Của lễ đời người tín hữu công giáo

 “Họ vào nhà thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến”(Mt 2,11).

    Ba món quà mà ba nhà Đạo Sĩ dâng Chúa Hài Nhi mang ba ý nghĩa. Dâng vàng mang ý nghĩa Đức Giê-su là Vua; dâng nhũ hương, mang ý nghĩa Đức Giê-su là Chúa và dâng mộc dược mang ý nghĩa Đức Giê-su sẽ chịu chết. Của lễ của người tín hữu công giáo là đức tin, đức cậy và đức mến. Đức tin là vàng; đức cậy là nhũ hương và đức mến là mộc dược. Ba của lễ này, chắc Chúa sẽ thích hơn là ba của lễ của ba nhà Đạo Sĩ.

  1. Đức Tin.

      “Đức tin là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta tin vào Thiên Chúa; tin tất cả những gì Người nói và mặc khải cho chúng ta cũng như những gì Hội Thánh dạy phải tin vì Thiên Chúa là chân lý” (x.GLCG, số 1814).

     Sống đức tin trong cuộc sống trần gian không phải dễ dàng gì. Thực tế trong cuộc sống, người tín hữu bị thiệt thòi đủ thứ, với trăm chiều thử thách. Như người ta thì đi chơi xả láng, còn ta thì phải đi lễ ngày Chúa Nhật; người ta thì có thể làm đủ mọi việc xấu xa, còn ta thì không; người ta làm điều xấu xa lại được tôn vinh và tôn trọng; còn ta làm điều tốt lại bị dèm pha, chỉ trích; người ta thì chẳng đọc kinh, cầu nguyện, tôn thờ Chúa gì cả, mà vẫn sống phây phây; còn ta thì gặp hết khó khăn này đến khó khăn khác; vv ………

    Như vàng phải thử lửa để xem vàng thật hay giả thế nào thì đức tin của chúng ta cũng phải chịu thử thách như vậy, để tinh luyện chúng ta; để xem chúng ta tin thờ Chúa thế nào. Vàng phải được thử bằng lửa; đức tin phải có thử thách: “Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em, là thứ quí hơn vàng gấp bội. Vàng là của phù vân mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời ca ngợi và đem lại vinh quang và danh dự. Tuy không thấy Người anh em vẫn yêu mến; tuy chưa giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang. Bởi đã nhận được thành quả của đức tin là ơn cứu độ con người”(x.1P 7-9).

   Có đức tin mạnh, chúng ta sẽ bền bỉ, bền đỗ và kiên trì cho tới cùng. Chúa Giê-su đã nói: “Ai bền đỗ đến cùng sẽ được ơn cứu thoát” mà (x. Mt 24,13). Có đức tin mạnh chúng ta mới vượt qua mọi cơn thử thách và sẽ gặt được những thành quả tốt đẹp. Thành quả đó là một niềm vui khôn tả; bình an ở đời này và hạnh phúc ở đời sau.

    Không sớm thì muộn; không ở đời thì chắc chắn ở đời sau, Chúa trả lại sự công bằng cho chúng ta; Chúa sẽ bù lại những thiệt thòi cho chúng ta. Đâu có chuyện ăn không của chúng ta được; cũng đâu phải chết là hết đâu.

    Thực tế cũng cho chúng ta thấy được điều đó. Những người lạm dụng chức quyền, tham ô, gian lận trong chính quyền hay giáo quyền, đều bị xét xử và đền trả, dù là Tổng thống hay Thủ tướng; dù là Hồng Y hay Giám Mục; tại vị hay đã về hưu. Tham ô cả tỉ đồng thì phải trả tỉ đồng, lại còn bị mất chức, bị cách chức, bị tù nữa, có vinh quang gì? Có tiền nhiều để làm gì và có chức tước để làm chi? Có hơn khi chẳng có gì mà luôn an bình và hạnh phúc không !!!!

    Còn tôn thờ Chúa mà được sự lành thì hớn hở; gặp sự dữ lại than với trách. Có bằng kẻ trung thành phụng thờ, tin tưởng Chúa dù gặp sự dữ hay sự lành không? Một đứa con phụng dưỡng cha mẹ, vì mong được chia gia tài; không có gia tài thì miễn; có bằng đứa con phụng dưỡng cha mẹ vì lòng hiếu thảo và yêu mến không?

   Đức Giê-su đã nói trong dụ ngôn quan tòa bất chính và bà góa quấy rầy: “Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những người đã tuyển chọn, ngày đêm kêu cứu Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất này nữa không?(x.Lc 18, 1-8).

