Cho đến ngày hôm nay, mật độ dân số trên thế giới đã có hơn 7 tỷ rưỡi người, hiện đang sống trong một hành tinhđầy ô nhiễm, bệnh tật. Hơn 7 tỷ miệng ăn, trong khi đất trồng cấy vẫn khó mở rộng, trái lại còn có nguy cơ co hẹp vì hạn hán. Cuộc “cách mạng xanh” đối với cây ngũ cốc từ thập niên 60 và còn kéo dài cho đến bây giờ, xem ra chỉ cứu đói được một số dân thuộc “thế giới thứ 3” và tương lai chắc chắn sẽ đuối sức.
Vậy thì khoai tây đã giúp ích được những gì cho nhân loại? Các nước đông dân như Trung Quốc đã vượt lên trước, theo sau là Ấn Độ, kế đến là một số quốc gia ở lục địa châu Phi, rồi Philippines và sau đó là Việt Nam cũng đã nhìn củ khoai tây bằng một con mắt khác.
Việc di canh cây khoai tây xuống phương Nam nóng ấm rất hiệu quả, khiến nhân loại đã thay đởi quan niệm truyền thống, vì ban đầu họ cho rằng khoai tây chỉ thích hợp với khí hậu lạnh lẽo, ôn hòa. Thật ra, cây khai tây khi đi một vòng trái đất sau chuyến viễn du, rồi lại quy về với cội nguồn nắng ấm. Chính nguồn gốc quê hương của nó lại nằm ở vùng đồi núi cao nguyện thuộc nam Mỹ, đó là nước Peru, sau đó cây khoai tây được đem về trồng ở vùng đất châu âu vào giữa năm 1538.
Tuy nhiên, khoai tây rất dễ tính, trồng ở đâu cũng mọc. Trái lại năng xuất khi thu hoạch cũng tùy thuộc ở từng khu vực và lãnh thổ khác nhau. Khi đã có mặt tại châu Âu, khoai tây ngẩu nhiên trở nên “lá ngọc cành vàng”. Hoàng Hậu Pháp, có tên là Marie Antoinette đã ra lệnh cho nhân viên phục vụ của mình trồng cấy trên mảnh vườn của hoàng gia ở Versailles để làm cảnh. Thấy cánh hoa lạ và đẹp, hoàng hậu thường xuyên ra vườn hái hoa để cài trên mái tóc óng ả của mình. Sau đó một dược sỹ có tên là Antoine Augustine Parmetier, vốn là người rất am hiểu về nông nghiệp lại có lòng thương dân, ông đã ra sức thuyết phục nhà vua Louis XVI và sau đó khoai tây được trồng trên cánh đồng rộng bao la bát ngát của hoàng gia. Sau này quyền độc tôn trồng khoai tây của vương triểu đã dần dần mất đi ảnh hưởng, người ta đã chứng kiến tận ắt cây khai tây mọc lác đác trên những thửa vườn của cư dân gần đó. Mặc dầu nhà vua và hoàng hậu chỉ trồng khoai tây để ngắm hoa, thưởng ngoạn, trong khi người nông dân lại lấy củ để xử dụng cho các bui74a ăn, kể từ đó khoai tây đã bổ sung cho phần lương thực đầy hấp dẫn của nhân loại.
Cây khoai tây trồng cấy đạt năng suất cao hơn loại cây ngũ cốc, lượng đạm lại gấp đôi so với cây lúa mì, củ khoai tây lại nằm sâu dưới đất, chính vì thế cho dù đã đến thời vụ thu hoạch, nhưng rủi ro thời tiết “mưa không thuận, gió chẳng hòa, củ khoai tây vẫn đạt phẩm chất cao. Khoai tây rất bổ dưỡng, giàu calcium, manesium, carbone, vitamine B và C, riêng hàm lượng chất béo lại rất thấp, chính vì vậy mà những quốc gia giàu có họ rất ưa chuộng. Một số nhà nghiên cứu về lịch sử đã có một câu nói dí dỏm như sau: nếu như khoai tây không có mặt trên hành tinh này, lục địa châu Âu chắc chắn sẽ thiếu hẳn đi nền công nghiệp hóa, vì thợ thuyền với đồng lương hạn chế, không thể tái tạo sức lực, trong đó nguồn cung cấp vitamine cần thiết cho cơ thể, lại chính là nhờ vào củ khoai tây, vì nó vừa bổ ích, ăn ngon và hợp với túi tiền của người lao động. Thấ vậy mà một thời vẫn còn có nhiều người coi giá trị khoai tây rất thấp, những kẻ cuồng tín thì tẩy chay khoai tây, bởi lẽ nó không phải là thứ “linh thảo” vì tên của nó không được ghi trong kinh thánh thuộc một tôn giáo xa lạ. Nhiều quốc gia vẫn còn đánh giá khoai tây là một thứ “độc dược”.
