TÍN ĐIỀU ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI


  1. Theo hai cha Pohle và Scheeben, mấy thế kỷ đầu không có dấu tích gì về lòng tin Đức Mẹ Maria lên trời. Nhưng một cái quách (sarcophagus) đầu thế kỷ IV, hiện ở nền nhà thờ Santa Engracia thành Saragossa (Tây Ban Nha), có bức chạm trổ hình Đức Mẹ lên trời. Và chứng tích của Thánh Epiphanô cho biết niềm tin Mẹ Maria bất tử và thân xác Mẹ vinh quang đã được truyền bá sâu rộng trong một ít giáo đoàn như Antiokia.TIẾN TRÌNH TÍN ĐIỀU MẸ LÊN TRỜI

Do xác tín và ngợi khen “Chức phẩm Thiên Mẫu” và “Đức Đồng Trinh” của Mẹ là hai căn nguyên bước vinh quang của Người, Thánh Epiphanô mở đường cho lòng tin và sự xác quyết của các Thánh Giáo phụ, các Đức Giáo hoàng, các Giám mục, các nhà thần học và toàn thể Giáo hội.
A. Các Thánh Giáo phụ

Các Thánh Giáo phụ trong những thế kỷ đầu, như các Thánh Môđestô, Basiliô, Giêrônimô, Augustinô, Germanô, Đamascenô, và Thêôđôrê Studium, đồng thanh tung hô bước vinh quang của Mẹ Maria do chức phẩm Thiên Mẫu và đức Đồng Trinh của Mẹ .

Riêng Thánh Đamascênô nói: “Cần thiết rằng Con Thiên Chúa, khi sinh ra, đã gìn giữ vẹn tuyền đức Trinh của Mẹ, thì phải gìn giữ Mẹ khi chết, khỏi hư hoại. Đấng đã cưu mang Đấng Tạo Hoá cần được ở trong cung điện của Thiên Chúa. Mẹ Thiên Chúa cần phải có tất cả mọi điều thuộc về Con của Mẹ và cần được mọi thụ tạo tôn vinh”.

  1. Các Đức Giáo Hoàng

– Đức Adrianô I và Đức Pascalê I có những đồ thờ trang trí bằng hình ảnh Mẹ lên trời.
–   Đức Alexanđrô III nói: “Mẹ Maria thụ thai không bị xấu hổ, sinh con không bị đau đớn, từ trần không bị hư hoại trong mồ, vì theo lời Thiên thần, Mẹ đã được đầy ơn”.

– Đức Thánh Giáo Hoàng Piô V sửa đổi lại kinh Phụng vụ với bài đọc lễ Mẹ Lên Trời.
–   Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XIV: Về ngày lễ Đức Mẹ Lên Trời, Giáo hội đọc các bài giảng của thánh Đamascenô và thánh Bênađô, thấy rõ ràng Rất Thánh Trinh Nữ lên trời cả hồn và xác. Đó là một dấu chỉ và một bằng chứng niềm tin của Giáo hội.

–   Đức Giáo Hoàng Piô XII nối tiếp các Đức Giáo Hoàng tiền nhiệm về niềm tin đó. Trong Thông điệp “Corporis Mystici” ngày 29-6-1943, Ngài viết: “Chúng ta hãy nài xin Mẹ rất thánh của mọi phần tử của Chúa Kitô mà Ta đã tín thác hiến dâng loài người cho Trái Tim Mẹ. Ngày nay ở trên trời, thân xác và linh hồn Mẹ toả sáng trong vinh quang, hiển trị cùng với Con của Mẹ”.

  1. Các Đức Giám mục và toàn thể Giáo Hội

Ngày 23-2-1870, 200 Giám mục của Công đồng Vatican I làm đơn thỉnh nguyện Đức Thánh Cha định tín Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.

Năm 1920, 260 Giám mục từ nhiều nước, cũng hợp ý tâu xin, đầu tiên là các Giám mục nước Ý, nước Pháp, trong khi các Hội Đồng Giám Mục nước Đức, Áo, Anh, và Thụy Sĩ còn im lặng.

Năm 1934, sau năm năm chiến dịch “Forge Italiane” ráo riết vận động, 600 Tổng Giám mục và Giám mục đã chấp thuận cuộc trưng cầu dân ý khắp thế giới, tâu xin Toà thánh định tín.