    Bởi đó, chúng ta phải luôn luôn tin tưởng vào Thiên Chúa; chúng ta sẽ luôn luôn được bình an và hạnh phúc trong cuộc sống. Đó là đức tin; đó là của lễ Chúa ưa thích hơn là vàng 9999. Đức tin, đó chính là của lễ của người tín hữu công giáo chúng ta dâng lên Chúa và tuyên xưng Chúa là Vua của chúng ta.

  1. Đức cậy.

    “Đức cậy là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta khao khát Nước Trời và sự sống vĩnh cửu như hạnh phúc đời mình, khi tin tưởng vào các Lời hứa của Đức Ki-tô và phó thác vào ơn trợ lực của Chúa Thánh Thần chứ không dựa vào sức mình”(x. GLCG, số 1817).

    “Đức cậy đáp ứng khát vọng hạnh phúc Thiên Chúa đã đặt trong lòng mọi người; đảm nhận các niềm hy vọng gợi hứng cho sinh hoạt của con người; thanh luyện và qui hướng các hy vọng ấy về Nước Trời. Đức cậy bảo vệ chúng ta khỏi thất vọng; nâng đỡ khi ta bị bỏ rơi; giúp ta phấn khởi mong đợi hạnh phúc muôn đời”(x. GLCG, số 1818).

   Nói cách khác, đức cậy giúp chúng ta hy vọng nơi Thiên Chúa chứ không nơi con người, nơi của cải hay tiền của. Chúng ta hy vọng có một cuộc sống bình an và hạnh phúc. Có cơm ăn áo mặc; có công việc làm hằng ngày làm đủ. Với sự cố gắng, chịu khó và kiên trì của chúng ta, chúng ta hy vọng thu được những kết quả tốt đẹp.

   Sống mà không có hy vọng, làm sao sống vui, sống khỏe được; làm việc mà không có hy vọng làm sao hăng say và nhiệt thành làm được; học mà không có hy vọng làm sao mà chăm chỉ học hành được; thậm chí chơi thể thao mà không có hy vọng, không cố gắng thì làm sao chiến thắng được? Người sống mà không có hy vọng thì chỉ muốn chết thôi.

   Quả thật, niềm hy vọng như hương thơm của cuộc sống; như hương trầm bay lên trước tôn nhan Chúa. Như chúng ta thấy, muốn có hương trầm bay lên thì phải có lửa đốt hay than hồng và hương thơm bay lên, còn tàn nhang sẽ rơi xuống. Tàn nhang rơi xuống, đó là những cố gắng, những hy sinh; những mồ hôi và nước mắt của chúng ta rơi xuống. Lửa hồng đó là lòng nhiệt thành của chúng ta.

   Có thể chúng ta mất hy vọng nơi con người chứ không bao giờ mất hy vọng nơi Thiên Chúa. Khao khát Nước Trời và sự sống vĩnh cửu là hạnh phúc của đời ta, mà ngay từ bây giờ chúng ta đang sống và chuẩn bị. “Trời đất có qua đi, chứ Lời Chúa không qua đi”(x. Lc 21,33). Thiên Chúa còn mãi và việc sống và thực hiện Lời Chúa sẽ làm cho những việc chúng ta làm không rơi vào quên lãng; đời ta sẽ không trôi đi cách lững lờ và cuộc sống hằng ngày của ta cũng sẽ không qua đi cách hững hờ. Vì chúng ta sống và làm việc có mục đích, có niềm hy vọng và trong sự tin tưởng vào Thiên Chúa.

   Như vậy, đức cậy là nhũ hương, là hương thơm của người tín hữu công giáo chúng ta dâng lên Thiên Chúa.

  1. Đức Mến.

   “Đức mến là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự vì chính Chúa và vì yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu mến người thân cận như chính mình”(x. GLCG, số 1822).

    Thánh Phao-lô nói: “Không có đức mến, tôi chẳng là gì. Tất cả những đặc ân, công việc phục vụ hay nhân đức mà không có đức mến chẳng có ích gì cho tôi” (x. 1Cor 13,1-4).

    Như chúng ta biết, mộc dược là để ướp xác người chết, giữ thân xác còn nguyên vẹn không bị hư hoại trong một thời gian dài. Như các Xác Ướp Ai-cập, đã mấy nghìn năm mà vẫn còn nguyên. Mộc dược, đó là hình ảnh của đức mến. Đức Mến như mộc dược ướp con người chúng ta; ướp cuộc sống chúng ta; ướp cuộc đời chúng ta cho khỏi hư hoại về mặt tinh thần và thiêng liêng.