Bởi vì vào năm 1845 đến năm 1851, dịch bệnh vì khoai tây ở Ái Nhỉ Lan phát sinh và đã cướp đi 1 phần 3 dân số của quốc gia này, vì lẽ đó, có kẻ khinh người trọng, nên số phận khoai tây đã từng “lên voi xuống chó” qua nhiều giai đoạn lịch sử. Mãi sau này, các chuyên gia về nông nghiệp mới phân định rõ ràng “công và tội” của khoai tây. Không phải ngẫu nhiên mà hơn 80% diện tích trồng khoai tây ở Hoa Kỳ và Canada, mà các chủ nông trại rộng lớn chỉ chọn duy nhất có 6 loại giống đặc biệt mà thôi, các nhà sinh học và nông học nghiên cứu thấy rằng “gen” khoai tây rất dễ chung sống với các thứ “gen” khác, rất có thể vì lý do đó mà nạn dịch ở Ái Nhĩ Lan vào thế kỷ 19 là do khoai tây không thuần giống đã “gây bệnh”. Riêng người dân da đỏ cũng đã hiểu rõ được vấn đề này, nhưng họ chỉ chọn giống và trồng cấy theo kinh nghiệm sẵn có của các bộ tộc mà thôi.
Trung tâm nghiên cứu quốc tế về cây khoai tây đặt trụ sở tại Peru, nơi “chôn nhau cắt rốn” của khoai tây trên ha2h tinh này, đẽ chính thức đưa ra kết luận: một số giống khoai tây là thủ phạm truyền “virus” gây bệnh. Tuy nhiên, nếu “vơ đũa cả nắm” thì đó là một điều hết sức sai lầm, vì một số giống của khoai tây đã tạo ra một thứ lương thực kỳ diệu cho nhân loại. Phải chăng một số giống đó đã góp phần tạo nên công nghiệp hóa ở lục địa Âu chầu thời bấy giờ?
Mặt khác, không nên xem việc “dẫn bệnh” của khoai tây là hoàn toàn xấu. Dưới góc độ sinh học, “gen” khoai tây rất dễ ghép cùng loại “gen” khác, các nhà sưu tầm, các nhà sinh học về “gen” chính là những “pháp su” kỳ diệu, họ có thể bổ sung ưu điểm và loại trừ nhược điểm của khoai tây thật dễ dàng, như chúng ta gọt củ khoai mì, kể từ đó, con người chúng ta lại mỉm cười với củ khoai tây đầy kỳ diệu.
Nói cho cùng, khi các nhà khoa học chưa khám phá công nghệ “gen”, khoai tây cũng đã được nhân loại ngưỡng mộ và ưa thích. Vốn dĩ người ta chỉ biết chế biến một cách đơn thuần theo kiểu luộc, nấu, hặc nghie62nna1t ra thành bột để ăn. Mãi về sau, khi Thomas Jefferson, người gốc ái Nhĩ Lan, từ đất “kinh thành ánh sáng” Paris trở về quê hương của mình và ông đã mang theo món khoai tây chiên đặc thù Pháp quốc “frites”, kể từ đó món khoai tây đã được lột xác, Frites vang danh là thế, để rồi người Mỹ đã kết thêm cái đuôi “frites kiểu Mỹ” hầu dành công lao về mình. Các nhà hàng lớn nhỏ, các tiệm ăn điểm tâm, kể cả Mac Donald cũng coi “frites kiểu Mỹ “ là khoản thực đơn không thể thiếu. Frites kiểu Hoa Kỳ phổ biến đến mức độ người ta nghĩ ra nhiều phương pháp và dịch vụ khác nhau và đã dạy cho mọi người chiên khoai tây có bài bản, còn được gọi là “nhà hàng tại gia” để chúng ta tự phục vụ.
Khoai tây chiên, rán mang lại không biết bao nhiêu lợi nhuận cho mọi hình thức dịch vụ ăn uống. Tuy nhiên hình như vẫn chưa thỏa mãn “cái thùng không đáy” của các ông bà chủ nhân nhà hàng vẫn còn thèm thuồng lợi nhuận hơn nữa, chẳng còn nghĩ đến lương tâm, tình nhân đạo, họ đã chọn những loại khoai tây kém phẩm chất và chiên nấu chung với các loại dầu thảo mộc chứa nhiều độc tố. Frites ăn vẫn ngon miệng, nhưng rồi chúng ta phải mang theo các chứng bệnh tiềm ẩn hiểm nghèo như tim mạch, ung thư lúc nào không biết. Tất nhiên, đây không phải là tội lỗi của củ khoai, mà chính là do con người vô tâm.