Tại Pháp và Ý năm 1929, một hội cầu nguyện được thành lập để xin Chúa cho việc định tín được thành tựu.

Đại Hội Thánh Mẫu tại Nantes năm 1924 cũng bày tỏ nguyện vọng đó.

  1. Các nhà thần học

Nối tiếp các Thánh Giáo phụ và Thẩm quyền của Giáo hội, các nhà thần học qua các thế kỷ, cũng tích cực đồng tâm nhất trí về tín lý Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời:

Thế kỷ XII và XIII có các Thánh Albertô, Bônaventura, Tôma, Fullertô và các nhà thần học Hugh St. Victor, Sicard Cremona, Durand Mende.

Thế kỷ XV có Thánh Antôniô và nhà thần học Gabriel Biel. Thế kỷ XVI có các Thánh Canisiô, Bellarminô, các nhà thần học Suarez, Soto, Đức Hồng y De Berulle và cả trường phái Pháp.

Thế kỷ XVII có các nhà thần học Billuart, Theophile Raynaud.

Thế kỷ XVIII có Thánh Anphong, Đức Hồng y Lambertini (sau này là Đức Giáo hoàng Beneđictô XIV), các nhà thần học Sedlmayr, Trombelli.

Thế kỷ XIX và XX có các nhà thần học Scheeben, Lannerz, Janssens, Lagrange, Jugie, Roschini, Balic, Bittremieux và Đức Hồng y Lépicier.

Theo cha Deneffe, từ cha Scheeben, có ít là 18 nhà thần học xác quyết rằng tín lý Mẹ hồn xác lên trời có thể định tín.

Nhà thần học Sertillanges viết một câu rất dí dỏm về sự phục sinh của Mẹ: “Chúng tôi tin rằng đường lối mọi xác phàm phải ngoắt quay đi khi nói về Đức Trinh Nữ. Anh hùng ca của sâu bọ phải im bặt để chúng ta ca lên trên ngôi mộ này Hoan khúc Magnificat thay vì Ai khúc De profundis”.

Như vậy, toàn thể Giáo Hội, cùng với các Thánh Giáo phụ, các Đức Giáo Hoàng và các nhà thần học, đều cùng một niềm tin Mẹ Maria lên trời cả hồn và xác. Do đó, cùng với nhà thần học Bainvel, Dân Chúa tin tưởng tín lý Mẹ Hồn Xác Lên Trời mau chóng được định tín.

  1. Chuẩn bị định tín

Ngày 1-5-1946, với Thông điệp “Deiparae Virginis” gửi các Giám mục khắp Giáo Hội, Đức Giáo Hoàng Piô XII cho biết từ năm 1840 đến năm 1940, những đơn thỉnh nguyện tâu xin Toà Thánh định tín Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời, đã đóng thành hai cuốn sách. Những đơn thỉnh nguyện này do các Đức Hồng Y, các Thượng Phụ Giáo Chủ, các Giám Mục, đặc biệt 200 Nghị Phụ Công đồng Vatican I, các linh mục, tu sĩ nam nữ, các trường Đại học, các đoàn thể và đông đảo giáo dân.

Đức Thánh Cha xin các Đức Giám Mục cho ngài biết lòng sùng kính Đức Mẹ lên trời của hàng giáo sĩ, giáo dân của giáo phận các ngài và xin các ngài theo sự khôn ngoan, xét đoán thế nào về việc tuyên tín.

Ngày 30-10-1950, Đức Thánh Cha gửi tông thư cho Cơ Mật Viện, loan báo vào ngày mồng 1 tháng 11 năm 1950, một biến cố sẽ là niềm vui lớn lao cho toàn thế giới Công giáo. Đó là nhờ ơn soi động và sự trợ lực của Thiên Chúa, ngài sẽ tuyên tín  Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.

Một tia sáng mới sẽ bừng sáng trên vầng trán của Mẹ mà từ xa xưa, qua các thời đại, Giáo Hội cùng với các Giáo phụ, tiến sĩ và các nhà thần học vẫn tin tưởng mộ mến và sùng kính Mẹ lên trời cả hồn xác.

Đức Thánh Cha cũng hỏi ý kiến Cơ Mật Viện về việc ngài sẽ long trọng tuyên tín Mẹ Hồn Xác Lên Trời như một chân lý đã được Thiên Chúa mặc khải.