    Nếu chúng ta làm vì lòng mến; chịu đựng, chịu khó vì lòng mến; chịu cực, chịu khổ vì lòng mến, thì tất cả những việc đó sẽ được ướp bằng lòng mến, sẽ tồn tại mãi mãi ở đời này cũng như ở đời sau. Trong bài ca đức mến, thánh Phao-lô nói rõ như sau: “Giả như tôi nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa mà không có đức mến thì tôi cũng chỉ là thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết cả gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cho thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến thì cũng chẳng ích gì cho tôi”(x. 1Cor 13, 1-3).

   Qua đó, chúng ta thấy tầm quan trọng của Đức mến là như thế nào.

     “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc; không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù; không mừng khi thấy gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả; tin tưởng tất cả; hy vọng tất cả; chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các thứ tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư? Rồi cũng chẳng còn. Vì chưng sự hiểu thì có ngần; ơn nói tiên tri cũng có hạn. Hiện nay, đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”(x.1Cor 13, 4-9,13).

    Nếu chúng ta sống đức mến trong cuộc sống mình như vậy, chúng ta sẽ gặt hái được hoa trái của đức mến. “Hoa trái của đức mến là niềm vui, bình an và lòng thương xót”(x. GLCG, số 1829). Sống trong đức mến; làm trong tình yêu làm sao mà không vui, không bình an, không hạnh phúc !!! Đức mến không bao giờ mất thì sống và làm việc trong đức mến, trong tình yêu cũng không bao giờ mất; nó sẽ tồn tại mãi. Qua đó, chúng ta mới thấy rõ tính mộc dược của đức mến.

    Vậy, chúng ta hãy sống và làm việc trong tình yêu mến, để những việc ta làm sẽ tồn tại mãi mãi.

Kết.

    Của lễ ba nhà Đạo Sĩ dâng lên Chúa Hài Nhi là VÀNG, NHŨ HƯƠNG VÀ MỘC DƯỢC. Của lễ của người tín hữu công giáo chúng ta là ĐỨC TIN, ĐỨC CẬY VÀ ĐỨC MẾN. Qua đức tin, chúng ta tin Đức Giê-su là Vua; qua đức cậy, chúng ta tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa và qua đức mến, chúng ta nhận được ơn cứu độ với cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giê-su. Sống đức tin, chúng ta sẽ nên vàng thật 9999; sống đức cậy, chúng ta nên hương thơm dâng lên Thiên Chúa và sống đức mến chúng ta sẽ tồn tại mãi mãi. Bởi đó, của lễ đời người tín hữu công giáo của chúng ta phải là Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến.

                                                                                                 Lm. Bosco Dương Trung Tín

SỨ ĐIỆP NGÀY GIỚI TRẺ THẾ GIỚI NĂM 2021

Ngày 21 tháng 11 năm 2021

“Đứng lên. Ta chỉ định ngươi là chứng nhân cho những gì ngươi đã thấy. (xem TĐCV 26: 16)”

Các bạn trẻ thân mến,

Một lần nữa, cha muốn nắm tay các con và cùng các con bước đi trong cuộc hành hương tinh thần dẫn đến Ngày Giới trẻ Thế giới 2023 tại Lisbon.

Thông điệp năm ngoái, mà cha đã ký ngay trước khi đại dịch bùng phát, có chủ đề là: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!” (x. Lc 7:14). Trong sự quan phòng của Người, Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta trước thử thách nghiêm trọng mà chúng ta sắp trải qua.

Ở khắp mọi nơi trên thế giới, chúng ta đã phải chịu đựng sự mất mát của rất nhiều người thân yêu của chúng ta và trải qua sự cô lập của xã hội. Tình trạng khẩn cấp về sức khỏe là một trở ngại đặc biệt đối với các bạn trẻ, vì cuộc sống của các con có khuynh hướng tự nhiên là hướng ngoại: hướng đến trường học hay trường đại học, hướng đến nơi làm việc và các cuộc gặp gỡ xã hội. Các con thấy mình trong những tình huống khó khăn mà các con không quen đối mặt. Những người cảm thấy khó khăn hơn, hoặc thiếu sự hỗ trợ, dễ cảm thấy mất phương hướng. Chúng ta đã chứng kiến sự gia tăng các vấn đề gia đình, thất nghiệp, trầm cảm, cô đơn và các hành vi nghiện nghiệp, đó là chưa nói đến sự gia tăng áp lực, căng thẳng, bùng phát tức giận và bạo lực gia tăng.

