ÔNG CHA MÀ CŨNG XANH, TRẮNG, VÀNG, ĐỎ, TÍM…

Một thầy giáo ăn mặc bảnh bao đến thăm một ông linh mục ở tuổi “quý vì hiếm”.

– Chào cha, con muốn hỏi cha vài chuyện.

– Chuyện gì mà vô đề long trọng thế?

– Con có nhiều bạn bên đạo Công giáo. Tụi nó mời con đi lễ nhiều lần. Con thấy lễ bên Công giáo rất ấn tượng…

– Ví dụ cụ thể!

– Bàn thờ trang trí rất đẹp. Ca đoàn hát rất hay. Lớn bé già trẻ đều đọc kinh nhịp nhàng như nhau. Khi ngồi, khi đứng, khi quỳ… ai nấy đều rập ràng. Đặc biệt là có một lúc cả nhà thờ im lặng đến đứng tim. Lúc đó mà con ruồi bay, thì cũng nghe thấy tiếng cánh vẫy. Nhưng…có một cái con không thích tí nào.

– Cái gì vậy?

– Con nói cha đừng giận nha.

– Bảo đảm không giận, không buồn, mà… còn thương hơn nữa.

– Các cha là đàn ông mà mặc áo lễ lòe xòe như bươm bướm, lại còn diêm dúa xanh trắng đỏ tím vàng. Như vậy có giống đồng bóng không cha?

– Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng áo lễ của chúng tôi là diêm dúa, là đồng bóng. Hôm nay nghe anh nói, tôi mới giật mình và bắt đầu suy nghĩ.

Suy nghĩ về màu sắc

Theo ý kiến của dân gian, thì vũ trụ có năm màu, gọi là ngũ sắc: xanh, trắng, đỏ, tím, vàng. Mỗi màu cho ta một cảm giác suy tư.

Màu xanh là màu bao trùm không gian và thời gian. Về không gian thì: trời xanh, biển xanh chiếm ba phần tư diện tích trái đất, núi xanh, đồng xanh, vườn xanh. Về thời gian, thì màu xanh hiện hữu qua trọn bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông.

Màu xanh tạo cảm giác thoải mái, dịu mát, thần kinh bớt căng thẳng. Vì thế màu xanh được coi là màu hòa bình và hy vọng.

Vì màu xanh có nhiều quá và trải dài triền miên qua bốn mùa, nên nó không được tôn quý cho lắm. Có hiếm thì mới quý.

Các màu: trắng, đỏ, tím, vàng chỉ xuất hiện rất ít trong không gian. Màu đỏ của mặt trời chỉ xuất hiện trong một khoảnh khắc ngắn ngủi vào lúc hừng đông và hoàng hôn.

Các màu sặc sỡ chỉ xuất hiện vào mùa Xuân. Hoa đua nhau nở: hoa đỏ, hoa vàng, hoa tím. Nhưng kiếp hoa sớm nở chiều tàn, nên các màu sặc sỡ ấy không tồn tại lâu dài.

Màu đỏ kích thích thần kinh mạnh nhất và là màu của máu. Do đó màu đỏ tượng trưng cho chiến tranh, cho hy sinh vì đại nghĩa, cho sức mạnh.

Màu trắng vừa vui vừa trong sạch. Vì thế nó tượng trưng cho sự trinh khiết của trinh nữ và của tâm hồn liêm khiết thánh thiện.

Màu vàng rực rỡ làm chói mắt, nói lên tính cao sang quyền quý. Vì thế mà có từ “ngai vàng”, “hoàng cung”.

Màu tím là màu của buổi hoàng hôn. Màu gợi buồn. Màu giao ban giữa ngày và đêm.

Chính vì thế màu của áo lễ muốn gợi lên một cảm giác, muốn nói lên một ý nghĩa.

Đạo chúng tôi có hai biến cố ấn tượng nhất chi phối hết cả mọi sinh hoạt trong năm. Đó là Chúa Giáng Sinh và Phục Sinh. Vì vui nên áo lễ tôi mặc là áo trắng. Hứng lên thì mặc áo lễ vàng (không buộc) để đưa niềm vui lên tột điểm.

Hết hai mùa sặc sỡ rồi thì trở về mùa bình thường, gọi là mùa Thường Niên. Cũng như trong thiên nhiên, màu xanh là màu thường xuyên, thì trong Phụng vụ, khi không có gì đặc biệt, thì gọi là mùa thường, hay mùa Thường Niên. Dĩ nhiên áo lễ thời điểm này phải là màu xanh, màu thường xuyên, mặc không đặc biệt.

