại và từ đây, xem lại quá khứ và nhìn về tương lai. Xem lại quá khứ để học hỏi từ lịch sử và chữa lành các vết thương cũ mà đôi khi vẫn gây rắc rối cho chúng ta. Nhìn về tương lai để nuôi dưỡng sự nhiệt tình của chúng ta, khiến những giấc mơ xuất hiện, đánh thức các lời tiên tri và giúp hy vọng nở hoa. Cùng với nhau, chúng ta có thể học hỏi lẫn nhau, làm ấm áp các trái tim, truyền cảm hứng cho tâm trí bằng ánh sáng Tin Mừng và mang sức mạnh mới lại cho đôi tay chúng ta.

200. Các gốc rễ không phải là các mỏ neo buộc chúng ta vào thời dĩ dãng và ngăn chúng ta đương đầu với hiện tại và tạo ra một điều mới mẻ. Thay vào đó, chúng là điểm cố định để chúng ta có thể lớn lên và đáp ứng các thách thức mới. Điều không hề tốt là “ngồi đó và hoài mong thời quá khứ; chúng ta phải đáp ứng nền văn hóa của chúng ta bằng chủ nghĩa hiện thực và tình yêu và đổ đầy nó bằng Tin Mừng. Ngày nay, chúng ta được sai đi loan báo Tin mừng của Chúa Giêsu cho thời đại mới. Chúng ta cần yêu thời này với mọi cơ hội và rủi ro, niềm vui và nỗi buồn, sự giàu có và giới hạn, các thành công và thất bại của nó” [110].

201. Trong thời gian Thượng hội đồng, một trong các dự thính viên trẻ tuổi từ Quần đảo Samoa đã nói về Giáo hội như một chiếc ca nô, trong đó người già giúp giữ cho đúng đường bằng cách phán đoán vị trí của các vì sao, trong khi những người trẻ tiếp tục chèo thuyền, tưởng tượng những gì đang chờ đợi họ ở phía trước. Chúng ta hãy tránh xa những người trẻ nghĩ rằng người lớn đại diện cho một quá khứ vô nghĩa, và những người trưởng thành luôn nghĩ rằng họ biết những người trẻ nên hành động ra sao. Thay vào đó, tất cả chúng ta hãy leo lên cùng một chiếc canô và cùng nhau tìm kiếm một thế giới tốt đẹp hơn, với đà tiến không ngừng đổi mới của Chúa Thánh Thần.

CHƯƠNG BẨY: Thừa tác vụ tuổi trẻ

202. Thừa tác vụ tuổi trẻ, như được thi hành trong truyền thống, đã bị ảnh hưởng đáng kể bởi những thay đổi xã hội và văn hóa. Người trẻ thường không tìm thấy nơi các chương trình thông thường của chúng ta một đáp ứng cho mối quan tâm, nhu cầu, các nan đề và vấn đề của họ. Sự lan tràn và tăng trưởng các nhóm và phong trào liên hệ một cách chủ yếu với giới trẻ có thể được coi là công trình của Chúa Thánh Thần, Đấng liên tục chỉ cho chúng ta những nẻo đường mới để đi. Mặc dù vậy, vẫn cần phải xem xét cách các nhóm như vậy tham gia vào việc chăm sóc mục vụ tổng thể của Giáo hội, cũng như phải hiệp thông nhiều hơn giữa họ và phối hợp tốt hơn các hoạt động của họ. Dù tiếp cận người trẻ không bao giờ dễ dàng, hai điều ngày càng trở nên hiển nhiên: việc nhận ra rằng toàn bộ cộng đồng phải tham gia vào việc truyền giảng Tin Mừng cho họ, và đòi hỏi cấp bách họ phải đảm nhận một vai trò lớn hơn trong việc nối vòng tay lớn (outreach) mục vụ.

Một nền chăm sóc mục vụ có tính đồng nghị (synodal)

203. Tôi muốn nói rõ rằng chính người trẻ là tác nhân của thừa tác vụ tuổi trẻ. Chắc chắn họ cần được giúp đỡ và hướng dẫn, nhưng đồng thời, được tự do phát triển các phương thức mới, đầy sáng tạo và táo bạo. Vì vậy, ở đây , tôi sẽ không cố gắng đề ra một loại thủ bản thừa tác vụ giới trẻ hoặc một hướng dẫn mục vụ thực tế. Tôi quan tâm nhiều hơn đến việc giúp người trẻ sử dụng sự hiểu biết thông sáng, tài khéo léo và kiến thức của họ để giải quyết các vấn đề và mối quan tâm của người trẻ khác bằng ngôn ngữ riêng của họ.

204. Giới trẻ khiến chúng ta nhìn thấy nhu cầu phải có phong cách mới và chiến lược mới. Ví dụ, trong khi người lớn thường lo lắng về việc mọi sự phải được lên kế hoạch thích đáng, với các cuộc họp thường xuyên và thời gian cố định, hầu hết người trẻ ngày nay ít quan tâm đến cách tiếp cận mục vụ này. Thừa tác vụ giới trẻ cần trở nên linh hoạt hơn: mời người trẻ tham gia các biến cố hoặc các dịp mang đến cơ hội không chỉ để học hỏi mà còn để trò chuyện, cử hành, ca hát, lắng nghe những câu chuyện có thật và trải nghiệm cuộc gặp gỡ chung với Thiên Chúa hằng sống.

205. Đồng thời, chúng ta nên xem xét nhiều hơn các thực hành đã chứng tỏ là có giá trị – các phương pháp, ngôn ngữ và mục đích đã chứng tỏ là thực sự hữu hiệu trong việc đưa những người trẻ đến với Chúa Kitô và Giáo hội. Không quan trọng họ phát xuất từ đâu hoặc họ đã nhận được nhãn hiệu nào, bất kể là người “bảo thủ”, hay người “tiến bộ”, người “truyền thống” hay người “cấp tiến”. Điều quan trọng là chúng ta tận dụng mọi điều từng đã sinh ra trái tốt và truyền đạt hữu hiệu niềm vui Tin Mừng.

206. Thừa tác vụ giới trẻ phải có tính đồng nghị; nó nên là “một cuộc hành trình với nhau” biết trân qúi “các đặc sủng mà Chúa Thánh Thần ban phát phù hợp với ơn gọi và vai trò của mỗi thành viên trong Giáo hội, qua diễn trình đồng trách nhiệm … Được thúc đẩy bởi tinh thần này, chúng ta có thể tiến tới một Giáo hội có tính tham gia và đồng trách nhiệm, một Giáo hội có khả năng đánh giá cao sự đa dạng phong phú của riêng mình, chấp nhận một cách biết ơn sự đóng góp của tín hữu giáo dân, bao gồm cả người trẻ và phụ nữ, các người thánh hiến, cũng như các nhóm, hiệp hội và phong trào. Không nên loại trừ ai và không ai nên tự loại trừ chính họ” [111].

207. Theo cách đó, nhờ việc học hỏi lẫn nhau, chúng ta có thể phản ánh tốt hơn thực tại đa diện tuyệt vời mà Chúa Kitô đã định cho Giáo Hội của Người. Giáo Hội sẽ có thể thu hút người trẻ, vì sự hiệp nhất của Giáo Hội không phải là độc khối (monolithic), mà đúng hơn, là một mạng lưới gồm các hồng phúc đa dạng mà Chúa Thánh Thần không ngừng tuôn đổ trên Giáo Hội, đổi mới Giáo Hội và giúp Giáo Hội thoát khỏi sự nghèo nàn.

208. Tại Thượng hội đồng, nhiều đề nghị cụ thể đã xuất hiện để đổi mới thừa tác vụ giới trẻ và giải phóng nó khỏi các phương pháp không còn hữu hiệu vì chúng không có khả năng bước vào cuộc đối thoại với nền văn hóa giới trẻ đương thời. Đương nhiên, tôi không thể liệt kê tất cả các đề nghị này ở đây. Một số đề nghị này có thể được tìm thấy trong Tài liệu Sau cùng của Thượng hội đồng.

Các diễn trình hành động chính

209. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng thừa tác vụ giới trẻ bao gồm hai diễn trình hành động chính. Một là với tay ra (outreach), cách chúng ta thu hút người trẻ mới cảm nghiệm được Chúa. Diễn trình kia là lớn lên, cách chúng ta giúp những người đã có kinh nghiệm đó rồi trưởng thành trong đó.

210. Về việc với tay ra, tôi tin tưởng rằng chính người trẻ biết cách tốt nhất trong việc tìm ra những cách hấp dẫn để đến với nhau. Họ biết cách tổ chức các biến cố, các cuộc thi đua thể thao và cách truyền giảng Tin Mừng bằng cách sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội, qua tin nhắn, bài hát, video và các cách khác. Họ chỉ cần được khuyến khích và dành cho tự do để được phấn khởi mà truyền giảng Tin Mừng cho các người trẻ khác bất cứ họ ở đâu. Khi sứ điệp được đem đến lần đầu, dù là trong một khóa tĩnh tâm của giới trẻ, một cuộc trò chuyện trong một quán bar, vào những kỳ nghỉ học, hoặc trong bất cứ cách mầu nhiệm nào của Thiên Chúa, nó có thể đánh thức kinh nghiệm sâu sắc về đức tin. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là mỗi người trẻ có thể đủ táo bạo để gieo hạt giống của sứ điệp trên mảnh đất màu mỡ là trái tim của một người trẻ khác.

211. Trong việc với tay ra này, chúng ta cần sử dụng trước nhất các ngôn ngữ gần gũi, ngôn ngữ yêu thương quảng đại, có tính tương quan và hiện sinh có thể đánh động trái tim, tác động đến cuộc sống và đánh thức hy vọng và ước muốn. Người trẻ cần được tiếp cận bằng ngữ pháp tình yêu, chứ không phải bằng cách giảng giải. Ngôn ngữ mà những người trẻ hiểu được nói bởi những người tỏa sức sống, bởi những người hiện diện ở đó vì họ và với họ. Và những người, với mọi hạn chế và điểm yếu, vẫn cố gắng sống đức tin của họ một cách trọn vẹn. Chúng ta cũng phải dành suy nghĩ nhiều hơn để tìm ra các cách nhập thân sứ điệp sơ truyền (kerygma) vào ngôn ngữ của giới trẻ ngày nay.

212. Đối với việc lớn lên, tôi xin đưa ra một điểm quan trọng. Ở một số nơi, người trẻ được giúp đỡ để có được một cảm nghiệm mạnh mẽ về Thiên Chúa, một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu có thể đánh động trái tim của họ. Nhưng chỉ có điều phải theo dõi là một loạt các cuộc hội họp “huấn luyện” chủ yếu nói đến các vấn đề tín lý và luân lý, các tệ nạn của thế giới ngày nay, Giáo hội, học thuyết xã hội của Giáo hội, đức khiết tịnh, hôn nhân, kiểm soát sinh đẻ, v.v. Kết quả là, nhiều người trẻ buồn nản, mất đi ngọn lửa bùng của cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô và niềm vui được theo Người; nhiều người bỏ cuộc và nhiều người khác trở nên chán nản hoặc tiêu cực. Thay vì quá quan tâm đến việc truyền đạt rất nhiều học thuyết, trước tiên chúng ta hãy cố gắng đánh thức và củng cố các cảm nghiệm tuyệt vời có thể nâng đỡ đời sống Kitô hữu. Theo lời của Romano Guardini, “khi chúng ta cảm nghiệm một tình yêu vĩ đại… mọi sự khác sẽ trở thành một phần của nó” [112].

213. Bất cứ dự án giáo dục nào hoặc nẻo đường lớn mạnh nào đối với giới trẻ chắc chắn phải bao gồm việc huấn luyện về tín lý và luân lý Kitô giáo. Nhưng điều cũng quan trọng tương tự là nó có hai mục tiêu chính. Một là sự phát triển sứ điệp sơ truyền (kerygma), tức cảm nghiệm nền tảng của cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Hai là sự tăng trưởng trong tình yêu huynh đệ, cuộc sống cộng đồng và phục vụ.

214. Đây là điều mà tôi đã nhấn mạnh trong Niềm Vui Tin Mừng (Evangelii Gaudium), và tôi coi nó đáng để nhắc lại ở đây. Sẽ là một sai lầm nghiêm trọng khi nghĩ rằng trong thừa tác vụ giới trẻ, “sứ điệp sơ truyền nên nhường chỗ cho một việc huấn luyện được cho là ‘vững chắc’ hơn. Không có gì vững chắc, sâu sắc, an toàn, có ý nghĩa và đầy khôn ngoan hơn việc công bố lúc ban đầu đó. Mọi việc huấn luyện Kitô giáo hệ ở việc đi vào sứ điệp sơ truyền sâu hơn” [113] và nhập thân nó mỗi ngày một đầy đủ hơn vào cuộc sống của chúng ta. Do đó, thừa tác vụ giới trẻ phải luôn luôn bao gồm các dịp để đổi mới và đào sâu cảm nghiệm bản thân của chúng ta về tình yêu của Thiên Chúa và Chúa Kitô hằng sống. Nó có thể làm điều này nhiều cách khác nhau: chứng từ, bài hát, khoảnh khắc thờ lạy, thời gian suy niệm thiêng liêng về Kinh thánh và thậm chí cả việc sử dụng các mạng xã hội một cách thông minh. Tuy nhiên, không bao giờ nên thay thế cảm nghiệm vui mừng này về cuộc gặp gỡ với Chúa bằng một loại “nhồi sọ lý thuyết” (indoctrination).