Tuy nhiên, cảm ơn Chúa, đây chỉ là một mặt của đồng tiền. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy sự mong manh của chúng ta, nhưng nó cũng tiết lộ các đức tính của chúng ta, bao gồm cả khuynh hướng đoàn kết của chúng ta. Trên khắp thế giới, chúng ta đã thấy rất nhiều cá nhân, trong đó có nhiều người trẻ, giúp cứu sống, gieo mầm hy vọng, duy trì tự do và công lý, đồng thời đóng vai trò là những người kiến tạo hòa bình và xây dựng cầu nối.

Bất cứ khi nào một người trẻ sa ngã, theo một nghĩa nào đó, tất cả nhân loại đều gục ngã. Tuy nhiên, cũng đúng khi một người trẻ trỗi dậy, thì cũng giống như cả thế giới cũng trỗi dậy theo. Hỡi các bạn trẻ, các con có trong tay những tiềm năng thật lớn lao! Các con có sức mạnh to lớn trong trái tim mình!

Hôm nay cũng vậy, Thiên Chúa đang nói với mỗi người trong các con: “Hãy trỗi dậy!” Cha tha thiết hy vọng rằng Thông điệp này có thể giúp chúng ta chuẩn bị cho thời đại mới và một trang mới trong lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, chúng ta không thể bắt đầu lại nếu không có các con, các bạn trẻ thân mến. Nếu thế giới của chúng ta muốn trỗi dậy, nó cần sức mạnh của các con, cần nhiệt tình của các con, và cần niềm đam mê của các con. Do đó, cha muốn cùng các con suy gẫm đoạn sách Công vụ Tông đồ trong đó Chúa Giêsu nói với Thánh Phaolô: “Đứng lên. Ta chỉ định ngươi là chứng nhân cho những gì ngươi đã thấy” (Cv 26:16).

Chứng tá của Phaolô trước nhà vua

Câu Kinh thánh gợi lên chủ đề của Ngày Giới trẻ Thế giới năm 2021 được trích từ lời chứng của Phaolô trước Vua Agrippa sau khi thánh nhân bị cầm tù. Phaolô, trước đây là kẻ thù và là kẻ bắt bớ các tín hữu của Chúa Kitô, hiện đang bị xét xử chính vì đức tin của ông nơi Chúa Giêsu Kitô. Vị Tông đồ đã kể lại trước nhà vua câu chuyện về cuộc gặp gỡ định mệnh của mình với Chúa Kitô khoảng 25 năm về trước.

Phaolô nói rằng ông đã bắt bớ các Kitô hữu, cho đến một ngày khi đang trên đường đến Đamát để bắt giữ một số Kitô Hữu, một ánh sáng còn “sáng hơn mặt trời” chiếu xung quanh ông và những người bạn đồng hành của ông (xem Công vụ 26:13). Tuy nhiên, chỉ một mình ông nghe thấy “một tiếng nói”: đó là tiếng của Chúa Giêsu, Đấng đã nói với ông, và gọi đích danh ông.

Saolô! Saolô!

Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn sự kiện này. Bằng cách gọi tên Saolô, Chúa đã khiến ông nhận ra rằng Ngài đã biết rõ về ông. Cứ như thể Chúa đang nói: “Ta biết ngươi là ai và ngươi đang làm gì; dù thế, Ta đang nói chuyện trực tiếp với ngươi”. Hai lần, Chúa gọi tên Phaolô như dấu chỉ của một ơn gọi đặc biệt quan trọng; như trước đó Chúa đã làm với Môisê (Xh 3: 4) và Samuel (x. 1 Sam 3:10). Ngã xuống đất, Saolô nhận ra rằng ông đang chứng kiến một thần linh, một sự mặc khải thần thánh mạnh mẽ khiến ông bối rối, nhưng vị thần ấy không hủy diệt ông. Thay vào đó, ông thấy mình được gọi đích danh.

Chỉ một cuộc gặp gỡ cá nhân và không ẩn danh với Chúa Kitô mới thay đổi cuộc đời. Chúa Giêsu cho thấy Ngài biết Saolô rất rõ, “từ trong ra ngoài”. Cho dù Saolô là người hay bắt bớ, và lòng đầy căm thù các Kitô hữu, Chúa Giêsu nhận ra rằng điều này là do sự thiếu hiểu biết. Chúa muốn thể hiện cho Saolô thấy lòng nhân từ của Người. Ân sủng này, là tình yêu nhưng không và vô điều kiện, sẽ là ánh sáng biến đổi hoàn toàn cuộc đời của Saolô.