Ngoài hai đại lễ Giáng Sinh và Phục Sinh thì cũng có những kỷ niệm nho nhỏ.

Kỷ niệm ngày một vị thánh tuẫn đạo. Hôm ấy áo lễ đỏ nói lên tính hy sinh cao cả của người sẵn sàng chết vì đức tin.

Lễ Chúa Thánh Thần thì phải mặc áo lễ đỏ vì khi Ngài xuất hiện trong lễ Ngũ Tuần, thì có một khối lửa đỏ bập bùng trên trần nhà.

Kỷ niệm ngày một vị thánh đồng trinh, một vị thánh có đời sống liêm khiết, thì áo lễ màu trắng là hợp tình, hợp lý.

Ngày an táng hoặc ngày cầu hồn cho một tín đồ, thì màu tím là tuyệt vời.

Suy nghĩ về hình dáng áo lễ

Anh chê áo lễ của chúng tôi là lòe xòe như bươm bướm không phù hợp với đấng nam nhi, thì dường như tôi phải chịu thua anh. Tôi vẫn khẳng định rằng cái gì của nam nhi cũng phải nói lên tính “Đội đá vá trời xanh”. Y phục của nam nhi phải vuông vức, cứng cáp. Đối với đàn ông thì bộ áo vét của Âu Tây là tuyệt vời. Cái khăn đóng của Việt Nam là phá đám, là đánh chết vầng trán thông minh của nam nhi. Cái áo dài mà đàn ông Việt Nam mặc ngày xưa không những không đẹp mà còn làm cho phái khỏe “thộn” ra một cách buồn cười.

Tôi thua anh, nhưng cũng xin anh thông cảm với tôi, vì những lý do sau:

Ban đầu không hề có bản thiết kế áo lễ. Áo lễ ban đầu là áo đẹp và đứng đắn của thời ấy. Trong khi y phục đẹp và đứng đắn ấy biến dạng ở ngoài đời, thì vẫn giữ y nguyên trong đạo. Áo đời thường bỗng dưng trở thành áo lễ.

Những kiểu áo lễ trong đạo tồn tại hằng nhiều thế kỷ. Thay đổi không dễ. Vào thập niên bảy mươi, Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng đã trao cho các chuyên viên tìm ra một thiết kế áo lễ có tính văn hóa Việt Nam. Đã có vài thử nghiệm, nhưng không tạo được sự đồng thuận rộng rãi. Người chuyên môn khảo cứu về văn hóa dân tộc cũng chưa có uy tín đủ.

Vì văn hóa hành trình nên y phục nào cũng chỉ tồn tại một thời gian ngắn, hoặc rất ngắn. Áo lễ thì không dễ thay đổi thường xuyên nên không thể tránh được cái gọi là lỗi thời.

Ngoài đời cũng đành chịu số phận như thế. Ai cũng bảo rằng người phụ nữ Việt Nam mặc áo dài là tuyệt vời. Nhưng nữ công nhân nhà máy dệt không thể mặc áo dài được. Nữ sinh Việt Nam mặc áo dài đội nón bài thơ là trên tuyệt vời. Nhưng khi đi xe gắn máy thì phải đội mũ bảo hiểm, khiến cái đầu nữ nhi cứng ngắc như đầu nam nhi. Đành phải chịu vậy thôi.

Anh thông cảm với áo lễ của chúng tôi nhé.

– Vâng, con cám ơn cha, nhờ có cha giải đáp, cắt nghĩa mà con hiểu được màu Phụng vụ trong đạo Công Giáo của cha, kính chúc cha sức khỏe, bình an và thật nhiều ơn lành của Chúa.

Tạp bút của Lm. Piô Ngô Phúc Hậu

MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI

Sau khi Chúa Giêsu lên trời, Mẹ Maria còn sống ở trần gian được bao lâu? Chúng ta không biết. Có lẽ mười lăm năm hoặc hai mươi năm. Cuộc đời Mẹ kết thúc ở Giêrusalem hay ở Ephêsô? Các sử gia còn đang tranh luận. Ở Giêrusalem thánh đường Mẹ sinh thì giữ được kỷ niệm của Mẹ; ở Ephêsô, ngôi nhà của Mẹ vẫn là nơi cầu nguyện mặc dầu gặp vô số ngãng trở bên ngoài.