Sau khi đã biết ý kiến tích cực đồng thuận, Đức Thánh Cha tỏ lòng hoan hỉ được các Hồng Y, Giám Mục đồng tâm nhất trí với ngài để chứng minh điều Giáo Hội vẫn tin tưởng, mộ mến và giảng dạy.

  1. Ban hành Thông điệp “Munificentissimus Deus”

Ngày mồng 1 tháng 11 năm 1950, Đức Giáo Hoàng Piô XII ban hành Thông điệp  “Munificentissimus Deus”, long trọng định tín Mẹ Maria linh hồn và xác lên trời là một tín điều buộc mọi người phải tin.

Đại lược thông điệp bất hủ này là:

Sau khi chúc tụng lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa đã yêu thương quan phòng làm êm dịu những khổ đau, đem lại niềm an vui cho các dân tộc, Đức Thánh Cha nêu cao sự kiện ơn Chúa thương, dù giữa thời buổi nhiều người sai lạc chân lý và nhân đức, vẫn có nhiều cách biểu lộ đức tin, lòng sùng mến Mẹ Maria và những con cái Mẹ vẫn được khuyến khích chiêm niệm những đặc ân của Mẹ. Thật vậy, từ muôn đời, Thiên Chúa đã đặc biệt yêu thương Mẹ và rồi ban cho Mẹ dạt dào những đặc ân mà Giáo hội nhận biết và khám phá ra. Nhưng thời đại của chúng ta đã được dành riêng để chiêm ngưỡng đặc ân Mẹ hồn xác lên trời.

Sau đó, Đức Thánh Cha lược qua tiến trình tín lý này qua đức tin của Giáo Hội, qua Phụng vụ, các Giáo phụ, các nhà thần học hằng tin tưởng Mẹ thụ thai, hạ sinh và nuôi dưỡng Chúa Kitô, thì sau cuộc đời này, Mẹ cũng được kết hợp với Chúa cả hồn và xác. Và Mẹ đã cùng với Chúa Kitô chiến thắng địch thù hoả ngục, thì Mẹ cũng được cùng với Chúa, khải hoàn vinh quang.

Đức Thánh Cha cũng kể qua cuộc chuẩn bị của ngài. Và ngài hy vọng rằng việc ngài định tín sẽ đem lại lợi ích lớn lao cho thế giới quay về với Thiên Chúa Ba Ngôi, cho giáo dân thêm lòng sùng mến Mẹ hơn, hiểu biết giá trị đời sống con người và mục đích cao siêu của linh hồn và xác. Sau hết, đức tin vào Mẹ hồn xác lên trời sẽ làm thêm vững mạnh đức tin của chúng ta vào vinh phúc mai sau.

  1. Định Tín

Tín điều Mẹ Maria đầu thai vô nhiễm do Đức Piô IX tuyên tín năm 1854, đã là một viên bích ngọc rực sáng trên triều thiên của Mẹ, và là một luồng sáng rọi chiếu vào tín lý Mẹ lên trời cả hồn xác đã loé sáng lên qua bao thế kỷ, để ngày nay, bừng sáng lên thành tín điều, thêm một viên hoàng ngọc trên triều thiên vinh quang của Mẹ.

Do đó, Lễ Các Thánh ngày mồng 1 tháng 11 năm 1950, tại Quảng Trường Thánh Phêrô, Rôma, trước 40 Hồng y, 500 Tổng Giám mục và Giám mục, hàng trăm đại diện chính quyền các quốc gia, hàng ngàn linh mục tu sĩ nam nữ và hơn 700,000 dân chúng, dưới bầu trời tươi sáng, Đức Thánh Cha Piô XII sốt sắng cất tiếng trong máy vi âm, ngân vang khắp Quảng Trường Thánh Phêrô, vọng vang vào Đền Thờ chật ních hơn 80,000 dân chúng, vang xa khắp hoàn cầu, vang lên tới cung trời cao thẳm, những lời trịnh trọng tuyên tín:

“Do uy quyền của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, của hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, và với thẩm quyền của Ta, Ta phán quyết, tuyên ngôn, và định tín là tín điều đã được mạc khải rằng: Đức Maria, Mẹ Vô Nhiễm của Thiên Chúa trọn đời đồng trinh, sau cuộc sống trần gian này, đã được phúc vinh quang Thiên đàng cả hồn và xác. Nếu ai cả dám tự tình chối bỏ hay nghi ngờ điều Ta đã định tín, thì họ phải biết rằng họ hoàn toàn phản bội đức tin Công giáo của Thiên Chúa”.