Thưa Ngài, Ngài là ai?

Trước sự hiện diện mầu nhiệm đang gọi tên mình, Saolô hỏi: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” (Công-vụ 26:15) Câu hỏi này mang tính quyết định, và sớm hay muộn tất cả chúng ta phải hỏi câu đó. Nghe người khác nói về Chúa Giêsu thôi là chưa đủ; chúng ta cần phải tự mình nói chuyện với Người, một cách cá vị. Trong sâu thẳm, đây là tất cả ý nghĩa của việc cầu nguyện. Cầu nguyện có nghĩa là nói chuyện trực tiếp với Chúa Giêsu, mặc dù lòng chúng ta có thể vẫn còn bối rối và tâm trí chúng ta đầy nghi ngờ hoặc thậm chí xem thường Chúa Giêsu và các Kitô hữu. Cha cầu nguyện rằng mỗi người trẻ, trong sâu thẳm trái tim của mình, cuối cùng sẽ đặt ra câu hỏi: “Lạy Chúa, Ngài là ai?”

Chúng ta không còn có thể giả định rằng mọi người đều biết Chúa Giêsu, ngay cả trong thời đại internet. Câu hỏi mà nhiều người đang hỏi về Chúa Giêsu và Giáo hội của Người chính là câu hỏi này: “Ngài là ai?” Trong toàn bộ câu chuyện Thánh Phaolô được kêu gọi, đây là lần duy nhất Phaolô nói. Và Chúa trả lời ngay lập tức: “Ta là Chúa Giêsu mà ngươi đang bắt bớ” (sđd).

“Ta là Giêsu, Đấng mà ngươi đang bắt bớ!”

Với câu trả lời này, Chúa Giêsu tiết lộ cho Saolô một bí ẩn lớn: Ngài đồng hóa mình với Hội thánh, với các Kitô hữu. Cho đến thời điểm đó, Saolô không thấy gì về Chúa Kitô, mà chỉ thấy những tín hữu mà ông đã tống vào tù (xem Công-vụ 26:10) và việc giết người mà ông đã tán thành (sđd). Ông đã thấy cách các Kitô hữu đáp trả điều ác bằng sự tốt lành, lòng căm thù bằng tình yêu thương, chịu đựng sự bất công, bạo lực, những tai họa và sự bắt bớ vì danh của Chúa Kitô. Một cách nào đó, mà không hề hay biết, Saolô đã gặp được Chúa Kitô. Ông đã gặp Chúa nơi các Kitô hữu!

Đã bao nhiêu lần chúng ta nghe người ta nói “Tôi tin Chúa Giêsu, nhưng không tin Giáo hội!” như thể điều này có thể là sự thay thế cho điều kia. Người ta không thể biết Chúa Giêsu nếu người ta không biết Giáo hội. Người ta không thể biết Chúa Giêsu ngoài những anh chị em trong cộng đồng của Người. Chúng ta không thể tự gọi mình là Kitô hữu hoàn toàn trừ khi chúng ta kinh nghiệm về chiều kích giáo hội của đức tin.

“Đá lại mũi nhọn thì khốn cho ngươi”

Chúa đã nói với Saolô những lời này sau khi ông ngã xuống đất. Tuy nhiên, chắc chắn có lúc Ngài đã lặp lại những lời đó với Saolô một cách bí ẩn, nhằm lôi kéo ông về với chính mình. Tuy nhiên, Saolô đã chống lại. Chúa của chúng ta cũng nói lời “khiển trách” nhẹ nhàng đó đối với mọi người trẻ quay lưng lại với Ngài: “Các con trốn khỏi Ta được bao lâu? Tại sao các con không nghe thấy Ta gọi các con? Ta đang đợi con quay về bên Ta”. Có những lúc chúng ta cũng nói như tiên tri Giêrêmia: “Tôi sẽ không còn nghĩ đến Người nữa” (xem Gr 20: 9). Vậy mà trong lòng mỗi người lại có một ngọn lửa bùng cháy: dù cố gắng kìm nén cũng không thành công, vì nó mạnh hơn chúng ta.