Điều cần thiết ở đây không phải là biết nơi chốn và thời hiệu Mẹ sinh thì, nhưng là xác tín rằng Mẹ đã được hoàn toàn chia sẻ sự phục sinh của Con Mẹ, và bây giờ Mẹ đang ở trên trời với Ngài, cả hồn lẫn xác, nghĩa là tất cả con người Mẹ. Chúng ta thường nghe thấy người ta hỏi: Mẹ có thể chết được không? Mẹ có phải chết không? Và Mẹ có thật sự chết không? Người ta thắc mắc như thế là vì người ta thấy Mẹ được dựng thai vô nhiễm nguyên tội, và Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Nhưng đời sống hay chết của Mẹ đã biến đổi thế nào thành đời sống bất tử. Đây là một mầu nhiệm đối với chúng ta. Nhưng điều này lại có liên quan đến chúng ta, vì tất cả chúng ta đều được mời gọi tham dự vào sự sống huyền nhiệm ấy.

Thiên thần cũng như loài người không diễn tả nổi nỗi vui mừng của Mẹ Maria ngày mà Con Mẹ rực rỡ trong hân hoan và vinh hiển, đến rước Mẹ về trời để tất cả con người Mẹ được tham dự vào ánh sáng Phục Sinh. Mẹ không chỉ tham dự trong những giây phút mau qua, nhưng Mẹ tham dự trong ánh huy hoàng vĩnh cửu của thiên đàng. Việc Mẹ hồn xác về trời chỉ có thể quan niệm được trong ánh sáng Phục sinh. Đây là một việc rất đơn giản, không giàn cảnh mà cũng không hoa mỹ. Bông hồng nhiệm rã cánh trần gian vào một buổi chiều, buổi sáng hoặc buổi trưa nào đấy, để khoe nở trong vinh quang và vui mừng của một đời sống không giới hạn.

Thiên đàng, những người được ưu tuyển không mất mát gì trong những đức tính của họ có liên hệ đến tâm trí. Trái lại, đời sống trần gian của họ càng nảy nở thành đời sống vĩnh cửu càng làm cho những phong phú của con tim họ khuếch trương ra cho đến vô hạn. Mẹ Maria ở trên trời, còn giữ lại tất cả những đức tính mà Mẹ đã biểu lộ ra trên mặt đất này, Mẹ giữ lại như thế để mưu cầu lợi ích cho chúng ta. Mẹ vẫn là Nữ tì cao cả, bao giờ cũng lo lắng cho Chúa Kitô và cho Nhiệm thể Ngài là Giáo hội. Càng gần gũi Thiên Chúa, Mẹ càng gần gũi chúng ta hơn.

Mẹ Maria có những đức tính nào? Thiết tưởng chúng ta nên biết những đức tính của Mẹ để noi gương Mẹ, và để bước theo con đường Chúa Kitô đã đi. Như chúng ta đã biết, và như Phúc Âm đã cho chúng ta thấy Mẹ Maria không phải là một phụ nữ ẩn dật và thiếu đức tính.

Khi thiên thần đến viếng thăm, Mẹ không bỡ ngỡ. Mẹ tranh luận một cách chân thành với thiên thần Gabriel như với một người thường. Khi Mẹ hiểu được điều Thiên Chúa muốn nơi Mẹ, Mẹ thưa Fiat, xin vâng với một vẻ đơn sơ kỳ diệu. Nơi Mẹ không có bóng dáng một sự khiêm nhu giã mạo. Mẹ không nói: “Tôi không xứng đáng, xin thiên thần chọn người khác xứng đáng hơn tôi”. Mẹ không cãi lại như Maisen: “Chúa hãy sai người nào Chúa muốn, nhưng đừng sai tôi”. (Xh 4.13).

Sau biến cố truyền tin, Mẹ vội vã đến thăm bà chị họ, và hát ca vịnh Magnificat. Mẹ đi để phục vụ, và Mẹ cũng không sợ phải sắn tay áo lên; Mẹ làm việc như một tôi tớ trong nhà. Dịp Giáng sinh, chính tay Mẹ quấn tã cho Con, và tiếp đón các mục đồng. Mẹ khoan khoái và dễ dãi với các mục đồng cùng các đạo sĩ. Mẹ không có mặc cảm. Cuộc hành trình sang Aicập không đặt thành vấn đề cho Mẹ. Hàng năm Mẹ lên Giêrusalem để mừng lễ. Trong đền thờ Mẹ không do dự, Mẹ cất tiếng lên giữa các tiến sĩ đáng kính. Ở Cana, Mẹ nhận thấy thiếu rượu và Mẹ đề nghị. Sức mạnh tâm hồn và lòng Mẹ yêu Con Mẹ đã được biểu lộ một cách lạ lùng khi Mẹ đứng trên đồi Calvario dưới chân thánh giá.