Đức Thánh Cha vừa dứt lời, thánh ca Te Deum do tất cả mọi người trong Quảng Trường Thánh Phêrô ca lên hùng tráng hoà nhịp với những tiếng chuông trầm hùng của Đền Thánh Phêrô và của 400 đền thờ khắp thành Rôma, như cùng với toàn thể thần thánh trên trời, hân hoan reo mừng chúc tụng ngợi khen Mẹ vinh quang của Thiên Chúa, của Giáo Hội và của toàn thể loài người.

 

  1. LỊCH SỬ PHỤNG VỤ

Đầu tiên, Giáo Hội Đông Phương thành lập lễ tôn vinh Mẹ Thiên Chúa tại Giêrusalem sau Công đồng Êphêsô năm 431, và gọi là “Ngày của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa”.

Năm 380, giáo đoàn Antiôkia, và đầu thế kỷ VI, Giáo hội Đông Phương gọi là “Lễ Mẹ ly trần”.

Năm 600, hoàng đế Maurice ra sắc lệnh mừng lễ này khắp nước Byzantine.

Khi quân Ba tư xâm chiếm Trung đông, các đan sĩ chạy sang Rôma năm 650, đem theo lễ này sang và đổi là “Lễ Mẹ Lên Trời” và mừng vào ngày 15 tháng 8.

Rồi từ Rôma, lễ này được lan đến Milan và Tây Ban Nha.

Đức Thánh Cha Sergiô I tổ chức một cuộc rước long trọng sùng kính Mẹ lên trời.

Thế kỷ VIII, lễ này lan sang Anh và Đức như Hội Đồng Giám Mục Áo tại Salzburg xác nhận, và sang Pháp do Hội Đồng Giám Mục Pháp tại Mayenne.

Dần dần, lễ này được lan tới tất cả các nước khắp thế giới.

Đức Giáo Hoàng Lêô IV qui định lễ Mẹ Lên Trời có tuần tám ngày, và Đức Giáo Hoàng Nicolas I cho biết từ lâu, lễ Mẹ Lên Trời có lễ Vọng ngày áp.

Thế kỷ thứ XIII, lễ Mẹ Lên Trời còn có ngày chay trước lễ và là lễ long trọng nhất các lễ Đức Mẹ.

Thế kỷ XVI, theo nhà thần học Suarez, lễ này đặc biệt hơn mọi lễ Đức Mẹ, vì bày tỏ cho chúng ta thấy vinh quang, phần thưởng và sự khải hoàn của Rất Thánh Trinh Nữ.

Thời Trung Ccổ, lễ Mẹ Lên Trời là ngày làm phép mùa màng và các hoa trái đầu mùa.

Năm 1950, lễ Mẹ Lên Trời có tầm quan trọng trong khắp Giáo hội do Đức Giáo Hoàng Piô XII định tín “Mẹ Maria lên trời cả hồn và xác” và qui định thành Lễ Trọng đặc biệt trong khắp Giáo hội với luật buộc mọi người tham dự Thánh lễ.

Năm 1970, Phụng vụ qui định lễ Mẹ lên trời là một lễ Đức Mẹ duy nhất có lễ Vọng vào chiều ngày 14, trước chính ngày lễ 15 tháng 8.

 

III. Ý NGHĨA PHỤNG VỤ

Mẹ Maria hồn xác lên trời là biến cố sau cùng trong mầu nhiệm đời sống Đồng công Cứu chuộc của Mẹ đặc biệt liên đới với mầu nhiệm Nhập Thể Cứu thế của Chúa Giêsu, Con Mẹ.

Vì Mẹ đã chịu thai và hạ sinh Chúa Giêsu, thì sau khi về trời vinh quang, Chúa Giêsu cũng đưa Mẹ vào phúc vinh quang cùng với Người.

 Mẹ đã cho thân xác Chúa sự sống nhân loại, thì đáp lại, Chúa cũng cho thân xác Mẹ sự sống trường sinh vinh quang.

 Do đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, thân xác trinh trong của Mẹ được thoát án lệ của tội Nguyên Tổ, mà được sống lại và lên trời cùng với linh hồn trong sáng của Mẹ.