Chúa đã chọn một người đang bắt bớ Ngài, hoàn toàn thù địch với Ngài và những người theo Ngài. Chúng ta thấy rằng, trong mắt Chúa, không ai bị hư mất. Nhờ một cuộc gặp gỡ cá nhân với Chúa, chúng ta luôn có thể bắt đầu lại từ đầu. Không một người trẻ nào nằm ngoài tầm với của ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa. Không ai có thể nói rằng: Hắn đã đi quá xa… Đã quá muộn… Có bao nhiêu người trẻ tuổi cuồng nhiệt nổi loạn và lập dị, trong khi sâu thẳm trái tim họ cảm thấy cần phải dấn thân, cần phải yêu hết lòng, cần phải có một sứ mệnh trong cuộc sống! Trong người trẻ Saolô, Chúa Giêsu đã thấy chính xác điều đó.

Nhận ra sự mù quáng của chúng ta

Chúng ta có thể tưởng tượng rằng, trước khi gặp gỡ Chúa Giêsu, Saolô ở một mức độ nào đó đã “hết mình”, nghĩ rằng mình “vĩ đại” dựa trên sự chính trực về đạo đức, lòng nhiệt thành, lý lịch và trình độ học vấn của mình. Chắc chắn, ông đã bị thuyết phục rằng mình đang làm đúng. Một khi Chúa tỏ mình ra, Saolô “ngã xuống đất”, và bị mù. Đột nhiên, ông không thể nhìn thấy, cả về thể chất lẫn tinh thần. Xác tín của ông đang bị lung lay. Trong thâm tâm, ông nhận ra rằng lòng nhiệt thành cuồng nhiệt của mình trong việc giết hại các tín hữu Kitô là hoàn toàn sai lầm. Ông nhận ra rằng ông không nắm bắt được sự thật tuyệt đối, và thực sự còn rất xa vời với sự thật ấy. Xác tín và niềm kiêu hãnh của ông tan biến; đột nhiên ông thấy mình mất phương hướng, yếu ớt và “nhỏ bé”.

Sự khiêm tốn như vậy – ý thức về những hạn chế của chúng ta – là điều cần thiết! Những ai tin chắc rằng họ biết mọi thứ về bản thân, về người khác và thậm chí về chân lý tôn giáo, sẽ khó gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô. Sau khi bị mù, Saolô đã mất điểm tham chiếu của mình. Một mình trong bóng tối, những thứ rõ ràng duy nhất là ánh sáng mờ mờ ông nhìn thấy và giọng nói ông nghe thấy. Thật là nghịch lý! Chỉ khi chúng ta bị mù, chúng ta mới bắt đầu nhìn thấy!

Sau kinh nghiệm vượt qua của mình trên đường đến Đamát, Saolô muốn được gọi là Phaolô, một cái tên có nghĩa là “nhỏ bé”. Điều này không giống như những biệt danh hoặc những tên bịa đặt ra quá phổ biến ngày nay. Cuộc gặp gỡ của Saolô với Chúa Kitô đã thay đổi cuộc đời ông; cuộc gặp gỡ này khiến ông cảm thấy mình thật sự nhỏ bé và xé nát mọi thứ ngăn cản ông thực sự nhận ra bản thân mình. Như Phaolô nói với chúng ta: “Tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa” (1Cr 15, 9).

Thánh Têrêxa thành Lisieux, cũng như bao vị thánh khác, rất thích nói rằng khiêm nhường là chân lý. Ngày nay, chúng ta lấp đầy thời gian của mình, đặc biệt là trên mạng xã hội, với bất kỳ “câu chuyện” nào, thường được xây dựng cẩn thận với phông nền, máy ảnh web và các hiệu ứng đặc biệt. Chúng ta muốn trở thành tâm điểm chú ý, ngày càng nhiều, được đóng khung hoàn hảo, sẵn sàng cho “bạn bè” và “những người theo dõi” thấy một hình ảnh về bản thân không phản ánh con người thật của chúng ta. Chúa Kitô, mặt trời của ban ngày, đến để soi sáng chúng ta và khôi phục tính xác thực của chúng ta, giải phóng chúng ta khỏi tất cả các mặt nạ của chúng ta. Chúa cho chúng ta thấy rõ ràng chúng ta là ai, vì đó chính xác là cách Chúa yêu chúng ta.