Thánh Bernardo nhận xét rằng trong Mẹ Maria:

“Đức khiêm nhường sâu thẳm không làm cho đức quảng đại mất mát một tí gì, và đức quảng đại không làm tổn hại đức khiêm nhường. Mẹ Maria thấp hèn trước con mắt Mẹ, nhưng lại quảng đại trong đức tin của Mẹ vào lời hứa. Tự nhận mình là nữ tì, nhưng Mẹ không hề nghi ngờ về ơn thiên triệu của Mẹ là tham dự vào mầu nhiệm lạ lùng, vào cuộc trao đổi kỳ diệu, và vào bí tích khôn dò (No 12 et 13).

Tất cả những đức tính Mẹ đã có dưới trần gian xưa kia, ngày nay Mẹ còn giữ lại nguyên vẹn trên thiên đàng. Chúng ta có thể tin tưởng vào Mẹ, chúng ta sẽ không bao giờ phải thất vọng. Tình yêu mà Con Mẹ đã yêu Mẹ dưới đất này, ngày nay cũng không hề phải nhạt. Chúa Giêsu vẫn còn yêu Mẹ và muốn chúng ta yêu mến Mẹ cũng như chính Ngài đang yêu Mẹ. Tất cả những vinh dự người ta tôn vinh người Mẹ cuối cùng sẽ dồn hết vào người con. Sau hết, Mẹ Maria được tất cả vinh quang đều do Chúa Giêsu.

Mẹ Maria đã đi trứơc để vạch đường chỉ lối cho chúng ta, và để cho chúng ta tin cậy Mẹ. Bước theo Mẹ, nhân loại chúng ta đang đi tới ánh sáng và tình yêu chân thật. Thành công của Mẹ chúng ta là một bằng cớ chứng tỏ rằng đời sống chúng ta, mặc dầu nặng nề và ô trọc, cũng đáng sống. Chúng ta có thể bước đi trong vui mừng và tin tưởng, vì chúng ta biết chúng ta đi về đâu. Mẹ chờ đợi chúng ta và ao ước chúng ta được ở gần Mẹ để cùng Mẹ hát ca vịnh Magnificat.

Đẵ hẳn, chỉ mình Chúa Kitô là trung gian; mình Chúa xin được Cha Ngài trên trời tỏ lòng khoan dung đối với chúng ta. Lời cầu nguyện của chúng ta bao giờ cũng được dâng lên Thiên Chúa nhân danh Chúa Kitô. Lời cầu nguyện này tất nhiên phải liên kết với lời cầu nguyện của Mẹ Maria. Thật là vinh hiển cho Chúa Giêsu nếu người ta biết cùng với Mẹ dâng lên Chúa những lời ngợi khen, và xin ơn. Chính Chúa Giêsu sẽ dâng những lời ngợi khen và xin ơn lên Cha Ngài, và sẽ được Cha Ngài sung sướng chấp nhận.

Việc Mẹ Maria làm trung gian không phải là một bổ khuyết cho việc Chúa Giêsu làm trung gian. Việc Mẹ làm trung gian rất hợp lý trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, và mầu nhiệm Giáo hội. Làm trung gian với Chúa và làm trung gian cho chúng ta đối với Mẹ Maria là việc qúa dễ dàng. Dầu phải cùng cực đến đâu đi nữa, chúng ta cũng đừng sợ Mẹ; nhưng hãy chạy đến với Mẹ; Chúa Giêsu Con Mẹ không từ chối Mẹ ơn nào, vì Mẹ chưa hề từ chối Chúa điều gì. Và Chúa Giêsu bao giờ cũng được Chúa Cha nghe theo.