215. Mặt khác, bất cứ chương trình nào của thừa tác vụ giới trẻ cũng cần kết hợp rõ ràng các phương tiện và nguồn lực đa dạng có thể giúp người trẻ lớn lên trong tình huynh đệ, sống như anh chị em, giúp đỡ lẫn nhau, xây dựng cộng đồng, phục vụ người khác, gần gũi với người nghèo. Nếu tình yêu huynh đệ là “điều răn mới” (Ga 13:34), là “sự viên mãn của Lề Luật” (Rm 13:10) và là cách tốt nhất để biểu lộ tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa, thì nó phải có một vị trí chính yếu trong mọi dự án huấn luyện giới trẻ và lớn mạnh của họ đến tuổi trưởng thành.

Các môi trường thích hợp

216. Chúng ta cần làm cho tất cả các định chế của chúng ta được trang bị tốt hơn để chào đón nhiều hơn đối với những người trẻ tuổi, vì rất nhiều người trong số họ có cảm giác thực sự là trẻ mồ côi. Ở đây tôi không đề cập đến các vấn đề gia đình mà là một điều gì đó được các thiếu niên nam nữ, người trẻ và người lớn, cả cha mẹ lẫn con cái, cảm nghiệm. Đối với mọi trẻ mồ côi này – bao gồm cả chính chúng ta – các cộng đồng như giáo xứ hoặc trường học nên cung cấp các khả thể để cảm nghiệm sự cởi mở và tình yêu, sự khẳng định và tăng trưởng. Nhiều người trẻ ngày nay cảm thấy họ phải thừa hưởng các giấc mơ thất bại của cha mẹ và ông bà của họ, những giấc mơ bị phản bội bởi sự bất công, bạo lực xã hội, lòng ích kỷ và thiếu quan tâm đến người khác. Tóm một lời, họ cảm thấy bị bứng rễ. Nếu người trẻ lớn lên trong một thế giới tro tàn, họ sẽ khó có thể giữ được ngọn lửa của những giấc mơ và dự án lớn. Nếu họ lớn lên trong một sa mạc không còn ý nghĩa, họ sẽ phát triển ước muốn cống hiến cuộc đời mình để gieo hạt giống ở đâu? Cảm nghiệm đứt đoạn, bứng gốc và sự sụp đổ các xác tín căn bản, được nền văn hóa truyền thông ngày nay thúc đẩy, đang tạo ra một cảm thức mồ côi sâu sắc mà chúng ta phải đáp ứng bằng cách tạo ra một môi trường huynh đệ lôi cuốn nơi người khác có thể sống với một cảm thức về mục đích.

217. Nói tóm lại, tạo ra một “mái nhà” là tạo ra một “gia đình”. Đây là việc học cách cảm thấy mình được kết nối với những người khác hơn là những mối liên hệ thực dụng và thực tiễn, được hợp nhất theo cách chúng ta cảm thấy cuộc sống của mình có tính nhân bản hơn một chút. Tạo ra một mái nhà là để cho lời tiên tri mặc lấy xương thịt và làm cho năm tháng ngày giờ của chúng ta bớt lạnh lẽo, bớt thờ ơ và vô danh. Đó là tạo ra các dây nối kết bằng những hành động đơn giản, hàng ngày mà tất cả chúng ta đều có thể thực hiện. Như chúng ta biết, mái nhà đòi hỏi mọi người phải làm việc với nhau. Không ai có thể thờ ơ hay đứng cách xa nhau, vì mỗi người là một viên đá cần thiết để xây dựng mái nhà. Điều này cũng bao hàm việc cầu xin Chúa ban cho chúng ta ơn biết học cách kiên nhẫn, tha thứ cho nhau, bắt đầu lại mỗi ngày. Tôi nên tha thứ và bắt đầu lại bao nhiêu lần? Bảy mươi lần bảy, bất kể bao nhiêu lần nếu cần thiết. Việc tạo ra các mối dây liên kết mạnh mẽ đòi hỏi sự tự tin và tín thác được nuôi dưỡng hàng ngày bằng sự kiên nhẫn và tha thứ. Và đó là cách phép lạ diễn ra: chúng ta cảm thấy ở đây chúng ta được tái sinh, ở đây tất cả chúng ta được tái sinh, vì chúng ta cảm thấy sự âu yếm của Thiên Chúa giúp chúng ta có khả năng mơ về một thế giới nhân bản hơn, và do đó một thế giới thiên bản hơn [114].

218. Dọc theo những đường hướng này, các định chế của chúng ta nên cung cấp cho người trẻ các nơi họ có thể biến thành của riêng, nơi họ có thể đến và đi tự do, cảm thấy được chào đón và sẵn sàng gặp gỡ những người trẻ khác, bất kể lúc khó khăn và thất vọng, hay hân hoan và cử hành. Một số điều này đã xảy ra ở các nguyện đường và các trung tâm thanh thiếu niên khác, mà trong nhiều trường hợp vốn cung ứng một khung cảnh thân thiện và thoải mái, nơi các tình bạn có thể phát triển, nơi các người trẻ nam nữ có thể gặp nhau, nơi họ có thể chia sẻ âm nhạc, trò chơi, thể thao, và cả suy niệm và cầu nguyện nữa. Ở những nơi như vậy, nhiều điều có thể được cung ứng, mà không phải chi phí lớn. Cũng vậy, việc tiếp xúc không thể thiếu giữa người với người để truyền đạt sứ điệp có thể diễn ra, một điều mà vị trí của nó không thể do bất cứ tài nguyên hoặc chiến lược mục vụ nào có thể thực hiện được.

219. “Tình bạn và việc thảo luận, thường có mặt trong các nhóm ít nhiều được cơ cấu hóa, cung ứng cơ hội để củng cố các kỹ năng xã hội và tương quan trong một bối cảnh nơi người ta không bị phân tích cũng không bị phê phán. Kinh nghiệm nhóm cũng tạo nên một tài nguyên tuyệt vời để chia sẻ đức tin và giúp đỡ lẫn nhau trong việc làm chứng. Người trẻ có khả năng hướng dẫn người trẻ khác và thực thi một việc làm tông đồ chân thực giữa các bạn bè của họ” [115].

220. Điều này không có nghĩa là họ nên trở nên cô lập và mất mọi liên lạc với các cộng đồng giáo xứ, các phong trào và các tổ chức giáo hội khác. Nhưng họ sẽ được hòa nhập tốt hơn vào các cộng đồng cởi mở, sống đức tin, mong muốn rạng rỡ Chúa Kitô, vui vẻ, tự do, huynh đệ và tận tâm. Các cộng đồng này có thể là các khung cảnh nơi họ cảm thấy có thể vun sới các mối quan hệ quý giá.

Thừa tác vụ tuổi trẻ trong các định chế giáo dục

221. Trường học chắc chắn là một diễn đàn thu hút trẻ em và người trẻ. Chính vì chúng là những nơi đặc phúc để phát triển bản thân như vậy, nên cộng đồng Kitô hữu luôn quan tâm đến việc đào tạo các giáo viên và các quản trị viên, và thiết lập các trường học của riêng mình với nhiều loại và trình độ khác nhau. Trong lĩnh vực giáo dục giới trẻ này, Chúa Thánh Thần đã làm xuất hiện vô số đặc sủng và gương sáng thánh thiện. Tuy nhiên, các trường học đang rất cần việc tự phê, nếu chúng ta xem xét các kết quả của việc nối vòng tay lớn mục vụ của họ, một việc, trong nhiều trường hợp, tập trung vào một loại giáo dục tôn giáo chứng tỏ thường không có khả năng nuôi dưỡng các cảm nghiệm đức tin lâu dài. Một số trường Công Giáo dường như chỉ được cấu trúc vì mục đích tự bảo tồn. Việc sợ thay đổi khiến họ cố thủ và phòng ngự trước các nguy hiểm, có thật hay tưởng tượng, mà bất cứ thay đổi nào cũng có thể mang lại. Trường học nào trở thành “một pháo đài” (bunker), bảo vệ các học sinh của mình khỏi những lỗi lầm “từ bên ngoài”, quả là một bức tranh biếm họa của xu hướng này. Thế nhưng, hình ảnh này phản ánh, một cách ớn lạnh, điều nhiều người trẻ kinh qua khi họ tốt nghiệp từ một số định chế giáo dục nào đó: mất sự kết nối không thể vượt qua giữa những gì họ được dạy và thế giới mà họ đang sống. Cách họ được dạy dỗ về các giá trị tôn giáo và luân lý đã không chuẩn bị để họ đề cao các giá trị đó trong một thế giới đưa chúng ra chế giễu, họ cũng không học được cách cầu nguyện và thực hành đức tin có thể dễ dàng được nâng đỡ giữa nhịp độ chóng mặt của xã hội hôm nay. Vì một trong những niềm vui lớn nhất mà bất cứ nhà giáo dục nào cũng có thể có là nhìn thấy một học sinh biến thành một người mạnh mẽ, hòa nhập trọn vẹn, một nhà lãnh đạo và một con người sẵn sàng cho đi.

222. Các trường Công Giáo vẫn là nơi thiết yếu cho việc truyền giảng Tin Mừng cho giới trẻ. Cần phải lưu ý một số nguyên tắc hướng dẫn được quy định trong Veritatis Gaudium (Niềm Vui Sự Thật) cho việc đổi mới và hồi sinh việc nối vòng tay lớn truyền giáo của các trường học và đại học. Chúng bao gồm một trải nghiệm mới mẻ về sứ điệp sơ truyền (kerygma), đối thoại rộng rãi, các cách tiếp cận liên ngành và đa ngành (inter and cross disciplinary), cổ vũ nền văn hóa gặp gỡ, khẩn trương tạo ra các mạng lưới và một phương thức có lợi cho những người nhỏ bé nhất, những người mà xã hội loại bỏ [116]. Quan trọng tương tự là khả năng tích hợp kiến thức của đầu, tim và tay chân.

223. Mặt khác, chúng ta không thể tách biệt việc đào luyện thiêng liêng khỏi việc đào luyện văn hóa. Giáo hội luôn cố gắng khai triển các cách cung cấp cho giới trẻ một nền giáo dục tốt nhất có thể. Lúc này, Giáo hội cũng không nên dừng lại, vì người trẻ có quyền đòi hỏi việc này. “Ngày nay, trên hết, quyền có một nền giáo dục tốt có nghĩa phải bảo vệ đức khôn ngoan, nghĩa là, kiến thức phải mang tính nhân bản và nhân bản hóa. Chúng ta quá thường xuyên bị qui định bởi các mô hình tầm thường và phù du về cuộc sống khiến chúng ta theo đuổi thành công với giá rẻ, hạ giá hy sinh làm mất uy tín và nhồi nhét ý tưởng cho rằng giáo dục là điều không cần thiết trừ khi nó cung cấp kết quả cụ thể ngay lập tức. Không, giáo dục làm chúng ta nêu ra các câu hỏi, giữ cho chúng ta khỏi bị gây mê bởi sự tầm thường và thúc đẩy chúng ta theo đuổi ý nghĩa trong cuộc sống. Chúng ta cần đòi lại quyền không bị lạc lối bởi những mỹ nhân ngư hiện đang làm chúng ta phân tâm trong cuộc theo đuổi này. Ulysses, để không đầu hàng trước bài hát mỹ nhân ngư đã làm say mê các thủy thủ của ông và khiến tầu của họ đâm vào đá, đã cột mình vào cột buồm của tàu và yêu cầu bạn đồng hành bịt tai. Orpheus, mặt khác, đã làm một điều khác để phản công bài hát mỹ nhân ngư: ông đã hát một giai điệu thậm chí còn hay hơn thế, làm mê mệt cả các mỹ nhân ngư. Do đó, đây là thách thức lớn của các bạn: đáp ứng các điệp khúc làm tê liệt của chủ nghĩa tiêu thụ văn hóa bằng các quyết định có suy nghĩ và vững chắc, với nghiên cứu, kiến thức và chia sẻ” [117].

Các phạm vi cần được khai triển

224. Nhiều người trẻ đã tiến đến chỗ biết đánh giá cao sự im lặng và gần gũi với Thiên Chúa. Các nhóm tụ tập để tôn thờ Thánh Thể hoặc cầu nguyện bằng lời Chúa cũng đã gia tăng. Chúng ta đừng bao giờ đánh giá thấp khả năng của người trẻ trong việc họ cởi mở đối với lời cầu nguyện chiêm niệm. Chúng ta chỉ cần tìm ra các cách thức và phương tiện thích hợp để giúp họ bắt tay vào cảm nghiệm quý giá này. Khi nói đến việc thờ phượng và cầu nguyện, “trong nhiều khung cảnh, người Công Giáo trẻ đang yêu cầu có những cơ hội cầu nguyện và cử hành bí tích có khả năng nói với cuộc sống hàng ngày của họ qua một phụng vụ tươi mới, chân thực và hân hoan” [118]. Điều quan trọng là tận dụng tối đa những khoảnh khắc vĩ đại của năm phụng vụ, nhất là Tuần Thánh, Lễ Ngũ Tuần và Giáng Sinh. Nhưng các dịp lễ hội khác có thể cung cấp một gián đoạn đáng hoan nghinh trong thói quen của họ và giúp họ cảm nghiệm niềm vui đức tin.

225. Nghi thức Kitô giáo tượng trưng cho một cơ hội độc đáo để lớn lên và cởi mở đối với các hồng ân đức tin và đức ái của Thiên Chúa. Nhiều người trẻ bị thu hút bởi khả thể giúp đỡ người khác, nhất là trẻ em và người nghèo. Nghi thức này thường là bước đầu tiên để khám phá hoặc tái khám phá cuộc sống trong Chúa Kitô và Giáo hội. Nhiều người trẻ trở nên mệt mỏi đối với các chương trình đào tạo tín lý và thiêng liêng của chúng ta, và đôi khi đòi có cơ hội tham gia tích cực vào các hoạt động có lợi cho người khác.