Thay đổi quan điểm

Sự hoán cải của Phaolô không liên quan đến việc quay lưng lại, mà là mở ra một cách nhìn hoàn toàn mới. Phaolô tiếp tục cuộc hành trình đến Đamát, nhưng có điều gì đó đã thay đổi; bây giờ ông đã là một người khác (xem Công vụ 22:10). Sự chuyển đổi có thể đổi mới cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Chúng ta tiếp tục làm những gì chúng ta đã làm trước đây, nhưng trái tim và động cơ của chúng ta bây giờ đã thay đổi. Trong trường hợp của Phaolô, Chúa Giêsu bảo ông tiếp tục đi đến Đamát, nơi ông định đi ban đầu. Phaolô vâng lời, nhưng mục tiêu và mục đích của cuộc hành trình của ông đã bị thay đổi hoàn toàn. Kể từ thời điểm này, Phaolô sẽ nhìn mọi thứ với con mắt mới, không còn là kẻ bắt bớ và hành hạ các Kitô Hữu nữa, mà là một môn đệ và một chứng nhân. Tại Đamát, Anania sẽ làm lễ rửa tội cho ông và trình diện ông với cộng đồng Kitô. Trong im lặng và cầu nguyện, Phaolô sẽ đào sâu kinh nghiệm của mình và căn tính mới được Chúa Giêsu ban cho ông.

Đừng làm tiêu tan sức lực và đam mê của tuổi trẻ

Thái độ của Phaolô trước cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Phục sinh không quá xa lạ đối với chúng ta. Bao nhiêu sức mạnh và đam mê cũng trào dâng trong chính trái tim các con, các bạn trẻ thân mến! Tuy nhiên, bóng tối xung quanh và bên trong các con có thể ngăn cản các con nhìn mọi thứ một cách chính xác. Các con có thể có nguy cơ bị lạc trong trận chiến vô nghĩa và thậm chí bạo lực. Đáng buồn thay, những nạn nhân đầu tiên sẽ là chính các con và những người thân thiết nhất với các con. Ngoài ra còn có nguy cơ đấu tranh vì những nguyên nhân được bắt đầu bằng việc đề cao những giá trị chính nghĩa, nhưng một khi đã quá khích, sẽ biến thành những ý thức hệ hủy diệt. Có bao nhiêu người trẻ ngày nay được truyền cảm hứng, có lẽ bị thúc đẩy, bởi niềm tin chính trị hoặc tôn giáo, cuối cùng trở thành công cụ bạo lực và hủy hoại cuộc sống của nhiều người khác! Một số, di chuyển dễ dàng trong thế giới kỹ thuật số, sử dụng thực tế ảo và mạng xã hội như một chiến trường mới, sử dụng vũ khí tin giả một cách vô đạo đức để phát tán nọc độc và quét sạch kẻ thù của họ.

Khi Chúa bước vào cuộc đời của Phaolô, Chúa đã không kìm nén cá tính hay lòng nhiệt thành cuồng nhiệt của ông. Thay vào đó, Chúa đã trao ban cho ông những ân sủng dư dật để biến ông thành một sứ giả vĩ đại của Tin Mừng đến tận cùng trái đất.

Tông đồ của các dân nước

Do đó, Phaolô sẽ được gọi là “Tông đồ của các dân nước”. Trước đó Phaolô đã từng là một người Pharisêu, một tín đồ cẩn trọng tuân giữ Lề Luật! Ở đây chúng ta thấy một nghịch lý khác: Chúa đặt niềm tin vào chính kẻ đã bắt bớ Ngài. Giống như Phaolô, mỗi người chúng ta đều có thể nghe thấy tiếng nói trong trái tim mình rằng: “Ta tin tưởng con. Ta biết câu chuyện của con và Ta đã thấu hiểu nó, cùng với con. Ngay cả khi con đã thường xuyên chống lại Ta, Ta chọn con và làm cho con trở thành chứng nhân của Ta”. Cách suy nghĩ của Thiên Chúa có thể biến kẻ bắt bớ tồi tệ nhất thành một chứng nhân vĩ đại.

Các môn đệ của Chúa Kitô được mời gọi trở thành “ánh sáng thế gian” (Mt 5,14). Bây giờ Phaolô phải làm chứng cho những gì ông đã thấy, nhưng hiện tại thì ông bị mù. Một nghịch lý khác! Tuy nhiên, nhờ kinh nghiệm bản thân, Phaolô hoàn toàn có thể xác định được những người mà Chúa sẽ sai ông đến. Đó là lý do tại sao ông được làm chứng nhân: “mở mắt cho họ, để họ từ bóng tối bước ra ánh sáng” (Công vụ 26:18).

“Hãy trỗi dậy và làm chứng!”

Khi chúng ta đón nhận sự sống mới được ban tặng cho chúng ta trong phép rửa tội, Chúa giao cho chúng ta một sứ mệnh quan trọng có tính đổi đời: “Các con phải là chứng nhân của Ta!”