Muốn hiểu một phần nào việc Mẹ Maria làm trung gian, thiết tưởng nên suy ngắm một cách cẩn trọng tín điều các thánh cùng thông công. Tất cả những lợi ích của chúng ta đều liên hệ đến các anh chị em chúng ta ở trên trời và dưới đất, vì những lợi ích này là chính những lợi ích của Thiên Chúa. Sự cao quang của Chúa Kitô và của Cha Ngài đã liên kết mật thiết vào định mệnh siêu nhiên của chúng ta. Sự Mẹ làm trung gian không phải là một cái gì thêm vào việc Chúa Giêsu làm trung gian, đây là việc làm trung gian được biểu lộ ra một cách thần tình.

Thi sĩ thần học Dante đã nhận thánh Bernardo làm người hướng dẫn trong tác phẩm Paradis (Thiên Đàng) của ông. Oâng được tiến cử đến tận ngai nữ hoàng trời đất, rồi người hướng dẫn cắt nghĩa cho ông hay “cả thiên đàng được Mẹ tổ chức thế nào”. Thánh Bernardo mời thi sĩ Dante hãy nhìn ngắm “Mẹ đã làm cho các thánh khác được vui mừng”, và hãy chiêm ngắm gương mặt giống Chúa Giêsu hơn hết, và chỉ ánh sáng gương mặt ấy mới cho ta thưởng ngoạn được Chúa Cứu Thế.

Các Giáo phụ đã nói nhiều về Mẹ Đồng Trinh Maria. Trong khi nghiên cứu mầu nhiệm Chúa Kitô, các ngài đã tìm ra được mầu nhiệm Mẹ Maria. Các Giáo phụ Đông phương cũng như Tây phương đều có nhiều nghi lễ. Lễ nghi của các Giáo hội Đông phương sung mãn hơn và thị vị hơn. Muốn hiểu được mầu nhiệm Mẹ Maria phải mất nhiều giờ và nhiều công. Một trong những phương thế vừa tầm tay mọi người và giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm của Mẹ là suy ngắm các mầu nhiệm Mân côi. Nghiên cứu về Chúa Kitô là tìm ra được Mẹ; nghiên cứu về Mẹ là tìm được Chúa Kitô.

Hình như có ba giai đoạn trong việc thành thực sùng kính Mẹ là: khẩn cầu, bắt chước và thân mật. Trong vấn đề này thiết tưởng lợi ích hơn hết là nên nghiên cứu đời sống những tôi tớ có tiếng của Mẹ Maria. Khi người ta yêu ai thì người ta luôn luôn giữ trong lòng tên gọi và kỷ niệm của người ấy. Người ta bắt đầu kêu cầu Mẹ vì người ta cảm thấy cần phải nên giống Mẹ. Vì thế người ta cố gắng bắt chước Mẹ. Thật ra, bắt chước Mẹ dễ hơn tất cả các vị thánh, vì khi còn sống Mẹ chỉ làm những việc nhỏ mọn; chính Thiên Chúa làm cho các việc nhỏ mọn ấy nên cao cả. Để bắt chước Mẹ, người ta cảm thấy cần phải hiểu về Mẹ nhiều hơn, người ta suy ngắm mầu nhiệm Mẹ, và người ta đọc tất cả những sách viết về Mẹ. Càng hiểu biết về Mẹ, người ta càng yêu mến Mẹ, và càng ao ước sống thân mật với Mẹ.

Sống thân mật với Mẹ là một niềm vui vĩ đại, là một con đường cao cả đưa đến Thiên Chúa. Với Mẹ Maria, đời sống sẽ tươi đẹp. Với Mẹ và trong Mẹ người ta nếm hưởng những phong phú khôn dò của Trái Tim Chúa Cứu Thế. Người ta không thể thực sự yêu mến Chúa Kitô mà không yêu mến Mẹ Ngài, và cũng không yêu tất cả những kẻ Ngài yêu. Mẹ Maria dẫn đưa chúng ta vào mầu nhiệm Giáo hội. Ai cho rằng mình yêu Chúa Giêsu, mà lại không yêu Mẹ Maria cũng như không yêu Giáo hội thì người ấy thiếu thành thực, vì Chúa Giêsu không bị chia lìa khỏi Giáo hội của Ngài.

Chỉ nhìn qua bên ngoài mà thôi, chúng ta cũng thấy lòng thành thực sùng kính Mẹ Maria đang triển nở trong thế giới ngày nay. Lòng thành thực sùng kính Mẹ là một dấu chỉ tuổi thanh xuân và mang lại niềm hân hoan. Cha Gabriel Mossier, tu sĩ khổ tu thuộc đan viện Chambarand, khi đề cập đến kinh nghiệm đã phát biểu như sau:

“Nếu người ta hiểu đựơc tất cả những lợi ích mà người ta được do tình yêu Mẹ Maria, thì sẽ không còn tội lỗi, không còn hỏa ngục, mà chỉ còn niềm vui mừng được phụng sự Thiên Chúa.