 Biến cố Mẹ lên trời hồn xác hoàn thành sự thánh thiện và huân nghiệp của Mẹ, là niềm ủi an và hy vọng tràn trề của chúng ta, là khởi đầu và là hình ảnh Hội Thánh sẽ được thành toàn trên Nước Trời.

 Hồn Xác Mẹ lên trời vinh quang, được Chúa Ba Ngôi tôn phong làm Nữ Vương trời đất và làm Đấng Trung Gian ban phát mọi ơn lành cho chúng ta.

Đặc ân Mẹ Lên Trời vinh quang chung qui mọi đặc ân của Mẹ và là cùng đích trót cuộc sống, sứ mạng và huân công của Mẹ. Lễ Mẹ Lên Trời vinh quang chung kết mọi lễ tôn vinh Mẹ, nên là một lễ trọng thể và là lễ luật buộc.

Đặc ân Mẹ lên trời gồm nhiều điều kỳ diệu:

– Mẹ chết êm ái, không chút đớn đau,

– Mẹ phục sinh, không bị hư thối,

– Mẹ lên trời hiển vinh.

 

  1. Ý NGHĨA LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ

Bài đọc I: Khải huyền 11:19; 12:1-6, 10

Tác giả sách Khải huyền mô tả cuộc tranh hùng giữa thiện và ác, giữa dòng dõi con Rồng hoả ngục và dòng dõi người nữ là Mẹ Maria.

Mẹ được hình dung là một mỹ nữ mặc áo mặt trời như kiểu Thiên Chúa thường cho người phụ nữ ăn mặc (xem Kn 3:21; Mt 6:30) nghĩa là Thiên Chúa cho Mẹ mặc áo vinh quang tức là ánh sáng rực rỡ nhất là mặt trời.

Mẹ chân đạp mặt trăng. Mặt trăng khi tròn khi khuyết, tượng trưng sự đổi thay mà Mẹ không bị biến đổi theo thời gian, theo tứ thời bát tiết vì Mẹ làm chủ như đạp trên tất cả.

Đầu Mẹ đội một triều thiên mười hai ngôi sao. Các ngôi sao ở trên trời cao (xem G 22:12) tức là Mẹ làm Nữ Vương số đông dân chúng đầy đủ như mười hai chi tộc Israel. Triều thiên tượng trưng sự vinh thắng của Mẹ.

Tất cả điều lạ, là hình ảnh Khám giao ước mà Thiên Chúa dùng để ở cùng dân Người, và Người ở trong đó như ở trong Đức Trinh Nữ Maria.

Mỹ nữ đang mang thai và đã sinh một con trai. Con trai đây là Đức Kitô, là Đấng Thiên Sai mà Thánh vương Đavid đã tiên báo trong Thánh vịnh 2 và 110.

Con Rồng lớn màu đỏ là sức mạnh của thần dữ, không thể tiêu diệt Con Trai đó. Giáo Hội đã trải qua biết bao thời kỳ đẫm máu, nhưng quỉ hỏa ngục cũng không phá nổi (x. Mt 16:18).

Thiên Chúa sắp sẵn cho mỹ nữ một nơi trong sa mạc, nghĩa là Chúa đưa Giáo Hội vào nơi gian nan thử thách (x. Đnl 8:2). Giáo Hội gặp nhiều thử thách, nhưng Giáo Hội vẫn đứng vững.

Con trẻ được cất bổng lên ngai Thiên Chúa, nghĩa là Chúa Kitô sẽ được phục sinh.

Sau hết, là bài ca chiến thắng: ơn Cứu độ, quyền năng và vương tước của Thiên Chúa đã toàn thắng và mọi uy quyền đều thuộc về Chúa Kitô.

Bài đọc II: 1 Côrintô 15:20-26

Cuộc chiến thắng thần dữ trong bài đọc này, trở thành một chiến thắng thần chết.

Sự sống lại của Chúa Kitô là mầm mống sự sống lại của chúng ta và là chân lý căn bản. Thiếu chân lý này, đức tin của chúng ta sẽ trở nên hão huyền (16-19).

Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa của mọi người đều phải chết. Hoa trái đầu mùa hiến dâng Thiên Chúa tượng trưng sự hiến thánh mùa màng cho Người (x. Đnl 26:1-11). Hoa trái đầu mùa còn là dấu hiệu bảo đảm mùa màng đầy đủ, tức là sự phục sinh của chúng ta trong vinh quang.

Sức mạnh thần dữ trong thế giới sẽ bị bại hoại và địch thù cuối cùng bị hủy diệt là thần chết.