226. Chúng ta cũng không thể bỏ qua tầm quan trọng của nghệ thuật, như thoại kịch, hội họa và những thứ khác. “Âm nhạc đặc biệt quan trọng, nói lên một môi trường đích thực, trong đó giới trẻ không ngừng đắm mình vào, cũng như một nền văn hóa và ngôn ngữ có khả năng khơi dậy cảm xúc và định hình bản sắc. Ngôn ngữ âm nhạc cũng đại diện cho một nguồn tài nguyên mục vụ có liên quan đặc biệt đến phụng vụ và việc đổi mới nó” [119]. Ca hát có thể là một động lực tuyệt vời cho người trẻ khi họ lữ hành qua cuộc sống. Như Thánh Augustinô đã nói: “Hãy ca hát, nhưng hãy tiếp tục cuộc hành trình của các bạn. Đừng trở nên lười biếng, nhưng hãy ca hát để làm con đường trở nên thú vị hơn. Hãy ca hát, nhưng hãy tiếp tục bước đi… Nếu tiến bộ, bạn sẽ tiếp tục cuộc hành trình của mình, nhưng hãy chắc mẩm rằng sự tiến bộ của bạn là tiến bộ trong nhân đức, trong đức tin thực sự và trong việc sống đúng đắn. Do đó, hãy ca hát, nhưng hãy tiếp tục bước đi” [120].

227. Cũng có ý nghĩa không kém là việc người trẻ nhấn mạnh đến thể thao; Giáo hội không nên đánh giá thấp tiềm năng của thể thao đối với giáo dục và đào tạo, nhưng thay vào đó, duy trì một sự hiện diện mạnh mẽ ở đó. Thế giới thể thao cần được giúp đỡ để khắc phục một số khía cạnh có vấn đề của nó, chẳng hạn như thần tượng hóa các nhà vô địch, tùng phục lợi ích thương mại và ý thức hệ thành công với bất cứ gía nào” [121]. Trọng tâm của trải nghiệm thể thao là “niềm vui: niềm vui của việc luyện tập, được ở bên nhau, được sống động và hân hoan trong những hồng phúc mà Tạo hóa đã ban tặng cho chúng ta mỗi ngày” [122]. Một số Giáo phụ đã sử dụng điển hình đào tạo các lực sĩ để khuyến khích người trẻ phát triển sức mạnh của họ và vượt qua sự biếng nhác và buồn chán. Thánh Basilêô Cả, khi viết cho những người trẻ tuổi, đã sử dụng cố gắng đòi hỏi nơi các lực sĩ để minh họa giá trị của sự hy sinh bản thân như một phương tiện tăng trưởng trong nhân đức: “những người này chịu đau khổ không kể xiết, họ sử dụng nhiều phương tiện để bồi đắp sức mạnh của họ. Họ đổ mồ hôi liên tục lúc họ luyện tập … tóm một lời, họ tự kỷ luật bản thân họ đến mức cả cuộc sống trước khi thi đấu là một sự chuẩn bị cho nó … Như thế, làm thế nào chúng ta, những người đã được hứa những phần thưởng kỳ diệu về số lượng và sự huy hoàng đến nỗi không miệng lưỡi nào có thể đếm được, có thể ngay cả nghĩ đến việc thắng được chúng nếu chúng ta không làm gì khác hơn là chỉ biết dành cuộc sống của mình để giải trí và thực hiện những nỗ lực nửa vời?” [123].

228. Thiên nhiên có một sức hấp dẫn đặc biệt đối với nhiều thiếu niên và người trẻ biết nhận ra nhu cầu phải chăm sóc môi trường. Đó là trường hợp các phong trào hướng đạo và các nhóm khác nhằm khuyến khích sự gần gũi với thiên nhiên, các chuyến đi cắm trại, đi bộ đường dài, thám hiểm và các chiến dịch cải thiện môi trường. Theo tinh thần của Thánh Phanxicô Assisi, những kinh nghiệm này có thể là một khai tâm thực sự để bước vào trường huấn luyện tình huynh đệ phổ quát và cầu nguyện chiêm niệm.

229. Những kinh nghiệm trên và nhiều cơ hội đa dạng khác để truyền giảng Tin Mừng cho giới trẻ không nên khiến chúng ta quên rằng, bất chấp thời kỳ đang thay đổi và các nhạy cảm của người trẻ, vẫn có những hồng phúc của Thiên Chúa không bao giờ già cỗi, vì chúng chứa một sức mạnh vượt mọi thời gian và không gian. Có lời Chúa, luôn sống động và hữu hiệu, sự hiện diện nuôi dưỡng của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể, và bí tích Hòa giải, mang lại cho chúng ta tự do và sức mạnh. Chúng ta cũng có thể nhắc đến sự giàu có thiêng liêng vô tận được Giáo hội bảo tồn trong chứng tá của các vị thánh của mình và sự dạy dỗ của các bậc thầy thiêng liêng vĩ đại. Mặc dù chúng ta phải kính trọng các giai đoạn tăng trưởng khác nhau và đôi khi cần kiên nhẫn chờ đợi thời điểm thích hợp, chúng ta vẫn không thể không mời người trẻ uống từ những giếng khơi sự sống mới này. Chúng ta không có quyền tước đoạt điều tốt đẹp vĩ đại này của họ.

Một thừa tác vụ tuổi trẻ “bình dân”

230. Ngoài thừa tác mục vụ thông thường, được lên kế hoạch đàng hoàng mà các giáo xứ và phong trào vốn thực hiện, điều cũng quan trọng là phải dành chỗ cho một thừa tác vụ giới trẻ “bình dân”, với một phong cách, lịch trình, nhịp độ và phương pháp khác. Bao quát hơn và linh hoạt hơn, nó đi tới những nơi ở đấy, người trẻ thực sự tích cực, và cổ vũ các phẩm tính lãnh đạo tự nhiên và các đặc sủng được Chúa Thánh Thần gieo vãi. Nó cố gắng tránh việc áp đặt các trở ngại, các quy tắc, các kiểm soát và các cơ cấu bắt buộc lên những tín hữu trẻ tuổi này, vốn là những người lãnh đạo tự nhiên trong các khu phố của họ và trong các khung cảnh khác. Chúng ta chỉ cần đồng hành và khích lệ họ, tin tưởng hơn một chút vào thiên tài của Chúa Thánh Thần, Đấng hành động tùy ý Người.

231. Chúng ta đang nói tới các nhà lãnh đạo thực sự “bình dân”, chứ không phải những người ưu tú hay những người tự đóng kín vào các nhóm nhỏ gồm các cá nhân được chọn lọc. Để có thể phát sinh ra một thừa tác vụ “bình dân” cho tuổi trẻ, “họ cần học cách lắng nghe cảm thức của người ta, để trở thành người phát ngôn của họ và làm việc cho việc cổ vũ họ” [124]. Khi nói về “người ta”, chúng ta không nói về các cơ cấu của xã hội hay Giáo hội, nhưng nói về tất cả những ai trên đường lữ hành, không phải như các cá nhân, mà như một cộng đồng gắn bó chặt chẽ với mọi người, một cộng đồng bác bỏ việc bỏ rơi người nghèo và những người dễ bị tổn thương. “Những người muốn mọi người chia sẻ lợi ích chung và do đó đồng ý đồng nhịp với các thành viên nhỏ bé nhất của nó, để mọi người có thể đạt đến ích chung cùng với nhau” [125]. Do đó, các nhà lãnh đạo “bình dân” là những người có khả năng làm mọi người, kể cả người nghèo, người yếu thế, người yếu đuối và người bị thương tổn, trở nên một thành phần của cuộc diễn hành tiến về phía trước của tuổi trẻ. Họ không trốn tránh hoặc sợ những người trẻ từng kinh qua tổn thương hoặc chịu đựng sức nặng của thập giá.

232. Tương tự như thế, nhất là trong trường hợp người trẻ không phát xuất từ các gia đình hoặc các định chế Kitô giáo, và đang trưởng thành một cách chậm chạp, chúng ta phải khuyến khích mọi điều tốt theo khả năng của chúng ta [126]. Chúa Kitô đã cảnh cáo chúng ta đừng chỉ thấy các hạt lúa tốt mà thôi (x. Mt 13: 24-30). Đôi khi, trong nỗ lực phát triển một thừa tác vụ giới trẻ thuần túy và hoàn hảo, được đánh dấu bằng những ý tưởng trừu tượng, được che chở khỏi thế giới và không có sai sót nào, chúng ta có thể biến Tin Mừng thành một đề nghị buồn tẻ, vô nghĩa và không lôi cuốn. Một thừa tác vụ giới trẻ như vậy kết cục đã bị hoàn toàn loại khỏi thế giới của người trẻ và chỉ phù hợp với một tuổi trẻ Kitô giáo ưu tú, tự coi mình là khác biệt, trong khi sống trong một sự cô lập trống rỗng và không sinh hoa trái. Khi loại trừ cỏ dại, chúng ta cũng nhổ rễ hoặc bóp nghẹt bất cứ số chồi nào đang cố gắng mọc lên bất chấp các hạn chế của chúng.

233. Thay vì “áp đảo người trẻ bằng một bộ quy tắc khiến Kitô giáo có hình dáng thu gọn và dạy đời (moralistic), chúng ta được kêu gọi đầu tư vào tính không biết sợ của họ và đào tạo họ nhận trách nhiệm của họ, trong khi biết chắc rằng lỗi lầm, thất bại và khủng hoảng là những kinh nghiệm có thể củng cố nhân tính của họ” [127].

234. Thượng hội đồng kêu gọi việc khai triển một Thừa tác vụ tuổi trẻ có khả năng bao gồm, dành chỗ cho mọi loại người trẻ, để chứng tỏ rằng chúng ta là một Giáo hội mở rộng cửa. Người ta cũng không phải chấp nhận đầy đủ mọi tín lý của Giáo hội mới có thể tham gia vào một số hoạt động của chúng ta dành cho người trẻ tuổi. Chỉ cần có một tâm trí cởi mở đối với tất cả những ai có mong muốn và sẵn lòng được sự thật mặc khải của Thiên Chúa gặp gỡ. Một số hoạt động mục vụ của chúng ta có thể giả thiết rằng một hành trình đức tin đã bắt đầu, nhưng chúng ta cần một thừa tác vụ giới trẻ “bình dân” có thể mở các cánh cửa và dành chỗ cho mọi người, với các nghi ngờ và thất vọng của họ, các vấn đề và nỗ lực tìm ra chính họ, các lầm lẫn trong quá khứ, các kinh nghiệm tội lỗi và mọi khó khăn của họ.

235. Cũng nên dành chỗ cho “Tất cả những người có viễn kiến khác về cuộc sống, những người thuộc các tôn giáo khác hoặc những người hoàn toàn xa cách với tôn giáo. Tất cả những người trẻ tuổi, không trừ ai, đều ở trong trái tim Thiên Chúa, và do đó, trong trái tim của Giáo hội. Chúng ta thẳng thắn thừa nhận rằng câu tuyên bố trên môi miệng chúng ta này không phải lúc nào cũng tìm thấy biểu thức chân thực trong các hành động mục vụ của chúng ta: chúng ta thường khép kín trong các môi trường của chúng ta, nơi giọng nói của họ không nghe thủng, hoặc nếu không, chúng ta cũng chỉ lưu tâm tới các hoạt động ít đòi hỏi và nhiều thích thú hơn, loại bỏ sự bồn chồn mục vụ lành mạnh vốn thôi thúc chúng ta ra khỏi điều được coi là nơi an toàn của chúng ta. Tin Mừng cũng yêu cầu chúng ta phải táo bạo, và chúng ta muốn được như vậy, không cao ngạo và không tìm cách cải đạo, làm chứng cho tình yêu của Chúa và dang rộng đôi tay với mọi người trẻ trên thế giới” [128].

236. Thừa tác vụ tuổi trẻ, khi không còn duy ưu tú và sẵn lòng trở thành “bình dân” là một diễn trình tiệm tiến, tôn trọng, kiên nhẫn, hy vọng, không mệt mỏi và đầy cảm thương. Thượng hội đồng đề nghị lấy điển hình của các môn đệ Emmau (x. Lc 24: 13-35) làm một mô hình cho những gì diễn ra trong thừa tác vụ giới trẻ.

237. “Chúa Giêsu bước đi với hai môn đệ chưa nắm được ý nghĩa của mọi điều đã xảy ra với Người và họ đang rời khỏi Giêrusalem và cộng đồng của họ. Muốn đồng hành với họ, Người đã cùng sánh bước với họ. Người hỏi han họ và kiên nhẫn lắng nghe lối tường thuật các biến cố của họ, và bằng cách này, giúp họ nhận ra điều họ đã cảm nghiệm. Rồi, một cách trìu mến và tràn đầy năng lực, Người công bố Lời Chúa cho họ, bằng cách dẫn dắt họ giải thích các biến cố họ đã trải nghiệm dưới ánh sáng Sách Thánh. Người chấp nhận lời mời ở lại với họ khi màn đêm buông xuống: Người bước vào đêm tối của họ. Khi lắng nghe Người, trái tim họ ấm lên và tâm trí họ mở ra; rồi họ nhận ra Người lúc bẻ bánh. Chính họ chọn việc tiếp nối cuộc hành trình ngay lập tức theo hướng ngược lại, trở về với cộng đồng và chia sẻ với họ cảm nghiệm về cuộc gặp gỡ với Đấng Phục sinh của mình” [129].

238. Những biểu hiện khác nhau của lòng đạo bình dân, đặc biệt là những cuộc hành hương, đang thu hút những người trẻ chưa sẵn sàng cảm thấy như ở nhà đối với các cơ cấu giáo hội và đại diện cho một dấu hiệu cụ thể của niềm tín thác vào Thiên Chúa. Những cách tìm kiếm Thiên Chúa này được nhìn thấy đặc biệt nơi những người trẻ nghèo, nhưng cũng ở nơi những người trẻ trong các lĩnh vực khác của xã hội. Không nên xem thường họ, nhưng nên khuyến khích và cổ vũ họ. Lòng đạo bình dân “là một cách sống đức tin hợp pháp” [130] và là một biểu thức của hoạt động truyền giáo tự phát của dân Chúa” [131].