Ở Lộ-đức, thánh nữ Bernadetta đã nói: “Tôi nhìn Mẹ Maria hết sức tôi”. Vào những năm tháng cuối thời, cha Dom Chautard, Đan viện phụ Đan viện Sept-Fons đã tóm lược đường hướng của ngài tìm cầu Thiên Chúa trong câu này “Trao đổi ánh nhìn với Mẹ Maria”. Thánh nữ Teresa thành Lissieux thích sống trong tình thân mật của Thánh Gia, và cố gắng bắt chước đức đơn sơ của Mẹ Maria trong mọi công việc hằng ngày của Mẹ.

Tinh thần Mẹ Maria là một tinh thần dũng cảm vì là một tinh thần tình yêu. Thánh Ambrosio viết:

“Chớ chi linh hồn Mẹ Maria ở trong mỗi người để ngợi khen Thiên Chúa, và chớ chi thần trí Mẹ Maria cũng ở trong mỗi người để vui mừng hớn hở trong Chúa. (In Lc 2).

Với Mẹ Maria người ta làm được những việc cả thể vì người ta sống dưới ơn soi động của Chúa Thánh Thần và người ta không sợ thất bại.

Lòng thành thực sùng kính Mẹ đòi buộc người ta phải thực sự đi sâu vào tinh thần Mẹ Maria, và bắt chước Mẹ tuân hợp với thánh Ý Chúa. Cha Cestac, sáng lập dòng chuyên lo chăm sóc thiếu nữ hư hỏng, đến Buglose để xin Mẹ Maria giúp đỡ. Ngài chỉ nghe thấy một tiếng nói nội tâm trả lời ngài như sau: “Con chỉ nên xin Mẹ ban cho con tinh thần của Mẹ”. Được tinh thần Mẹ Maria, là được tất cả, vì tinh thần Mẹ chính là tinh thần Chúa Kitô.

Cùng với thánh Bernardo chúng ta hãy thưa với Mẹ thế này:

“Hỡi Mẹ nhân lành, Giáo hội cúi rạp mình xuống, phủ phục dưới chân Mẹ; khẩn thiết nài xin Mẹ, nhân danh tình âu yếm của Trái Tim rất thanh sạch Mẹ, Mẹ làm trung gian giữa Giáo hội và mặt trời công chính để xin cho Giáo hội được nhận ra ánh sáng trong huy hoàng của Mẹ (No 12 vạ).

Công đồng Vaticanô II đã nói về Mẹ Maria hơn bất cứ một công đồng nào trước đây. Trong Hiến chế Lumen Gentium (Aùnh Sáng Muôn Dân) về Giáo hội, chương tám được dành riêng cho Mẹ Maria trong mầu nhiệm Chúa Kitô và trong nhiệm cục Cứu Thế.

Đức Phaolô VI đã nói:

“Để tôn vinh Mẹ Maria và để an ủi chúng ta, chúng tôi tuyên xưng Mẹ rất thánh là Mẹ Giáo hội, nghĩa là Mẹ của toàn thể dân Chúa, cũng là Mẹ của các chủ chăn và của các tín hữu hằng tuyên xưng Mẹ là Mẹ rất yêu mến. Và chúng tôi muốn rằng từ nay trở đi, với tước hiệu rất êm ái ấy, Đức Trinh Nữ càng được toàn dân Kitô giáo tôn kính và kêu cầu hơn”.

Thật ra, tước hiệu này thuộc về bản tính thực sự của lòng sùng kính Mẹ Maria, và được minh chứng nhờ chính chức vị Mẹ Ngôi Lời nhập thể.

Ngỏ lời với các Giám mục, Đức Phaolô VI nói:

“Để tỏ lòng biết ơn vì Mẹ Maria đã trợ giúp chúng ta với tất cả mối tình hiền mẫu trong suốt thời kỳ Công đồng nhóm họp, chớ chi mỗi chư huynh hãy cam kết nêu cao thánh danh và vinh dự của Mẹ giữa dân Kitô giáo. (Diễn văn đọc ngày bế mạc khoá III, ngày 21 tháng 11 năm 1964).