Cuộc chiến thắng thần chết, chính là sự chiến thắng của Chúa Kitô phục sinh mà chúng ta sẽ được sống lại để cùng với Mẹ chia sẻ sự phục sinh của Người.

Phúc âm: Luca 1:39-56

Thánh truyện Mẹ Maria thăm viếng bà Elizabeth có nhiều điểm rất ý nghĩa cho lễ Đức Mẹ Lên Trời.

Bà Elizabeth ca ngợi Mẹ Maria là diễm phúc hơn hết mọi phụ nữ, là vì bà nhận biết Mẹ là kẻ đã tin mọi điều Chúa truyền phán cho Mẹ sẽ thành hiện.

Lời ca ngợi của bà Elizabeth cũng giống như lời ca khen của một phụ nữ: “Phúc cho lòng dạ cưu mang Ngài và vú Ngài đã bú”  (Lc 11:27-28) mà Giáo Hội trích đọc trong Lễ Vọng Mẹ Lên Trời.

Đáp lại lời ngợi khen, chúc phúc của bà Elizabeth, Mẹ Maria tuyên tụng Chúa Toàn Năng đã làm cho Mẹ những điều cao cả, là vì Chúa đoái nhìn đến phận hèn của nữ tỳ của Người. Do đó, Mẹ nhận biết từ đây mọi thế hệ sẽ khen Mẹ có phúc.

Những điều cao cả nhất Chúa đã làm cho Mẹ, là một điều chứng tỏ sự quan phòng của Người:

– Hiền ái đối với những kẻ kính sợ Người,

– Cho no phỉ những người nghèo đói,

– Làm tang tóc bè lũ trí lòng kiêu căng,

– Trung thành lời hứa với các tổ phụ.

Trong dịp thăm viếng bà Elizabeth, Đấng toàn năng đã làm nhiều điều trọng đại cho Mẹ.

 

L.m. Phêrô, CMC

TƯƠNG QUAN MẬT THIẾT GIỮA CÁC THÁNH VỚI THÁNH CẢ GIU-SE

Trong gia đình Thánh Gia Na-da-rét có muôn loài hoa nhân đức đua nhau hé nở khoe sắc tươi xinh tựa như chốn lạc viên Thiên đường.

Như bao ong bướm bay đi tìm mật trên những nhành hoa thắm, hút hương hoa từ nhuỵ bông thế nào, thì với ý nghĩa nào đó, các Thánh nhân cũng hằng chạy đến múc lấy mật ngọt từ vườn hoa nhân đức Thánh Gia. Còn tâm hồn các ngài chắc hẳn ở nơi lạc viên ấy!

Đối với chư Thánh nam nữ, trong gia đình Na-da-rét, Đức Giê-su chính là đích điểm, còn Mẹ Ma-ri-a là người trung gian gần nhất để các ngài chạy đến với Con Mẹ. Vì thế, không cần nói quá nhiều, chúng ta cũng biết được các Thánh hằng khao khát dâng cả con tim, tâm trí cho Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a.

Tuy nhiên, nếu như vậy thì thiếu đi một người trụ cột gia đình Na-da-rét, là bạn trăm năm Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, là dưỡng phụ của Đức Giê-su. Trong mọi biến cố cuộc đời gia đình Thánh gia, Thánh Cả Giu-se đã hết lòng quan tâm trìu mến, tận tâm nâng đỡ, hỗ trợ, chăm sóc hai mẹ con; đặc biệt đứng trước những tình cảnh khó khăn, lánh nạn sang xứ người Ai-cập trong đêm, ở nơi ấy vừa phải vất vả mưu sinh, lo toan cho gia đình, vừa đối diện với rào cản văn hoá, ngôn ngữ, đồ ăn thức uống, v.v…Rồi đến khi được báo tin trở về cố hương Na-da-rét, thay vì chọn đường ngắn nhất, nhưng vì ác vương Hê-rô-đê, đành phải tiến bước trên hành trình dài hơn, gian nan hơn. Đặt chân tới Na-da-rét, một làng quê khô cằn, nghèo khó, Thánh Cả Giu-se bắt đầu gầy dựng lại, ngõ hầu ổn định cuộc sống mưu sinh hằng ngày, chăm sóc, dạy bảo con trẻ Giê-su, đồng thời đỡ đần Mẹ Ma-ri-a vượt qua mọi gian nan, vất vả thường nhật, mà ba đấng luôn luôn sống trong sự bình an, yên hàn và hạnh phúc. Nói đến đây, chúng ta biết rằng: Chỉ sau Đức Mẹ, Thánh Giu-se vượt trổi hơn các Thánh nam nữ, và ngài được tôn kính đặc biệt trên trời cũng như dưới đất.