Luôn luôn là những nhà truyền giáo

239. Ở đây tôi muốn nhấn mạnh rằng không mất nhiều công sức lắm để biến người trẻ trở thành nhà truyền giáo. Ngay cả những người yếu ớt, hạn chế và gặp rắc rối nhất cũng có thể là những nhà truyền giáo theo cách riêng của họ, vì sự tốt lành luôn có thể được chia sẻ, ngay cả lúc nó hiện hữu bên cạnh nhiều hạn chế. Một người trẻ đi hành hương để cầu xin Đức Mẹ giúp đỡ và mời một người bạn hoặc một người đồng hành cùng đi, do cử chỉ duy nhất này mà thôi, cũng đã là một nhà truyền giáo tốt rồi. Không thể tách biệt khỏi thừa tác vụ giới trẻ “bình dân” là hoạt động truyền giáo không thể kìm hãm được, đó là sự phá vỡ các mô hình và cách suy nghĩ theo thói quen của chúng ta. Chúng ta hãy đồng hành và khuyến khích hoạt động này, nhưng đừng có cao ngạo muốn qui định nó một cách quá đáng.

240. Nếu chúng ta có thể nghe được điều Chúa Thánh Thần đang nói với chúng ta, chúng ta phải nhận ra rằng thừa tác vụ giới trẻ luôn có tính truyền giáo. Người trẻ được làm giàu rất nhiều khi họ vượt qua sự dè dặt và dám đến thăm viếng các mái nhà, và bằng cách này, tiếp xúc với cuộc sống người ta. Họ học cách nhìn xa hơn gia đình và nhóm bạn của họ, và họ có được một viễn kiến rộng hơn về cuộc sống. Đồng thời, đức tin và cảm thức được là một phần của Giáo hội ngày càng lớn mạnh hơn. Các sứ mệnh của tuổi trẻ, những sứ mệnh thường diễn ra trong các kỳ nghỉ học sau một thời gian chuẩn bị, có thể dẫn đến một cảm nghiệm đức tin đổi mới và thậm chí các suy nghĩ nghiêm túc về ơn gọi.

241. Người trẻ có thể tìm thấy các lĩnh vực mới đảm nhiệm sứ mệnh trong các khung cảnh đa dạng nhất. Ví dụ, vì vốn quen thuộc với các mạng xã hội, nên họ được khuyến khích làm chúng tràn đầy Chúa, tình huynh đệ và sự dấn thân.

Việc đồng hành của người trưởng thành

242. Người trẻ cần tự do của họ được tôn trọng, nhưng họ cũng cần được đồng hành. Gia đình nên là nơi đầu tiên của việc đồng hành. Thừa tác vụ giới trẻ có thể trình bày lý tưởng sống trong Chúa Kitô như diễn trình xây dựng một ngôi nhà trên đá (x. Mt 7: 24-25). Đối với hầu hết những người trẻ tuổi, ngôi nhà đó, tức cuộc sống của họ, sẽ được xây dựng dựa trên hôn nhân và tình yêu vợ chồng. Đó là lý do tại sao thừa tác vụ giới trẻ và việc chăm sóc mục vụ các gia đình nên được phối hợp và tích hợp, với mục đích đảm bảo việc đồng hành liên tục và thích đáng trong diễn trình ơn gọi.

243. Cộng đồng có một vai trò quan trọng trong việc đồng hành với người trẻ; cộng đồng nên cảm thấy có trách nhiệm tập thể trong việc chấp nhận, cổ động, khuyến khích và thách thức họ. Mọi người nên nhìn người trẻ một cách hiểu biết, đánh giá cao và âu yếm, và không ngừng tránh phán xét họ hoặc đòi hỏi nơi họ một sự hoàn hảo vượt quá tuổi đời của họ.

244. Tại Thượng hội đồng, “nhiều vị nêu lên việc thiếu các chuyên gia chuyên việc đồng hành. Việc tin vào giá trị thần học và mục vụ của lắng nghe ngụ ý phải nghĩ lại và đổi mới các cách thức qua đó, thừa tác vụ linh mục thường được thi hành, cũng như phải duyệt lại các ưu tiên của nó. Thượng hội đồng cũng nhận ra sự cần thiết phải huấn luyện các người thánh hiến và các giáo dân, cả đàn ông lẫn đàn bà, để họ đồng hành với người trẻ. Đặc sủng lắng nghe, mà Chúa Thánh Thần kêu gọi trong các cộng đồng, cũng có thể nhận được một hình thức công nhận có tính định chế như một hình thức phục vụ giáo hội” [132].

245. Cũng cần phải đặc biệt đồng hành với người trẻ nam nữ chứng tỏ có tiềm năng lãnh đạo, để họ có thể được đào tạo và có đủ các tư cách cần thiết. Người trẻ gặp nhau trước Thượng hội đồng đã lên tiếng kêu gọi phải có các chương trình đào tạo và tiếp tục phát triển cho các nhà lãnh đạo trẻ. Một số phụ nữ trẻ cảm thấy thiếu các hình mẫu phụ nữ đóng vai trò lãnh đạo trong Giáo hội và họ cũng muốn hiến tặng các tài năng trí tuệ và chuyên nghiệp cho Giáo hội. Chúng ta cũng tin rằng các chủng sinh và tu sĩ nên có khả năng ngày một lớn hơn để đồng hành với các nhà lãnh đạo trẻ tuổi” [133].

246. Cũng những người trẻ trên đã mô tả cho chúng ta các đức tính mà họ hy vọng tìm thấy nơi một nhà dìu dắt (mentor), và họ phát biểu điều này một cách khá rõ ràng. “Những đức tính của một nhà dìu dắt như vậy bao gồm: là một Kitô hữu trung thành dấn thân với Giáo hội và thế giới; một người không ngừng tìm kiếm sự thánh thiện; một người bạn tâm tình mà không phán xét. Tương tự như vậy, một người tích cực lắng nghe nhu cầu của người trẻ và đáp ứng chúng một cách tích cực; một người yêu thương sâu sắc và tự giác; một người thừa nhận các giới hạn của mình và biết các niềm vui và nỗi buồn của cuộc hành trình thiêng liêng. Một đức tính đặc biệt quan trọng nơi những nhà dìu dắt là việc thừa nhận nhân tính của chính họ – tức sự kiện họ là những con người mắc lầm lỗi: không phải là người hoàn hảo nhưng là tội nhân được tha thứ. Đôi khi những nhà dìu dắt được đặt lên bệ cao, và khi họ ngã, thì điều này quả gây tác động tàn hại đối với khả năng người trẻ trong việc tiếp tục dấn thân với Giáo hội. Các nhà dìu dắt không nên dẫn dắt người trẻ như những người theo mình một cách thụ động, mà đi bên cạnh họ, cho phép họ trở thành những người tham gia tích cực vào cuộc hành trình. Họ nên tôn trọng sự tự do vốn xuất hiện trong diễn trình biện phân của người trẻ và trang bị cho họ các công cụ để làm tốt điều đó. Một nhà dìu dắt nên hết lòng tin tưởng vào khả năng người trẻ có thể tham gia vào đời sống Giáo hội. Do đó, một nhà dìu dắt nên nuôi dưỡng hạt giống đức tin nơi những người trẻ, mà không mong đợi được thấy ngay những thành quả của công trình Chúa Thánh Thần. Vai trò này không phải và không thể giới hạn vào các linh mục và đời sống thánh hiến, nhưng tín hữu giáo dân cũng nên được trao quyền để đảm nhận một vai trò như vậy. Tất cả những nhà dìu dắt như vậy sẽ được hưởng ơn ích từ việc được đào tạo tốt, và tham gia vào việc đào tạo liên tục” [134].

247. Các định chế giáo dục của Giáo Hội chắc chắn là một khung cảnh cộng đoàn cho việc đồng hành; họ có thể cung cấp sự hướng dẫn cho nhiều người trẻ, đặc biệt khi họ “tìm cách chào đón tất cả những người trẻ tuổi, bất kể các lựa chọn tôn giáo, nguồn gốc văn hóa và các tình huống cá nhân, gia đình hoặc xã hội. Bằng cách này, Giáo hội thực hiện một đóng góp căn bản vào việc giáo dục toàn diện giới trẻ ở nhiều nơi trên thế giới. [135] Họ sẽ hạn chế vai trò này một cách không thích đáng khi họ đưa ra các tiêu chuẩn cứng ngắc để sinh viên gia nhập và ở lại với họ, vì họ sẽ tước của nhiều người trẻ một việc đồng hành có thể giúp làm phong phú cuộc sống của họ.

CHƯƠNG TÁM: Ơn gọi

248. Từ ngữ “ơn gọi” có thể được hiểu theo nghĩa rộng như một lời kêu gọi phát xuất từ Thiên Chúa, gồm cả lời kêu gọi bước vào sự sống, lời kêu gọi kết tình bạn với Người, lời kêu gọi nên thánh, v.v. Điều này rất hữu ích, vì nó đặt toàn bộ cuộc sống của chúng ta vào mối tương quan với Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta. Nó khiến chúng ta nhận ra rằng không có điều gì là kết quả của tình cờ thuần túy nhưng mọi sự trong cuộc sống của chúng ta có thể trở thành cách đáp trả Chúa, Đấng có kế hoạch tuyệt vời dành cho chúng ta.

249. Trong Tông huấn Gaudete et Exsultate (Hãy Hân Hoan Nhẩy Mừng), tôi đã nói về ơn gọi của mọi người phải lớn lên và trưởng thành để vinh danh Thiên Chúa; tôi muốn “tái đề xuất lời kêu gọi nên thánh một cách thiết thực cho thời đại của chúng ta, với mọi rủi ro, thách thức và dịp may của nó” [136]. Công đồng Vatican II giúp chúng ta nhận ra một lần nữa lời kêu gọi ngỏ với mỗi người chúng ta này: “Mọi tín hữu, bất kể điều kiện hay bậc sống của họ, đều được Chúa kêu gọi, mỗi người theo cách riêng của mình, tiến đến sự thánh thiện hoàn hảo như Chúa Cha là Đấng hoàn hảo” [137].

Thiên Chúa kêu gọi bước vào tình bạn

250. Điều đầu tiên chúng ta cần biện phân và khám phá là: Chúa Giêsu muốn làm bạn với mọi người trẻ. Việc biện phân này là cơ sở của mọi biện phân khác. Trong cuộc đối thoại của Chúa phục sinh với Simon Phêrô, câu hỏi lớn của Người là: “Simon, con trai của Gioan, con có yêu Thầy không?”(Ga 21: 16). Nói cách khác, con có yêu Thầy như một người bạn không? Nhiệm vụ mà Phêrô nhận được để chăn dắt đoàn chiên của Chúa Giêsu, sẽ luôn được liên kết với tình yêu nhưng không này, tình yêu của tình bạn này.

251. Mặt khác, có cuộc gặp gỡ không thành công của Chúa Giêsu và chàng thanh niên giàu có, một cuộc gặp gỡ cho thấy rõ ràng rằng chàng trai trẻ không tri nhận được ánh mắt yêu thương của Chúa (xem Mc 10, 21). Anh ta ra đi một cách buồn rầu, bất chấp ý định tốt lúc ban đầu của anh ta, vì anh ta không thể quay lưng lại với nhiều tài sản của mình (x. Mt 19,22). Anh đã bỏ lỡ cơ hội của điều chắc chắn sẽ trở thành một tình bạn tuyệt vời. Chúng ta sẽ không bao giờ biết được người đàn ông trẻ tuổi được Chúa Giêsu âu yếm nhìn và giơ đôi tay ra chào đón này trở nên gì cho chúng ta, anh có thể làm được gì cho nhân loại.

252. “Cuộc sống mà Chúa Giêsu ban tặng chúng ta là một câu chuyện tình, một câu chuyện sống muốn hòa quyện với chuyện sống của chúng ta và đâm rễ sâu vào mảnh đất cuộc sống chúng ta. Cuộc sống đó không phải là một sự cứu rỗi ‘trên mây’ (in cloud) và chờ đợi được tải xuống, một ‘ứng dụng’ (app) mới để được phát hiện, hoặc một kỹ thuật tự cải thiện tâm trí. Cuộc sống càng không phải là ‘trợ giáo’ (tutorial) để tìm ra những tin tức mới nhất. Sự cứu rỗi mà Thiên Chúa ban cho chúng ta là một lời mời trở thành một phần của câu chuyện tình đan xen với những câu chuyện bản thân của chúng ta; nó sinh động và muốn được sinh ra nơi chúng ta để chúng ta có thể sinh hoa trái trong chính con người hiện thực của chúng ta, bất chấp chúng ta ở đâu và với mọi người xung quanh. Chúa đến đó để gieo hạt và được gieo hạt” [138].

Hiện diện ở đó cho người khác

253. Bây giờ tôi muốn nói về ơn gọi theo nghĩa chặt chẽ, như một lời kêu gọi phục vụ truyền giáo cho người khác. Chúa kêu gọi chúng ta chia sẻ việc làm sáng tạo của Người và đóng góp cho lợi ích chung bằng cách sử dụng các hồng phúc mà chúng ta đã nhận được.

254. Vì vậy, ơn gọi truyền giáo này phải liên quan với việc phục vụ. Vì cuộc sống của chúng ta trên trái đất chỉ đạt đến tầm vóc viên mãn khi nó trở thành hiến dâng. Ở đây tôi xin nhắc lại rằng “sứ mệnh hiện diện trong trái tim người ta không chỉ là một phần đời tôi hay một huy hiệu mà tôi có thể cất bỏ; nó không phải là một điều ‘bổ xung’ (extra) hay chỉ là một khoảnh khắc khác trong cuộc sống. Thay vào đó, nó là điều tôi không thể bứng khỏi hữu thể tôi mà không hủy hoại chính bản thân tôi. Tôi là một sứ mệnh trên trái đất này; đó là lý do tại sao tôi ở đây trong thế giới này” [139]. Thành thử, mọi hình thức hoạt động mục vụ, đào tạo và linh đạo nên được nhìn dưới ánh sáng ơn gọi Kitô giáo của chúng ta.