Thú thật, hầu như mọi người trong chúng ta thương hay xử dụng khoai tây trong các bữa ăn, để tạo thêm sự hấp dẫn, nhưng đã chắc mấy ai hiểu biết được “nỗi lòng” của giống thực vật kỳ diệu này.
Bảo Quyên
投稿者「micaerlap」のアーカイブ
TÂM TÌNH THÁNG HOA
Tháng 5, tháng Giáo Hội dành trọn để mừng kính Đức Mẹ, để bày tỏ lòng tôn kính, mến yêu đặc biệt nơi Đức Maria là Mẹ của Chúa Giêsu nơi trần thế. Bằng những bó hoa tươi cũng như hoa thiêng, bằng những lời kinh nguyện sốt sáng và tâm tình thảo hiếu biết ơn dâng lên Mẹ hiền qua tràng chuỗi Mân Côi và các bài Thánh Ca về Mẹ trong các Giờ Chầu. Nhân những ngày đầu tháng hoa này, con muốn cùng mọi người dành thời gian tìm hiểu và suy tư về nguồn gốc, ý nghĩa và tác động của tháng Hoa kính Đức Mẹ, vốn đã trở nên hết sức quen thuộc với mỗi người . Ai đã được sinh ra và lớn lên ở một giáo xứ có truyền thống dâng hoa kính Đức Mẹ trong tháng 5, con nghĩ sẽ không thể nào quên được bầu không khí linh thiêng đầy hân hoan của những ngày này. Những tháng ngày mang những mầu sắc đặc biệt của nó: Với khí trời ấp áp tươi dịu, cảnh vật thiên nhiên, cỏ cây hoa lá, sau giấc ngủ dài trong những ngày tháng mùa đông giá lạnh, nay cùng bừng tỉnh dậy, cùng đua nở khoe sắc, tô điểm cả vũ trụ cho thêm phần gấm vóc. Tất cả như muốn cùng lên tiếng mời gọi mọi người hái hoa về dâng Mẹ những bông hoa đầu mùa. Luôn song hành cùng những bông hoa là những bài ca chúc khen Đức Mẹ, chắc hẳn đối với mỗi người những bài ca này đã trở nên thật gần gũi và rất quen thuộc:
Muôn dân trên trần mừng vui đón tháng hoa về.
Vang ca tưng bừng ngợi khen tạ ơn khắp nơi.
Ánh hồng sắc hương càng tô thắm xinh nhan Mẹ.
Sóng nhạc reo vang tràn lan đến muôn muôn đời”.
Tháng Năm là thời điểm chuyển giao của mùa xuân và mùa hè, là thời điểm muôn hoa đua nở, vạn vật tràn đầy sức sống và màu sắc. Vào những thế kỷ đầu của kỷ nguyên Công giáo, hàng năm khi tháng Năm về, người Rôma đón mừng sự thức giấc sau mùa đông dài của thiên nhiên bằng việc tổ chức gọi những ngày lễ tôn kính Hoa là Nữ thần mùa Xuân. Truyền thống dâng lên Đức Mẹ những đoá hoa tươi thắm dần được thiết lập qua phong tục này. Các tín hữu Công giáo trong các xứ đạo đã thánh hóa tập tục trên khi tổ chức những cuộc rước kiệu hoa và cầu nguyện cho mùa màng phong phú.Các tín hữu Công giáo đã mựơn chính những cảnh sắc thiên nhiên, những đoá hoa tươi đẹp đó để như gói ghém trọn tâm tình của mình dâng lên Đức Mẹ. Từ thế kỷ XIII, một vài xứ đạo ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã dâng tháng 5 để tổ chức những cuộc rước hoa, để đem hoa đến dâng kính Đức Mẹ. Đến thế kỷ 14, Cha Henri Suzo (OP), vào ngày đầu tháng 5, đã dâng lên Đức Mẹ những việc tôn kính đặc biệt và dâng hoa trang hoàng thánh tượng Đức Mẹ. Vào ngày 1 tháng 5 hằng năm, thánh Philipe de Neri thường tập họp các trẻ em Công giáo đến quanh bàn thờ Đức Mẹ để dâng lên Đức Mẹ những bông hoa tươi thắm đầy hương sắc. Cùng các bông hoa mùa xuân, thánh nhân cũng dâng cho Đức Mẹ các nhân đức cao đẹp còn ẩn náu trong tâm hồn thơ trẻ của chúng. Đầu thế kỷ XVII, tại vùng Napoli nước Ý, trong