Tương tự như chúng ta, các Thánh cũng đã từng trải qua biết bao nhiêu nỗi yếu hèn, đam mê của cải vật chất, danh giá, tài sản, bị rơi vào cạm bẫy cám dỗ, và chắc hẳn các ngài đau đớn khôn tả, nhưng luôn nỗ lực, kiên vững vượt qua nhờ ơn Chúa và sự hoán cải tận căn. Còn Thánh Giu-se lại là trường hợp quá ư đặc biệt. Như Kinh Thánh thuật lại, ngài là người công chính, khiêm nhường vô song, và hết mực thanh khiết như đoá hoa huệ trắng tinh ban sơ. Có lẽ vì vậy, tâm hồn các Thánh và chúng ta tự khắc được lôi cuốn, tháp nhập vào chính con người của ngài.

Thánh Gio-an Kim Khẩu đã từng thốt lên rằng: “Thánh Giu-se là dưỡng phụ của Đức Giê-su. Trong thời gian dưới thế, Con Thiên Chúa hằng vâng nghe lời ngài thế nào, thì giờ đây trên thiên đàng, Con Thiên Chúa cũng luôn đáp ứng mọi lời khẩn cầu của Thánh Giu-se như vậy. Còn tất cả những ai yêu mến, tôn kính ngài chắc chắn sẽ được hạnh phúc viên mãn, tròn đầy”. Hơn thế, Thánh I-si-đô-rô với lòng sùng kính Thánh Cả, xác quyết trước mọi người: “Thưa anh chị em, hãy yêu mến Thánh Giu-se cách đặc biệt, vì lẽ ai tôn kính ngài, chắc chắn sẽ được nhận lãnh vô số ơn lành từ Thiên Chúa”. Đối với Thánh I-nha-xi-ô Lô-yo-la, Đấng sáng lập Dòng Tên, đã không ngần ngại khẳng định rằng: “Thánh Giu-se là gương mẫu bậc nhất cho mọi Ki-tô hữu”. Nhớ lại khi còn sống tại thế, mỗi lần gặp khó khăn, hoạn nạn, đau khổ, v.v…, ngài luôn viết lời khẩn cầu vào mảnh giấy nhỏ, rồi đặt dưới chân tượng Thánh Giu-se, và cầu nguyện đêm ngày. Hầu hết, các Thánh nhân có lòng tôn kính Thánh Cả, đều để lại lời lẽ vàng son cùng cảm nghiệm quý giá qua nhiều tác phẩm thiêng liêng, đạo đức như sách Tuần Cửu Nhật kính Thánh Giu-su của Đấng sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế, Thánh Al-phong-xô đờ Ri-gô-ri-ô. Và sau đó, chẳng ai ngờ tới, việc đạo đức bình dân này đã lan toả khắp nơi trong các cộng đoàn giáo xứ, hội dòng, nơi thành thị cũng như làng quê xa xôi.

Nói sao cho hết lòng tôn kính vô song của các Thánh đối với Thánh Cả Giu-se! Lúc còn sinh thời, Thánh Phan-xi-cô Sa-lê-zi-ô đã xưng mình là ‘tôi tớ của Thánh Giu-se’. Một lần nọ, khi ngài dâng lễ tại Nhà thờ Chính Toà Ly-on, ngôi thánh đường được cung hiến cho Thánh Cả Giu-se, ngài trở nên chóng mặt đến nỗi muốn ngã quỵ dưới chân bàn thờ. Tình cờ cha phụ tá đi ngang qua nhà nguyện thấy, liền khấn xin Thánh Giu-se cứu giúp ngài. Khi được ơn khoẻ trở lại, Thánh Phan-xi-cô Sa-lê-zi-ô thầm thĩ rằng: “Từ nay, con sẽ trở thành tôi tớ dâng kính Thánh Cả mỗi ngày”. Về sau, ngài lập dòng các sơ Thăm viếng, mỗi khi hướng dẫn đời sống thiêng liêng cho các chị em, ngài luôn luôn nói về tính cần thiết đắc thủ lòng tôn kính Thánh Giu-se hằng ngày.