255. Ơn gọi bản thân của riêng các bạn không chỉ hệ ở việc làm của các bạn, mặc dù đó là một biểu thức của nó. Ơn gọi của các bạn là một điều gì hơn đó nhiều: đó là một nẻo đường hướng dẫn nhiều nỗ lực và hành động của các bạn đối với việc phục vụ người khác. Vì vậy, khi biện phân ơn gọi của các bạn, điều quan trọng là xác định xem các bạn có nhìn thấy nơi bản thân mình các khả năng cần thiết để thực hiện việc phục vụ cụ thể đó cho xã hội hay không.

256. Điều này mang lại giá trị lớn hơn cho mọi điều các bạn làm. Việc làm của các bạn không còn chỉ là để kiếm tiền, giữ cho mình bận rộn hoặc làm hài lòng người khác. Nó trở thành ơn gọi của các bạn vì các bạn được kêu gọi bước tới nó; nó là một điều không hẳn chỉ là một quyết định thực dụng. Cuối cùng, đó là một sự công nhận lý do tại sao tôi được dựng nên, tại sao tôi lại ở đây trên trái đất và đâu là kế hoạch của Chúa dành cho đời tôi. Người sẽ không chỉ cho tôi mọi nơi, mọi thời và mọi chi tiết, vì tôi sẽ phải đưa ra quyết định khôn ngoan của riêng mình về những điều này. Nhưng Người sẽ chỉ cho tôi một hướng đi trong cuộc sống, vì Người là Đấng dựng nên tôi và tôi cần lắng nghe tiếng nói của Người, để, giống như nắm đất sét trong tay người thợ gốm, tôi có thể để mình được Người lên khuôn và hướng dẫn. Sau đó, tôi sẽ trở thành điều tôi được định trở thành, trung thành với thực tại của riêng tôi.

257. Để đáp lại ơn gọi của chúng ta, chúng ta cần phải cổ vũ và phát triển tất cả những gì chúng ta đang là. Điều này không liên quan gì đến việc tự phát minh ra bản thân hoặc tự tạo ra chúng ta từ hư không. Nó liên quan đến việc tìm kiếm bản ngã thực sự của chúng ta dưới ánh sáng của Thiên Chúa và để cho cuộc sống của chúng ta nở hoa và sinh trái. “Trong kế hoạch Thiên Chúa, mọi người nam nữ đều có xu hướng tìm kiếm việc tự thành toàn (self-fulfillment), vì mọi cuộc sống nhân bản đều được Thiên Chúa kêu gọi đảm nhận một nhiệm vụ nào đó” [140]. Ơn gọi của các bạn gợi hứng cho các bạn để các bạn rút ra được những điều tốt nhất từ chính bản thân các bạn cho vinh quang của Thiên Chúa và lợi ích của người khác. Nó không chỉ đơn giản là vấn đề làm điều này điều nọ, mà là thực hiện chúng với ý nghĩa và phương hướng. Thánh Alberto Hurtado nói với người trẻ phải suy nghĩ rất nghiêm túc về phương hướng mà cuộc sống của họ nên đi: “Nếu người lái tàu trở nên bất cẩn, anh ta bị đuổi việc vì không coi trọng trách nhiệm thánh thiêng của mình. Đối với cuộc sống của chúng ta, chúng ta có ý thức đầy đủ về đường đi của chúng hay không? Đâu là đường đi của đời các bạn? Nếu cần phải suy nghĩ nhiều hơn về điều này, tôi muốn yêu cầu mỗi người các bạn cân nhắc kỹ lưỡng nhất, vì suy nghĩ cho đúng đã tương đương với thành công rồi; sai lầm đơn giản sẽ thất bại” [141].

258. Trong cuộc sống của mỗi người trẻ, “việc hiện diện ở đó cho người khác” thường liên quan tới hai vấn đề căn bản: thành lập một gia đình mới và làm việc. Các cuộc thăm dò người trẻ liên tục xác nhận rằng đây là hai vấn đề lớn khiến họ lo lắng và đồng thời, khiến họ phấn khích. Cả hai phải là đối tượng của việc biện phân đặc thù. Chúng ta hãy ngắn gọn xem xét từng vấn đề.

Tình yêu và gia đình

259. Người trẻ mạnh mẽ cảm thấy tiếng gọi của tình yêu; Họ mơ ước được gặp đúng người để họ có thể lập nên một gia đình và cùng nhau xây dựng một cuộc sống. Đây chắc chắn là một ơn gọi mà chính Thiên Chúa làm họ biết đến qua các cảm xúc, ước muốn và giấc mơ của họ. Tôi nói đầy đủ hơn về chủ đề này trong Tông huấn Amoris Laetitia (Niềm Vui Yêu Thương). Tôi sẽ khuyến khích mọi người trẻ đọc nhất là chương thứ tư và thứ năm của tông huấn đó.

260. Tôi thích nghĩ rằng “hai Kitô hữu kết hôn đã nhận ra tiếng gọi của Chúa trong câu chuyện tình của chính họ, ơn gọi thành lập một thân xác và một cuộc sống từ hai con người, nam và nữ. Bí tích Hôn phối bảo bọc tình yêu này trong ơn thánh của Thiên Chúa; nó đâm rễ tình yêu này vào chính Thiên Chúa. Nhờ hồng phúc này, và nhờ sự chắc chắn của ơn gọi này, các bạn có thể tiến tới một cách an lòng; các bạn không có gì phải sợ; cùng với nhau, các bạn có thể đương đầu với mọi sự!” [142]

261. Ở đây, chúng ta cần nhớ rằng Thiên Chúa dựng nên chúng ta như những hữu thể tính dục. Chính Người đã dựng nên tính dục, vốn là một hồng phúc tuyệt vời cho các tạo vật của Người [143]. Trong ơn gọi kết hôn, chúng ta nên thừa nhận và đánh giá cao rằng “tính dục, làm tình, là một hồng phúc của Thiên Chúa. Nó không phải là một điều cấm kỵ. Nó là một hồng phúc của Chúa, một hồng phúc mà Chúa ban cho chúng ta. Nó có hai mục đích: yêu thương và phát sinh sự sống. Nó là đam mê, tình yêu đam mê. Tình yêu đích thực là đam mê. Tình yêu giữa một người đàn ông và một người đàn bà, khi đam mê, luôn dẫn đến việc trao ban sự sống. Luôn luôn. Trao ban sự sống bằng thể xác và linh hồn” [144].

262. Thượng hội đồng nhấn mạnh rằng “Gia đình tiếp tục là điểm tham chiếu chính cho người trẻ. Con cái đánh giá cao tình yêu và sự quan tâm của cha mẹ, chúng coi trọng các dây liên kết gia đình và chúng hy vọng sẽ thành công trong việc thành lập gia đình riêng. Điều không thể phủ nhận là: sự gia tăng các vụ ly thân, ly dị, kết hợp lần thứ hai và các gia đình cha mẹ đơn chiếc có thể gây ra các đau khổ lớn lao và một cuộc khủng hoảng về căn tính nơi người trẻ. Đôi khi, chúng phải mang các trách nhiệm không tương xứng với tuổi của chúng và các trách nhiệm này buộc chúng phải trở thành người lớn trước thì giờ bình thường. Ông bà thường cung hiến sự đóng góp có tính quyết định trên bình diện xúc cảm và giáo dục tôn giáo: nhờ sự khôn ngoan của các ngài, các ngài là một mắt xích quyết định trong mối tương quan giữa các thế hệ” [145].

263. Đúng là những khó khăn mà họ gặp phải trong chính gia đình mình có thể khiến nhiều người trẻ tự hỏi liệu có đáng bắt đầu một gia đình mới, chung thủy, rộng lượng hay không. Tôi có thể nói với các bạn rằng chắc chắn đáng. Đáng để các bạn dành mọi nỗ lực để đầu tư vào gia đình; ở đó các bạn sẽ tìm thấy những khuyến khích tốt nhất để trưởng thành và những niềm vui lớn nhất để cảm nghiệm và chia sẻ. Đừng để các bạn bị cướp mất một tình yêu vĩ đại. Đừng để các bạn bị dẫn dắt sai đường bởi những người đề xuất một cuộc sống đầy chủ nghĩa cá nhân hiện đang tràn lan mà cuối cùng chỉ dẫn đến sự cô lập và loại cô đơn tồi tệ nhất.

264. Ngày nay, một nền văn hóa phù phiếm đang chiếm ưu thế, nhưng đó chỉ là một ảo ảnh. Nghĩ rằng không có gì dứt khoát là một lời dối trá lừa đảo. “Ngày nay, có những người nói rằng hôn nhân không còn hợp thời trang… Trong một nền văn hóa của thuyết duy tương đối và phù phiếm, nhiều người đang rao giảng tầm quan trọng của việc ‘tận hưởng’ giây phút hiện tại. Họ nói rằng không đáng thực hiện một cam kết suốt đời, đưa ra một quyết định dứt khoát… Thay vào đó, tôi yêu cầu các bạn trở thành những nhà cách mạng, tôi yêu cầu các bạn bơi ngược dòng; vâng, tôi yêu cầu các bạn nổi loạn chống lại nền văn hóa này, một nền văn hóa coi mọi điều là tạm thời và cuối cùng tin rằng các bạn không có khả năng lãnh trách nhiệm, không có khả năng yêu thương thật sự. [146] Tôi rất tin tưởng nơi các bạn, và vì lý do này, tôi khuyên các bạn nên chọn kết hôn.

265. Hôn nhân đòi hỏi sự chuẩn bị, và việc này đòi lớn lên trong viêc biết mình, phát triển các nhân đức lớn lao hơn, đặc biệt là tình yêu, sự kiên nhẫn, cởi mở với đối thoại và giúp đỡ người khác. Nó cũng liên quan đến việc trưởng thành trong chính tính dục của các bạn, để nó ngày càng ít trở thành phương thế sử dụng người khác, và ngày càng có khả năng giao phó bản thân mình cách trọn vẹn cho người khác một cách độc chiếm và quảng đại.

266. Như các giám mục Colombia đã dạy, “Chúa Kitô biết rằng vợ chồng không hoàn hảo và họ cần khắc phục các điểm yếu và thiếu kiên định để tình yêu của họ có thể phát triển và lâu bền. Vì lý do này, Người ban cho vợ chồng ơn thánh của Người; ánh sáng này vừa ánh sáng vừa là sức mạnh giúp họ khả năng dần dần đạt được lý tưởng cuộc sống hôn nhân của họ theo kế hoạch của Thiên Chúa” [147].

267. Đối với những người không được mời gọi kết hôn hoặc sống đời thánh hiến, phải luôn nhớ rằng ơn gọi đầu tiên và quan trọng nhất là ơn gọi chúng ta đã nhận được trong phép rửa. Những người độc thân, ngay cả khi không phải do lựa chọn của chính họ, có thể cung hiến một chứng tá đặc thù cho ơn gọi đó qua nẻo đường phát triển bản thân riêng của họ.

Việc làm

268. Các giám mục Hoa Kỳ đã nhấn mạnh rằng “buổi đầu tuổi trưởng thành thường là dấu chỉ việc người ta gia nhập thế giới việc làm. ‘Các bạn làm gì để kiếm sống?’ là một chủ đề trò chuyện liên tục vì việc làm là một phần quan trọng trong cuộc sống của họ. Đối với người trưởng thành trẻ, kinh nghiệm này rất linh hoạt vì họ chuyển từ việc làm này sang việc làm khác và thậm chí từ sự nghiệp sang sự nghiệp khác. Việc làm có thể qui định việc sử dụng thì giờ của họ và có thể xác định điều họ có đủ điều kiện để làm hoặc mua. Nó cũng có thể xác định phẩm chất và số lượng thì giờ giải trí. Việc làm xác định và ảnh hưởng đến bản sắc và khái niệm bản thân của người trưởng thành trẻ và là nơi chính để tình bạn và các mối liên hệ khác phát triển vì nhìn chung nó không được thực hiện một mình. Thanh niên nam nữ nói về việc làm như là việc hoàn thành một chức năng và cung cấp ý nghĩa. Việc làm cho phép người trẻ đáp ứng các nhu cầu thực tế của họ nhưng còn quan trọng hơn nữa là tìm kiếm ý nghĩa và hoàn thành các giấc mơ và viễn kiến của họ. Mặc dù việc làm có thể không giúp đạt được các giấc mơ của họ, nhưng điều quan trọng đối với người trẻ là nuôi dưỡng một viễn kiến, học cách làm việc theo cách thực sự có tính bản thân và mang lại sự sống, và tiếp tục biện phân tiếng Thiên Chúa kêu gọi” [148].

269. Tôi yêu cầu người trẻ đừng mong sống mà không làm việc, phụ thuộc vào người khác để được giúp đỡ. Điều này không tốt, vì “việc làm là một điều cần thiết, một phần ý nghĩa của cuộc sống trên trái đất này, một nẻo đường lớn mạnh, phát triển con người và thành toàn bản thân. Theo nghĩa này, giúp đỡ người nghèo về tài chính phải luôn là một giải pháp tạm thời trước các nhu cầu cấp bách” [149]. Do đó, “cùng với sự chiêm ngắm đầy thán phục công trình sáng thế mà chúng ta tìm thấy nơi Thánh Phanxicô Assisi, truyền thống linh đạo Kitô giáo cũng đã khai triển một sự hiểu biết phong phú và cân bằng về ý nghĩa của việc làm, như trong cuộc đời của Chân phúc Charles de Foucauld và những người theo ngài, chẳng hạn”[150].