thánh đường kính thánh Clara của các nữ tu Dòng Phanxicô, tháng kính Đức Mẹ được cử hành cách long trọng: Mỗi buổi chiều đều có hát kính Đức Mẹ, ban phép lành Mình Thánh Chúa. Từ ngày đó, tháng kính Đức Mẹ nhanh chóng lan rộng khắp các giáo xứ trong vùng. Các linh mục dòng Tên đã tổ chức tháng hoa kính Đức Mẹ trong trường lưu trú của các sinh viên học sinh của Dòng từ các nơi gởi về Roma để được đào tạo. Mãn khóa học, các sinh viên này, khi trở về quê nhà đã đem theo thói quen và cách tổ chức Tháng Hoa ở Roma truyền bá ra. Vì thế mà tập tục này được phát triển rộng khắp. Vào năm 1654, cha Nadasi (SJ) đã xuất bản tập sách nhỏ kêu gọi giáo hữu dành riêng mỗi năm một tháng để tôn kính Đức Mẹ. Tới đầu thế kỷ XIX, trong Giáo việc tổ chức tháng kính Đức Mẹ đã được tổ chức cách long trọng. Các nhà thờ chính có linh mục giảng thuyết, và gần như lấy thời gian sau mùa chay là thời gian chính thức để tôn kính Đức Mẹ. Năm 1815, Đức Thánh Cha Piô VII đã khuyến khích việc tôn sung Đức Maria trong tháng Năm. Đức Piô IX đã ban ơn toàn xá cho những ai tham dự việc đạo đức này năm 1889. Đức Thánh Cha Piô XII, trong Thông điệp “Đấng Trung gian Thiên Chúa”, nhấn mạnh “việc tôn kính Đức Mẹ trong tháng Năm là việc đạo đức được thêm vào nghi thức Phụng vụ, được Giáo hội công nhận và cổ võ”. Và năm 1965, Đức Thánh Cha Phaolô VI gửi Tông huấn đề cao lòng tôn sung Đức Mẹ Maria trong tháng 5. Qua đó, ngài cũng nêu lên những giá trị cao quý của việc tôn kính Đức Mẹ trong tháng Năm: “Tháng Năm là tháng mà lòng đạo đức của giáo dân đã kính dâng cách riêng cho Đức Mẹ. Đó là dịp để bày tỏ niềm tin và lòng kính mến mà người Công giáo khắp nơi trên thế giới có đối với Đức Mẹ Nữ Vương Thiên đàng. Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria, là Mẹ rất nhân từ. Xin cho chúng con nhân tháng Hoa về dâng kính Mẹ, không chỉ tham dự các buổi dâng hoa, hiệp lòng dâng Mẹ những bông hoa thơm ngát tươi xinh, mà còn là những bông hoa của sự hy sinh, hãm mình, làm việc bác ái, thăm viếng người cô đơn, đau yếu, tật bệnh. Biết mỗi ngày, không chỉ trong tháng hoa, dâng Mẹ những đóa hoa của lòng mến, biết quên mình phục vụ như Mẹ Maria đã sống “Xin Vâng và Phục vụ”Thiên Chúa và mọi người.
Xin dâng lên Mẹ hoa hồng của lòng yêu mến, xin Mẹ dạy chúng con biết yêu Chúa hết lòng và yêu anh chị em mình như Chúa đã yêu chúng con.
Xin dâng lên Mẹ hoa vàng của niềm tin sắt đá, xin Mẹ dạy chúng con sống phó thác và tin tưởng vào tình thương và sự quan phòng của Chúa như Mẹ.
Xin dâng lên Mẹ hoa xanh của niềm cậy trông và hy vọng, xin đừng để chúng con thất vọng chùn bước trước bất cứ khó khăn nghịch cảnh nào của cuộc sống.
Xin dâng lên Mẹ hoa trắng của sự trinh trong, xin Mẹ giúp chúng con gìn giữ tâm hồn luôn trong trắng, sạch tội.
Xin dâng lên Mẹ hoa tím của những đau thương, bệnh tật, tang tóc, cô đơn, xin Mẹ dạy chúng con biết vui lòng chấp nhận Thánh Giá Chúa gởi đến để trung thành bước theo Đức Kitô, Con của Mẹ.
Joseph Nguyễn Minh Hiếu
Ứng Sinh Dòng Tên Nhật Bản ( SJ House )
Có tham khảo bài viết của Lm. Thiên Ân về nguồn gốc Tháng Hoa.