Các Thánh tỏ lộ sự yêu mến đối với Thánh Cả theo cách thức khác nhau và riêng biệt ở mỗi thời đại; tuy nhiên trong số ấy, Thánh Tê-rê-sa A-vi-la lại có lòng kính yêu Thánh Giu-se vượt trội, đến độ ngài gọi Thánh Cả là ‘cha’. Một câu nói mãi tới giờ vẫn còn vang vọng, phổ biến: “Cha Thánh không bao giờ để ai cầu khẩn ngài về tay không cả!” Trong cuộc đời của Thánh nữ, ngài chẳng quen biết nhiều người, nên mỗi lần gặp hoạn nạn, khó khăn, ngài đều chạy đến van xin Thánh Cả hướng dẫn, giúp đỡ giải quyết mọi chuyện. Tục ngữ Việt Nam có câu “mẹ nào con nấy”. Vì thế, noi gương mẹ thiêng liêng Tê-rê-sa A-vi-la, Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su đã hết lòng sùng kính Thánh Cả Giu-se. Trong cuốn sách thuật lại quá trình điều tra hồ sơ phong Thánh của Thánh Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su, có đoạn viết như sau:

“Thánh nữ đã hết lòng kính mến và tôn sùng Thánh Cả Giu-se. Trước khi bước vào tu viện dòng Kín, ngài đã trang hoàng căn phòng nhỏ của mình với tượng Thánh Giu-se, và mỗi ngày hướng về tượng Thánh, đọc kinh khấn xin giữ trọn lòng khiết tịnh. Đến khi được chính thức vào tu viện, Thánh nữ noi gương mẹ thiêng liêng của mình là Thánh Tê-rê-sa A-vi-la, hằng đào sâu lòng tôn kính Cha Thánh Giu-se. Đặc biệt, mỗi lần rước lễ, ngài đều khấn xin Thánh Giu-se giúp mình trở nên xứng đáng rước Chúa Giê-su vào lòng cách cung kính nhất. Có lúc, một chị em hỏi ngài rằng: “Khi dùng bữa, Sơ thường suy nghĩ điều gì vậy? Sơ ấp ủ thực hiện điều gì chăng?” Thánh nữ liền đơn sơ trả lời: “Em luôn nghĩ như một trẻ thơ thôi. Khi dùng bữa, em thường tưởng tượng em đang ăn cùng với gia đình Thánh Gia. Giả như cá hôm ấy bị mặn chát, thức ăn không được ngon, thì em dâng cho Thánh Giu-se, còn đồ ngọt và hoa quả thì em dâng cho Mẹ Ma-ri-a, những lúc lễ mừng tiệc tùng thức ăn ngon thì em dâng cho Chúa Giê-su”. Hơn nữa, mỗi khi tĩnh tâm và trong giờ nguyện, ngài cầu nguyện sốt sắng với Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a thế nào, thì cũng hết lòng khẩn cầu với Thánh Cả Giu-se như vậy. Vài tuần trước khi ngài từ giã cõi đời, ngài cứ ngân nga, tự sáng tác: “Ôi, lạy Thánh Giu-se khiết trinh! Trước mắt con, hiện ra tỏ tường cuộc đời ngài nơi làng Na-da-rét thân thương. Ôi Thánh Cả Giu-se cao vời khôn ví!”. Rồi ngài quay sang nói với Sơ đang chăm sóc mình: “Chị ơi, tâm hồn em giờ đây được tăng thêm sức. Em được nghiệm thấy tường tận cuộc đời dương thế của Cha Thánh Giu-se, một cuộc sống hoàn toàn đơn sơ, giản dị đến lạ thường tại làng Na-da-rét”.

Lòng kính mến Thánh Giu-se cách lạ lùng của Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su là thế. Các Thánh nam nữ khi còn sống đã chiêm ngắm cuộc đời thầm lặng, mộc mạc, nhưng tín thác trọn vẹn vào Thiên Chúa của Thánh Giu-se là vậy. Còn chúng ta, không biết mau mau chạy đến lạc viên Thánh Gia, mà múc lấy mật ngọt nhân đức, đặc biệt, cây hoa huệ trắng tinh vẹn tuyền, hoa trái tốt lành là Thánh Cả Giu-se nữa?

 

Lm. Xuân Hy Vọng