270. Thượng hội đồng lưu ý rằng trong lĩnh vực việc làm, người trẻ có thể “cảm nghiệm các hình thức loại trừ và đẩy ra ngoài lề, trong đó hình thức đầu tiên và nghiêm trọng nhất là nạn người trẻ thất nghiệp, mà ở một số quốc gia từng lên đến mức quá đáng. Bên cạnh việc làm cho họ nghèo, việc thiếu việc làm tác động tiêu cực đến khả năng mơ ước và hy vọng của người trẻ, và làm họ mất khả thể đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Ở nhiều quốc gia, tình trạng này phụ thuộc vào sự kiện này là một số bộ phận dân số trẻ thiếu các kỹ năng chuyên môn thỏa đáng, có lẽ vì các thiếu sót trong hệ thống giáo dục và đào tạo. Thông thường việc việc thiếu an toàn việc làm nơi giới trẻ có liên quan đến các quyền lợi kinh tế chuyên bóc lột lao động” [151].

271. Đây là một vấn đề rất phức tạp và nhạy cảm mà chính trị phải lấy làm ưu tiên, đặc biệt là hiện nay, khi tốc độ tiến bộ kỹ thuật và mối quan tâm giảm chi phí lao động có thể nhanh chóng dẫn đến việc thay thế nhiều việc làm bằng máy móc. Đây cũng là một vấn đề xã hội quan trọng vì việc làm dành cho một người trẻ tuổi không chỉ đơn thuần là một phương tiện kiếm tiền. Việc làm là một biểu thức nói lên phẩm giá con người, một con đường phát triển và hòa nhập xã hội. Nó là một sự kích thích không ngừng để lớn lên trong trách nhiệm và óc sáng tạo, một việc bảo vệ chống lại xu hướng chủ nghĩa duy cá nhân và sự hài lòng cá nhân. Đồng thời, đó là một cơ hội để vinh danh Thiên Chúa bằng cách phát triển các khả năng của người ta.

272. Người trẻ không phải lúc nào cũng có cơ hội quyết định loại việc làm họ sẽ làm, hoặc năng lực và tài năng của họ sẽ được sử dụng như thế nào. Bởi vì, bên cạnh các khát vọng, khả năng và lựa chọn của chính họ, còn có thực tại khắc nghiệt của thị trường việc làm. Đúng là các bạn không thể sống mà không làm việc, và đôi khi các bạn phải chấp nhận bất cứ điều gì có sẵn, nhưng tôi yêu cầu các bạn đừng bao giờ từ bỏ giấc mơ của mình, đừng bao giờ hoàn toàn chôn vùi một ơn gọi và đừng bao giờ chấp nhận thất bại. Hãy tiếp tục tìm kiếm ít nhất những cách phiến diện hoặc không hoàn hảo để sống điều các bạn đã biện phân là ơn gọi đích thực sự của các bạn.

273. Khi chúng ta khám phá ra rằng Thiên Chúa đang kêu gọi chúng ta làm một điều gì đó, điều này hoặc hoặc điều nọ vốn là điều chúng ta được dựng nên để thực hiện – bất kể là điều dưỡng, ngành mộc, truyền thông, kỹ sư, giảng dạy, nghệ thuật hoặc bất cứ loại việc làm nào khác – thì chúng ta sẽ vận dụng các khả năng tốt nhất của chúng ta để hy sinh, quảng đại và cống hiến. Biết rằng chúng ta không làm các sự việc chỉ vì mục đích để làm chúng, mà đúng hơn, chúng ta đem đến cho chúng một ý nghĩa, như một đáp ứng đối với một lời kêu gọi đang vang lên trong thẳm sâu chúng ta phải cung ứng một điều gì đó cho người khác: một điều làm cho các nghề nghiệp này mang lại một cảm thức thỏa mãn sâu sắc. Như chúng ta đã đọc trong sách thánh Giảng Viên cổ xưa: “tôi nhận thấy: đối với con người, không có gì tốt hơn là hưởng những thú vui do công việc chính mình làm ra” (3: 22).

Ơn gọi thánh hiến đặc biệt

274. Nếu quả chúng ta tin rằng Chúa Thánh Thần tiếp tục linh hứng các ơn gọi bước vào chức linh mục và đời sống tu trì, chúng ta có thể “tung lưới một lần nữa” nhân danh Chúa, một cách tin tưởng hoàn toàn. Chúng ta có thể dám nói, và nên nói, với từng người trẻ tự đặt câu hỏi xem liệu đây có phải là nẻo đường mà họ có ý định đi theo hay không.

275. Đôi khi, tôi đem điều trên nói với người trẻ, và họ thường trả lời gần như đùa dỡn: “Không, đó không phải là thứ dành cho con!” Ấy thế mà, vài năm sau, một vài người trong số họ ở trong chủng viện. Chúa không thất hứa sẽ cung cấp cho Giáo hội những người chăn chiên, vì nếu không có họ, Giáo hội sẽ không thể sống và thực hiện sứ mệnh của mình. Nếu đúng là một số linh mục không làm chứng tốt, điều này không có nghĩa là Chúa hết kêu gọi. Trái lại, Người nhân đôi tiền đánh cuộc, vì Người không bao giờ ngừng chăm sóc Giáo hội yêu dấu của Người.

276. Khi biện phân ơn gọi của các bạn, đừng bỏ qua khả thể hiến thân cho Thiên Chúa trong chức linh mục, đời sống tu trì hoặc trong các hình thức thánh hiến khác. Tại sao không? Các bạn có thể chắc chắn rằng, nếu các bạn nhận ra và bước theo tiếng Thiên Chúa kêu gọi, thì trong đó các bạn sẽ tìm thấy sự thỏa mãn hoàn toàn.

277. Chúa Giêsu đang bước đi giữa chúng ta, như Người đã bước đi ở Galilê. Người đi qua các đường phố của chúng ta, và Người lặng lẽ dừng lại và nhìn vào mắt chúng tôi. Lời kêu gọi của Người thật hấp dẫn và kích thích. Thế nhưng, ngày nay sự căng thẳng và tốc độ nhanh chóng của một thế giới liên tục kích thích chúng ta không còn chừa chỗ nào cho sự im lặng nội tâm để chúng ta có thể tri nhận được ánh mắt của Chúa Giêsu và nghe thấy tiếng gọi của Người. Trong khi đó, nhiều lời mời trình bầy một cách hấp dẫn sẽ đến cản đường các bạn. Chúng có vẻ hấp dẫn và kích thích, mặc dù với thời gian, chúng sẽ chỉ khiến bạn cảm thấy trống rỗng, mệt mỏi và cô đơn. Đừng để điều này xảy ra với các bạn vì cơn bão xoáy của thế giới này đủ thúc đẩy các bạn đi theo một nẻo đường không có ý nghĩa thực sự, không có phương hướng, không có mục tiêu rõ ràng, và do đó cản trở nhiều nỗ lực của các bạn. Tốt hơn nên tìm kiếm sự thanh thản và yên tĩnh giúp các bạn suy ngẫm, cầu nguyện, nhìn rõ hơn thế giới xung quanh các bạn, và sau đó, với Chúa Giêsu, tiến đến chỗ nhận ra ơn gọi của các bạn trong thế giới này.

CHƯƠNG CHÍN: Biện phân

278. Trong Tông huấn Gaudete et Exsultate (Hãy Hân Hoan Nhẩy Mừng), tôi đã nói một cách khá tổng quát về sự biện phân. Bây giờ tôi muốn đưa ra một số suy niệm đó và áp dụng chúng vào cách chúng ta biện phân ơn gọi của chúng ta trong thế giới.

279. Trong Tông huấn đó, tôi đã nhắc đến việc tất cả chúng ta, nhưng “đặc biệt những người trẻ, đang đắm chìm trong một nền văn hóa vứt bỏ. Chúng ta có thể điều hành (navigate) cùng một lúc trên hai hoặc nhiều màn hình và tương tác cùng một lúc với hai hoặc ba khung cảnh ảo. Nếu không có sự khôn ngoan của biện phân, chúng ta có thể dễ dàng trở thành con mồi cho mọi xu hướng mau qua” [152]. Thật vậy, “điều này càng quan trọng hơn nữa khi một số điều mới lạ tự xuất hiện trong cuộc sống của chúng ta. Lúc đó, chúng ta phải quyết định xem đó có phải là rượu mới do Thiên Chúa mang đến hay ảo ảnh được tạo ra bởi tinh thần thế gian này hay tinh thần ma quỷ” [153].

280. Sự biện phân như vậy, “mặc dù bao gồm lý trí và khôn ngoan, nhưng vượt xa chúng, vì nó muốn thoáng nhìn kế hoạch độc đáo và mầu nhiệm mà Thiên Chúa vốn dành cho mỗi người chúng ta… Nó phải liên quan với ý nghĩa của đời tôi trước Chúa Cha, Đấng biết và yêu tôi, và với mục đích thực sự của đời tôi, điều mà không ai biết rõ hơn Người” [154].

281. Ở đây chúng ta thấy tầm quan trọng của việc đào tạo lương tâm, một việc giúp phát triển sự biện phân theo chiều sâu và lòng trung thành với Thiên Chúa: “Việc đào tạo lương tâm chúng ta là một công việc của cả đời, trong đó chúng ta học cách nuôi dưỡng chính tình cảm tâm tư của Chúa Giêsu Kitô, tiếp nhận các tiêu chuẩn đằng sau các lựa chọn của Người và các ý định đằng sau các hành động của Người (xem Pl 2: 5)” [155].

282. Trong diễn trình đào tạo này, chúng ta để cho mình được Chúa Kitô biến đổi, ngay cả khi chúng ta đã có “thói quen làm việc tốt, đây cũng là một phần trong việc xét mình của chúng ta. Chúng ta không những nhận diện tội lỗi, mà còn nhận ra việc làm của Chúa trong đời sống hàng ngày của chúng ta, trong các biến cố lịch sử bản thân và thế giới xung quanh chúng ta, và trong chứng tá của mọi người nam nữ đã đi trước chúng ta hoặc đồng hành với chúng ta bằng sự khôn ngoan của họ. Điều này giúp chúng ta phát triển trong nhân đức khôn ngoan và đem lại một định hướng toàn diện cho đời sống của chúng ta qua các lựa chọn cụ thể, với ý thức thanh thản cả các năng khiếu lẫn các hạn chế của chúng ta” [156].

Biện phân ơn gọi của các bạn

283. Một hình thức biện phân đặc thù liên quan đến nỗ lực khám phá ơn gọi riêng của chúng ta. Vì đây là một quyết định có tính rất bản thân mà người khác không thể làm thay cho chúng ta, nên nó đòi hỏi một mức độ cô đơn và im lặng nào đó. “Chúa nói với chúng ta bằng nhiều cách khác nhau, tại nơi làm việc, qua những người khác và ở mọi lúc. Tuy nhiên, một cách đơn giản, chúng ta không thể làm gì nếu không có sự im lặng cầu nguyện lâu giờ, một việc giúp chúng ta tri nhận tốt hơn ngôn ngữ của Thiên Chúa, giải thích ý nghĩa thực sự của những linh hứng mà chúng ta tin rằng chúng ta đã nhận được, làm dịu những lo lắng của chúng ta và thấy lại toàn bộ sự hiện hữu của chúng ta trong ánh sáng của riêng Người” [157].

284. Tuy nhiên, sự im lặng này không khiến chúng ta khép kín vào chính mình. “Chúng ta phải nhớ rằng sự biện phân trong cầu nguyện phải được phát sinh từ sự cởi mở đối với việc lắng nghe – đối với Chúa và người khác, và đối với chính thực tại, một điều luôn thách thức chúng ta theo những cách mới mẻ. Chỉ khi nào chúng ta sẵn sàng lắng nghe, chúng ta mới có tự do để qua một bên các ý tưởng phiến diện hoặc không đầy đủ của mình… Nhờ cách này, chúng ta mới trở nên thực sự cởi mở để chấp nhận một tiếng gọi có thể phá vỡ sự an toàn của chúng ta, nhưng đưa chúng ta đến một đời sống tốt đẹp hơn. Mọi sự thanh thản và yên bình vẫn chưa đủ. Chúa có thể sẽ ban cho chúng ta một điều gì đó hơn thế nữa, nhưng vì sự vô tình êm ái của chúng ta, chúng ta không nhận ra nó” [158].

285. Khi tìm cách biện phân ơn gọi riêng của chúng ta, có một số câu hỏi chúng ta nên nêu ra. Chúng ta không nên bắt đầu với câu hỏi chúng ta có thể kiếm được nhiều tiền hơn ở đâu, hoặc đạt được sự nhìn nhận và địa vị xã hội lớn hơn ở chỗ nào. Cả câu hỏi loại công việc nào sẽ làm chúng ta hài lòng nhất cũng không nên. Nếu không muốn sai lạc, chúng ta cần một khởi điểm khác. Chúng ta nên hỏi: Tôi có biết bản thân mình ngoài các ảo tưởng và cảm xúc của tôi không? Tôi có biết điều gì mang lại niềm vui hay nỗi buồn cho trái tim tôi không? Điểm mạnh và điểm yếu của tôi là gì? Những câu hỏi này ngay lập tức làm phát sinh các câu hỏi khác: Làm thế nào tôi có thể phục vụ mọi người tốt hơn và chứng tỏ hữu ích nhất cho thế giới của chúng ta và cho Giáo hội? Vị trí thực sự của tôi trong thế giới này là gì? Tôi có thể cung ứng những gì cho xã hội? Thậm chí nhiều câu hỏi thực tế hơn sẽ xuất hiện sau đó: Tôi có khả năng cần thiết để cung ứng loại phục vụ này không? Tôi có thể phát triển những khả năng này không?

286. Những câu hỏi trên nên ít tập trung hơn vào bản thân và các khuynh hướng của chúng ta, mà vào người khác, để sự biện phân của chúng ta dẫn dắt chúng ta nhìn thấy đời sống của chúng ta trong tương quan với đời sống của họ. Đó là lý do tại sao tôi muốn nhắc các bạn nhớ câu hỏi quan trọng nhất. “Ở trong đời, chúng ta thường quá lãng phí thời gian để tự hỏi: ‘Tôi là ai?’ Các bạn có thể cứ thế tiếp tục hỏi, ‘Tôi là ai?” suốt quãng thời gian còn lại của đời các bạn. Nhưng câu hỏi thực sự là: ‘Tôi hiện diện cho ai?’” [159]. Tất nhiên, các bạn hiện diện cho Thiên Chúa. Nhưng Người vốn đã quyết định rằng các bạn cũng nên hiện diện cho người khác, và Người đã ban cho các bạn nhiều đức tính, khuynh hướng, tài năng và đặc sủng không cho riêng các bạn, mà là để chia sẻ với những người xung quanh các bạn.

Lời kêu gọi của Chúa Giêsu, người bạn của chúng ta

287. Để biện phân ơn gọi bản thân của chúng ta, chúng ta phải nhận ra nó là lời kêu gọi phát xuất từ một người bạn, người đó là Chúa Giêsu. Khi chúng ta tặng bạn bè của chúng ta một điều gì đó, chúng ta cung cấp cho họ điều tốt nhất chúng ta có. Không nhất thiết phải là những gì đắt giá nhất hoặc khó có được nhất, nhưng những gì chúng ta biết sẽ làm cho họ hạnh phúc. Bạn bè rất nhạy cảm đối với điều này đến nỗi họ có thể tưởng tượng được nụ cười trên khuôn mặt bạn bè của mình khi họ mở món quà đó. Loại biện phân diễn ra giữa những người bạn này là điều tôi khuyên các bạn nên lấy làm khuôn mẫu để cố gắng khám phá ra thánh ý Thiên Chúa dành cho đời các bạn.

288. Tôi muốn các bạn biết rằng, khi Chúa nghĩ về mỗi các bạn và những gì Người muốn cho các bạn, Người xem các bạn là bạn thân của Người. Và nếu Người có kế hoạch ban cho các bạn một ân sủng, một đặc sủng giúp các bạn sống trọn vẹn và trở thành người mang lại lợi ích cho người khác, một người để lại dấu ấn trong đời, đó chắc chắn sẽ là một hồng phúc mang lại cho các bạn nhiều niềm vui và hứng thú hơn bất cứ điều gì khác trên đời này. Không phải vì hồng phúc đó hiếm hoi hoặc phi thường, mà vì nó hoàn toàn phù hợp với các bạn. Nó sẽ là một sự phù hợp hoàn hảo cho toàn bộ đời sống của các bạn.

289. Một ơn gọi, dù là một hồng phúc, vẫn chắc chắn có tính đòi hỏi. Các hồng ân của Thiên Chúa có tính tương tác; để hưởng được chúng, chúng ta phải sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Thế nhưng, các đòi hỏi của chúng không phải là một nghĩa vụ áp đặt từ bên ngoài, mà là một khích lệ để hồng ân đó tăng trưởng và phát triển, và sau đó trở thành một quà phúc cho người khác. Khi Chúa đánh thức một ơn gọi, Người không những nghĩ đến những gì bạn đã có, mà còn về những gì một ngày kia bạn sẽ có, khi cùng đi với Người và những người khác.

290. Sinh lực và sức mạnh nhân cách tự kết hợp với nhau trong trái tim người trẻ để làm cho họ liên tục nhắm mục tiêu cao hơn. Sự hớn hở (exuberance) này sẽ dịu bớt đi với thời gian và các trải nghiệm đau đớn, nhưng nó quan trọng đối với “niềm khao khát cõi vô hạn đầy trẻ trung nhưng chưa được thử thách” [160] muốn gặp được tình bạn vô điều kiện mà Chúa Giêsu muốn dành cho chúng ta. Hơn các quy luật và nghĩa vụ, lựa chọn mà Chúa Giêsu đặt trước chúng ta là bước theo Người như bạn bè bước theo nhau, tìm tình đồng hành của nhau và dành thì giờ cho nhau hoàn toàn vì tình bạn trong sáng. Mọi thứ khác sẽ đến với thời gian, và ngay các thất bại trong đời cũng có thể là một cách vô giá để cảm nghiệm tình bạn này, một tình bạn sẽ không bao giờ mất đi.

Lắng nghe và đồng hành

291. Có nhiều linh mục, nam nữ tu sĩ, giáo dân và những người chuyên nghiệp, và cả những người trẻ thực sự có trình độ, có thể giúp đỡ người trẻ trong việc biện phân ơn gọi của họ. Khi chúng ta được kêu gọi giúp người khác biện phân đường đời của họ, điều tối quan trọng là khả năng lắng nghe. Lắng nghe đòi ba loại nhạy cảm khác nhau và bổ sung cho nhau:

292. Loại nhạy cảm đầu tiên được điều hướng về cá nhân. Đó là vấn đề lắng nghe một ai đó đang chia sẻ bản ngã họ trong những gì họ nói. Một dấu hiệu của sự sẵn lòng lắng nghe này là thời gian chúng ta sẵn sàng dành cho người khác. Hơn cả số lượng thời gian chúng ta dành ra, đây còn là việc làm người khác cảm thấy thời gian của tôi là thời gian của họ, họ có mọi thời gian họ cần để nói mọi thứ họ muốn. Người khác này phải cảm nhận rằng tôi đang lắng nghe vô điều kiện, không bị xúc phạm hay ngỡ ngàng, mệt mỏi hay buồn chán. Chúng ta thấy gương sáng loại lắng nghe này nơi Chúa; Người sánh bước bên cạnh các môn đệ trên đường Emmau, mặc dù họ đang đi sai hướng (x. Lc 24: 13-35). Khi Chúa Giêsu nói Người dự định đi xa hơn, họ nhận ra Người đã tặng họ hồng phúc thời gian của Người, vì vậy họ quyết định tặng Người thời gian của họ bằng cách cung ứng sự hiếu khách của họ. Chăm chú và quên mình lắng nghe là một dấu hiệu chúng ta tôn trọng người khác, bất kể họ nghĩ gì hoặc lựa chọn điều gì trong đời sống.

293. Loại nhạy cảm thứ hai được đánh dấu bằng việc biện phân. Nó cố gắng nắm bắt chính xác ơn thánh hoặc cám dỗ hiện diện ở chỗ nào, vì đôi khi những thứ vụt qua trong tâm trí chúng ta chỉ là những cám dỗ có thể khiến chúng ta phân tâm khỏi con đường thực sự của chúng ta. Tôi cần phải tự hỏi người kia đang cố nói với tôi những gì, những gì họ muốn tôi hiểu ra đang xảy ra trong đời sống họ. Hỏi những câu hỏi như vậy giúp tôi đánh giá cao suy nghĩ của họ và các hậu quả nó gây ra cho các cảm xúc của họ. Kiểu lắng nghe này tìm cách biện phân các nhắc nhở lành mạnh của Thần Trí tốt lành, Đấng đề xuất cho chúng ta sự thật của Chúa, nhưng cả các cạm bẫy do thần trí tà ác đặt để nữa – những công việc và lời hứa trống rỗng của nó. Cần phải có can đảm, ấm áp và khéo léo để giúp người khác biện phân sự thật khỏi các ảo tưởng hoặc bào chữa (excuses).

294. Loại nhạy cảm thứ ba là khả năng tri nhận những gì đang thúc đẩy người khác. Điều này đòi một kiểu lắng nghe sâu sắc hơn, một kiểu có khả năng biện phân hướng mà người đó thực sự muốn đi. Ngoài những gì họ đang cảm thấy hoặc suy nghĩ ngay lúc này, và bất cứ điều gì xảy ra cho đến thời điểm này trong đời họ, vấn đề thực sự là họ muốn trở thành điều gì. Điều này có thể đòi họ không nhắm các mong muốn và ước nguyện hời hợt của riêng họ, nhưng đúng hơn nhắm những gì đẹp lòng Chúa nhất, nhắm các kế hoạch của Người dành cho đời họ. Và điều đó được nhìn trong một khuynh hướng sâu sắc hơn của trái tim, vượt lên trên bình diện bề mặt của những điều họ thích và cảm xúc. Kiểu lắng nghe này tìm cách biện phân ý hướng tối hậu của họ, ý hướng nhằm quyết định dứt khoát ý nghĩa của đời họ. Chúa Giêsu biết và đánh giá cao ý hướng tối hậu này của trái tim. Người luôn ở đó, sẵn sàng giúp mỗi người chúng ta nhận ra điều đó. Chúng ta chỉ cần thưa với Người: “Lạy Chúa, xin cứu vớt con! Xin thương xót con!”

295. Theo cách này, biện phân trở thành một phương tiện chiến đấu tâm linh đích thực, giúp chúng ta theo Chúa một cách trung thành hơn [161]. Như thế, ước mong được biết ơn gọi bản thân của chúng ta có một cường độ tối cao, một phẩm chất khác và mức độ cao hơn, một mức độ biết tôn trọng nhiều hơn phẩm giá con người và đời sống của chúng ta. Cuối cùng, sự biện phân tốt là con đường tự do đem những gì độc đáo nơi mỗi người đến chỗ sinh đầy hoa trái, một điều có tính bản thân mà chỉ có Chúa mới biết. Những người khác không thể hoàn toàn hiểu hoặc dự đoán được từ bên ngoài nó sẽ phát triển ra sao.

296. Khi chúng ta lắng nghe người khác cách này, ở một lúc nào đó, chính chúng ta phải biến mất để người khác theo con đường mà họ đã khám phá ra. Chúng ta phải tan biến như Chúa đã làm trước mắt các môn đệ Emmau, để họ ở lại với những trái tim nóng bỏng và một lòng khao khát không thể cưỡng được là phải lên đường ngay lập tức (x. Lc 24: 31-33). Khi họ trở lại với cộng đồng, những môn đệ ở đó đã nghe tin mừng Chúa thực sự đã sống lại (x. Lc 24:34).

297. Vì “thời gian lớn hơn không gian” [162], chúng ta cần khuyến khích và đồng hành với các diễn trình, mà không áp đặt lộ trình của riêng chúng ta. Vì các diễn trình này liên quan tới những con người luôn luôn độc đáo và tự do. Không có công thức dễ dàng, ngay cả khi mọi dấu hiệu xem ra đều tích cực, vì “chính các yếu tố tích cực cũng cần phải được biện phân cẩn thận, để chúng không trở thành cô lập và mâu thuẫn với nhau, trở nên tuyệt đối và bất hòa với nhau . Điều này cũng đúng đối với các nhân tố tiêu cực, những nhân tố không bị bác bỏ toàn khối và không phân biệt, vì trong mỗi nhân tố đều ẩn chứa một số giá trị nào đó đang chờ được giải phóng và phục hồi trong sự thật trọn vẹn của nó” [163].

298. Nếu các bạn muốn đồng hành với người khác trên nẻo đường này, các bạn phải là người đầu tiên đi nẻo đường đó, ngày này qua ngày khác. Đó là điều Đức Maria đã làm, khi còn trẻ, khi ngài phải đối diện với các vấn đề và khó khăn của chính mình. Xin ngài đổi mới sự trẻ trung của các bạn bằng sức mạnh lời cầu nguyện của ngài và luôn đồng hành cùng các bạn bằng sự hiện diện mẫu thân của ngài.

Và để kết thúc… một mong ước

299. Các bạn trẻ thân mến, niềm hy vọng hân hoan của tôi là thấy các bạn tiếp tục chạy cuộc đua ở đàng trước các bạn, bỏ xa mọi người chậm chạp hoặc sợ hãi. Hãy tiếp tục chạy, “được lôi cuốn bởi khuôn mặt Chúa Kitô, Đấng chúng ta rất yêu mến, Đấng chúng ta tôn thờ trong Bí tích Thánh Thể và thừa nhận trong xác thịt của anh chị em đau khổ của chúng ta. Xin Chúa Thánh Thần thúc giục các bạn khi các bạn chạy cuộc đua này. Giáo hội cần đà tiến, trực giác, đức tin của các bạn. Chúng ta cần những điều đó! Và khi các bạn đến nơi chúng tôi chưa đến, hãy kiên nhẫn chờ đợi chúng tôi [164].

Ban hành ở Loreto, tại Đền thờ của Nhà Thánh, ngày 25 tháng 3, Lễ trọng thể Truyền tin của Chúa, năm 2019, năm thứ bảy triều Giáo hoàng của tôi.

PHANXICÔ

________________________________________
CHÚ THÍCH

[1] Từ ngữ Hy lạp thường dịch là “mới”, cũng có nghĩa là “trẻ”.
[2] Tự thú (Confessions), X, 27: PL 32, 795.
[3] Thánh Irênê, Adversus Hæreses, II, 22, 4: PG 7, 784.
[4] Tài liệu sau cùng khóa họp thường lệ lần thứ 15 của Thượng Hội đồng Giám mục, 60. Viết tắt là FD.
[5] Sách Giáo Lý Của Giáo Hội Công Giáo, 515.
[6] Nt, 517.
[7] Huấn giáo (27-6-1990), 2-3: Insegnamenti 13, 1 (1990), 1680-1681.
[8] Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Amoris Laetitia (19-3-2016), 182: AAS 108 (2016), 384.
[9] FD 63.
[10] CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICAN II, Sứ điệp gửi người trẻ và phụ nữ (8-12-1965): AAS 58 (1966), 18.
[11] Nt.
[12] FD 1
[13] Nt, 8.
[14] Nt, 50.
[15] Nt, 53
[16] Xem CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICAN II, Hiến chế tín lý về Mặc khải Dei Verbum, 8.
[17] FD 150.
[18] Diễn văn trong đêm canh thức với giới trẻ, Đại hội giới trẻ Thế giới thứ 34 tại Panama (26-1-2019): L’Osservatore Romano, 28-29 tháng 1-2019, 6.
[19] Lời nguyện kết thúc Đi Đàng Thánh giá Đại hội giới trẻ Thế giới thứ 34 tại Panama (26-1-2019): L’Osservatore Romano, 27-1-2019, 12.
[20] FD 65.
[21] Nt, 167.
[22] THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Nói chuyện với giời trẻ ở Turin (13-4- 1980), 4: Insegnamenti 3, 1 (1980), 905.
[23] Đức Giáo Hoàng BÊNÊĐÍCTÔ XVI, Sứ điệp cho Đại hội giới trẻ thế giới thứ 27 (15-3- 2012): AAS 194 (2012), 359.
[24] FD 8.
[25] Nt.
[26] Nt, 10.
[27] Nt, 11.
[28] Nt, 12.
[29] Nt, 41.
[30] Nt, 42.
[31] Nói chuyện với giới trẻ ở Manila (18-1-2015): L’Osservatore Romano, 19-20 tháng 1- 2015, 7.
[32] FD 34.
[33] Tài liệu của cuộc Gặp gỡ Tiền Thượng hội đồng chuẩn bị cho khóa họp thường lệ lần thứ 15 của Thượng Hội đồng Giám mục, Rôma (24-3-2018), I, 1.
[34] FD 39.
[35] Nt, 37.
[36] Xem thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 106: AAS 107 (2015), 889-890.
[37] FD 37.
[38] Nt, 67.
[39] Nt, 21.
[40] Nt, 22.
[41] Nt, 23.
[42] Nt, 24.
[43] Tài liệu của cuộc Gặp gỡ Tiền Thượng hội đồng chuẩn bị cho khóa họp thường lệ lần thứ 15 của Thượng Hội đồng Giám mục, Rôma (4-3-2018), I, 4.
[44] FD 25.
[45] Nt.
[46] Nt, 26.
[47] Nt, 27.
[48] Nt, 28.
[49] Nt, 29.
[50] Diễn văn kết thúc hội nghị bảo vệ trẻ vị thành niên trong Giáo Hội (24-2-2019): L’Osservatore Romano, 25-26 tháng 2-2019, 10.
[51] FD 29.
[52] Thư gửi dân Chúa (20-8-2018), 2: L’Osservatore Romano, 21-21 tháng 8-2018, 7.
[53] FD 30.
[54] Diễn văn khai mạc khóa họp thường lệ lần thứ 15 Thượng Hội đồng Giám mục (3-10-2018): L’Osservatore Romano, 5-10-2018, 8.
[55] FD 31.
[56] Nt.
[57] CÔNG ĐỒNG CHUNG VATICAN II, Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay Gaudium et Spes, 1.
[58] FD 31.
[59] Nt.
[60] Diễn văn kết thúc hội nghị bảo vệ trẻ vị thành niên trong Giáo hội (24-2-2019):: L’Osservatore Romano, 25-26 tháng 2-2019, 11.
[61] FRANCISCO LUIS BERNÁRDEZ, “Soneto”, trong Cielo de tierra, Buenos Aires, 1937.
[62] Tông huấn Gaudete et Exsultate (19-3-2018), 140.
[63] Giảng lễ, Đại hội giới trẻ Thế giới thứ 31 tại Krakov (31-7-2016): AAS 108 (2016), 963.
[64] Diễn văn khai mạc Đại hội giới trẻ Thế giới thứ 34 tại Panama (24-1-2019): L’Osservatore Romano, 26-1-2019, 12.
[65] Tông huấn Evangelii Gaudium (24-11-2013), 1: AAS 105 (2013), 1019.
[66] Nt, 3: AAS 105 (2013), 1020.
[67] Diễn văn trong đêm canh thức với giới trè, Đại hội giới trẻ Thế giới thứ 34 tại Panama (26-1-2019: L’Osservatore Romano, 28-29 tháng 1-2019, 6.
[68] Diễn văn trong cuộc gặp giới trẻ trong Thượng Hội đồng (6-10-2018): L’Osservatore Romano, 8-9 tháng 10-2018, 7.
[69] Đức Giáo Hoàng BÊNÊĐÍCTÔ XVI, Thông điệp Deus Caritas Est (25-12-2005), 1: AAS 98 (2006), 217.
[70] PEDRO ARRUPE, Enamórate.
[71] THÁNH GIÁO HOÀNG PHAOLÔ VI, Diễn từ phong Chân phúc cho Nunzio Sulprizio (1-12-1963): AAS 56 (1964), 28.
[72] FD 65.
[73] Giảng lễ cho giới trẻ ở Sydney (2-12-1970): AAS 63 (1971), 64.
[74] Tự thú (Confessions), I, 1, 1: PL 32, 661.
[75] God is Young. A Conversation with Thomas Leoncini, New York, Random House, 2018, 4.
[76] FD 68.
[77] Gặp gỡ giới trẻ ở Cagliari (22-9-2013): AAS 105 (2013), 904-905.
[78] Năm chiếc bánh và hai con cá, Pauline Books and Media, 2003, Trg. 9, 13.
[79] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC THỤY SĨ, Prendre le temps: pour toi, pour moi, pour nous, 2-2-2018.
[80] Xem THÁNH TÔMA AQUINÔ, Summa Theologiae, II-II, q. 23, art. 1.
[81] Diễn văn cho tình nguyện viên tại Đại hội giới trẻ Thế giới thứ 34 ở Panama (ngày 27-1-2019): L’Osservatore Romano, 28-29 tháng 1-2019, 11.
[82] THÁNH OSCAR ROMERO, Bài giảng (6-11-1977), trong Su Pensamiento, I-II, San Salvador, 2000, trg. 312.
[83] Diễn văn khai mạc Đai hội giới trẻ Thế giới thứ 34 ở Panama (ngày 24-1-2019): L’Osservatore Romano, 26-1-2019, 12.
[84] Xem Gặp gỡ giới trẻ tại đền thánh quốc gia Maipu, Santiago de Chile (17-1-2018): L’Osservatore Romano, 19-1-2018, 7.
[85] Xem ROMANO GUARDINI, Die Lebensalter. Ihre ethische und pädagogische Bedeutung, Würzburg, in lần 3, 1955, 20.
[86] Tông huấn Gaudete et Exsultate (19-3-2018), 11.
[87] Spiritual Canticle, Red. B, Prologue, 2.
[88] Nt, XIV-XV, 2.
[89] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC RWANDA, Thư của Hội đồng Giám mục Rwanda gửi các Kitô hữu trong Năm ngoại thường về Hòa giải, Kigali (18-1-2018), 17.
[90] Gặp gỡ giới trẻ của Trung tâm văn hóa Linh mục Felix Varela tại Havana (20-9-2015): L’Osservatore Romano, 21-22 tháng 9-2015, 6.
[91] FD 46.
[92] Diễn văn trong đêm canh thức của Đại hội Giới trẻ Thế giới thứ 28 tại Rio de Janeiro (27-7-2013): AAS 105 (2013), 663.
[93] Ustedes son la luz del mundo. Diễn văn tại Cerro San Cristóbal, Chile, 1940. Bản văn có tại: https://www.padrealbertohurtado.cl/escritos-2/.
[94] Giảng lễ, Đại hội Giới trẻ Thế giới thứ 28 tại Rio de Janeiro (28-7-2013): AAS 105 (2013), 665.
[95] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC HÀN QUỐC, Thư mục vụ nhân dịp kỷ niệm 150 năm ngày tử đạo trong cuộc bách hại ở Byeong-in (30-3-2016).
[96] Xem Giảng lễ, Đại hội Giới trẻ Thế giới thứ 34 tại Panama (27-1-2019): L’Osservatore Romano, 28-29 Tháng 1-2019, 12.
[97] “Lạy Chúa, xin dùng con như khí cụ bình an”, lời nguyện được cảm hứng bởi thánh Phanxicô Assidi.
[98] Diễn văn trong đêm canh thức, Đại hội Giới trẻ Thế giới thứ 34 tại Panama (26-1-2019): L’Osservatore Romano, 28-29 tháng 1-2019, 6.
[99] FD 14.
[100] Xem Thông điệp Laudato Si’ (24 May 2015), 145: AAS 107 (2015), 906.
[101] Sứ điệp video cho Hội nghị giới trẻ bản địa thế giới ở Panama (17-21 tháng 1-2019): L’Osservatore Romano, 19-1-2019, 8.
[102] FD 35.
[103] Xem Ad Adolescentes, I, 2: PG 31, 565.
[104] Xem POPE FRANCIS AND FRIENDS, Sharing the Wisdom of Time, Chicago, Loyola Press, 2018.
[105] Nt, 12.
[106] Nt, 13.
[107] Nt.
[108] Nt.
[109] Nt, 162-163.
[110] EDUARDO PIRONIO, Message to Young Argentinians at the National Youth Meeting in Cordoba, (12-15 tháng 9-1985), 2.
[111] FD 123.
[112] Das Wesen des Christentums. Die neue Wirklichkeit des Herrn, Mainz, in lần thứ 7, 1991, 14.
[113] Số 165: AAS 105 (2013), 1089.
[114] Diễn văn khi thăm Nhà người Samaritan nhân hậu, Panama, 27-1-2019: L’Osservatore Romano, 28-29 tháng 1-2019, 10.
[115] FD 36.
[116] Xem Tông hiến Veritatis Gaudium (8-12-2017), 4: AAS 110 (2018), 7-8.
[117] Diễn văn tại cuộc gặp gỡ Sinh viên và đại biểu của Thế giới học thuật ở Piazza San Domenico, Bologna (1-10-2017): AAS 109 (2017), 1115.
[118] FD 51.
[119] Nt, 47.
[120] Sermo 256, 3: PL 38, 1193.
[121] FD 47.
[122] Diễn Văn cho phái đoàn Thế vận hội quốc tế đặc biệt (16-2-2017): L’Osservatore Romano, 17-2-2017, 8.
[123] Ad Adolescentes, VIII, 11-12: PG 31, 580.
[124] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC ARGENTINA, Declaración de San Miguel, Buenos Aires, 1969, X, 1.
[125] RAFAEL TELLO, La nueva evangelización, II (phần phụ thêm I and II), Buenos Aires, 2013, 111.
[126] Xem Tông huấn Evangelii Gaudium (24-11-2013), 44-45: AAS 105 (2013), 1038-1039.
[127] FD 70.
[128] Nt, 117.
[129] Nt, 4.
[130] Tông huấn Evangelii Gaudium (24-11-2013), 124: AAS 105 (2013), 1072.
[131] Nt, số 122, 1071.
[132] FD 9.
[133] Tài liệu của Cuộc Gặp gỡ Tiền Thượng đồng chuẩn bị cho khóa họp thường lệ lần thứ 15 của Thượng Hội đồng Giám mục, Rôma (24-3-2018), 12.
[134] Nt, 10.
[135] FD 15.
[136] Tông huấn Gaudete et Exsultate (19-3-2018), 2.
[137] Hiến chế Tín lý về Giáo hội Lumen Gentium, 11.
[138] Diễn văn trong đêm canh thức, Đại hội Giới trẻ Thế giới thứ 34 tại Panama (26-1-2019): L’Osservatore Romano, 28-29 tháng 1-2019, 6.
[139] Tông huấn Evangelii Gaudium (24-11-2013), 273: AAS 105 (2013), 1130.
[140] THÁNH GIÁO HOÀNG PHAOLÔ VI, Thông điệp Populorum Progressio (26-3- 1967), 15: AAS 59 (1967), 265.
[141] Meditación de Semana Santa para jóvenes, viết trên chuyến tàu trở về từ Hoa Kỳ năm 1946 (https://www.padrealbertohurtado.cl/escritos-2/).
[142] Gặp gỡ giới trẻ vùng Umbria tại Assidi (4-10-2013): 105 (2013), 921.
[143] Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Amoris Laetitia (19-3-2016), 150: AAS 108 (2016), 369.
[144] Diễn văn với giới trẻ giáo phận Grenoble-Vienne (17-9-2018): L’Osservatore Romano, 19-9-2018, 8.
[145] FD 32.
[146] Diễn văn cho tình nguyện viên tại Đai hội giới trẻ Thế giới thứ 28 ở Rio de Janeiro (ngày 28-7-1913): Insegnamenti 1, 2 (2013), 125.
[147] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC COLOMBIA, Mensaje Cristiano sobre el matrimonio (14-5-1981).
[148] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC HOA KỲ, Sons and Daughters of Light: A Pastoral Plan for Ministry with Young Adults, 12-11-1996, Phần I, 3.
[149] Thông điệp Laudato Si’ (24-5-2015), 128: AAS 107 (2015), 898.
[150] Nt, 125: AAS 107 (2015), 897.
[151] FD 40.
[152] Tông huấn Gaudete et Exsultate (19-3-2018), 167.
[153] Nt, 168.
[154] Nt, 170.
[155] FD 108.
[156] Nt.
[157] Tông huấn Gaudete et Exsultate (19-3-2018), 171.
[158] Nt, 172.
[159] Diễn văn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong đêm canh thức chuẩn bị Đại hội Giới Trẻ thế giới thứ 34 (8-4-2017) : AAS 109 (2017), 447.
[160] ROMANO GUARDINI, Die Lebensalter. Ihre ethische und pädagogische Bedeutung, Würzburg, in lần 3, 1955, 20.
[161] Xem Tông huấn Gaudete et Exsultate (19-3-2018), 169.
[162] Tông huấn Evangelii Gaudium (24-11-2013), 222: AAS 105 (2013), 1111.
[163] THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Pastores Dabo Vobis (25-3-1992), 10: AAS 84 (1992), 672.
[164] Cầu nguyện canh thức với giới trẻ Ý tại Hí trường Maximus ở Rôma (11-8-2018): L’Osservatore Romano, 13-14 tháng 8-2018, 6.