Hôm nay Chúa Kitô nói với các con những lời giống như lời Ngài đã nói với Phaolô: Hãy chỗi dậy! Đừng chán nản hoặc bị cuốn vào bản thân: một sứ mệnh đang chờ các con! Các con cũng có thể làm chứng cho những gì Chúa Giêsu đã bắt đầu hoàn thành trong cuộc sống của các con. Nhân danh Chúa Giêsu, cha yêu cầu các con:

– Hãy trỗi dậy! Hãy chứng minh rằng các con cũng đã bị mù và đã gặp ánh sáng. Các con cũng đã nhìn thấy sự tốt lành và vẻ đẹp của Thiên Chúa nơi chính các con, nơi người khác và trong sự hiệp thông của Giáo hội, trong đó mọi sự cô đơn được vượt qua.

– Hãy trỗi dậy! Hãy làm chứng cho tình yêu và sự tôn trọng có thể thấm nhuần trong các mối quan hệ của con người, trong cuộc sống của gia đình chúng ta, trong cuộc đối thoại giữa cha mẹ và con cái, giữa người trẻ và người già.

– Hãy trỗi dậy! Hãy đề cao công bằng xã hội, sự thật và liêm chính, các quyền con người. Bảo vệ những người bị bắt bớ, những người nghèo và những người dễ bị tổn thương, những người không có tiếng nói trong xã hội, những người nhập cư.

– Hãy trỗi dậy! Hãy chứng thực cách nhìn mới về mọi thứ cho phép các con xem tạo vật với đôi mắt tràn ngập sự kinh ngạc, điều đó khiến các con coi Trái đất là ngôi nhà chung của chúng ta và cho các con can đảm để thúc đẩy một hệ sinh thái toàn vẹn.

– Hãy trỗi dậy! Hãy chứng minh rằng những cuộc sống thất bại có thể được xây dựng lại, rằng những người đã chết về mặt tinh thần có thể sống lại, rằng những người bị trói buộc có thể một lần nữa được tự do, rằng những trái tim bị bao trùm bởi nỗi buồn có thể tìm lại hy vọng.

– Hãy trỗi dậy! Hãy vui mừng làm chứng rằng Chúa Kitô đang sống! Hãy truyền bá thông điệp của Người về tình yêu thương và ơn cứu rỗi cho những người cùng thời với các con, ở trường học và trường đại học, nơi làm việc, trong thế giới kỹ thuật số, ở khắp mọi nơi.

Chúa, Giáo hội và Đức Giáo Hoàng tin tưởng các con và chỉ định các con làm chứng trước tất cả những người trẻ khác mà các con sẽ gặp trên “những con đường dẫn đến Đamát” ngày nay. Đừng bao giờ quên rằng “bất cứ ai đã thực sự cảm nghiệm được tình yêu thương cứu độ của Thiên Chúa thì không cần nhiều thời gian hay quá trình huấn luyện lâu dài để có thể ra đi rao truyền tình yêu thương đó. Mỗi Kitô hữu là một nhà truyền giáo nếu họ đã gặp gỡ được tình yêu của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô “(Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, 120).

Hãy trỗi dậy và cử hành Ngày Giới Trẻ Thế Giới trong các Giáo hội địa phương!

Một lần nữa, cha mời tất cả các con, những người trẻ trên khắp thế giới, hãy tham gia vào cuộc hành hương tâm linh hướng tới việc kỷ niệm Ngày Giới trẻ Thế giới 2023 tại Lisbon. Tuy nhiên, sự kiện tiếp theo sẽ diễn ra tại các Giáo hội địa phương của các con, ở các tổng giáo phận và giáo phận khác nhau trên thế giới, nơi sẽ cử hành Ngày Giới trẻ Thế giới 2021 tại địa phương, vào Lễ Trọng Chúa Kitô Vua.

Cha hy vọng rằng tất cả chúng ta có thể trải nghiệm những bước này trên đường đi với tư cách là những người hành hương thực thụ, chứ không chỉ đơn thuần là những “khách du lịch tôn giáo”! Xin cho chúng con ngày càng cởi mở với những điều bất ngờ của Chúa, vì Ngài muốn soi sáng con đường của chúng con. Mong sao chúng ta ngày càng cởi mở hơn để nghe tiếng nói của Người, cũng qua tiếng nói của anh chị em chúng ta. Bằng cách này, chúng ta sẽ giúp nhau cùng phát triển và, vào thời điểm khó khăn này trong lịch sử của chúng ta, chúng ta sẽ trở thành những nhà tiên tri của một tương lai mới và tràn đầy hy vọng! Xin Đức Trinh Nữ Maria đầy ơn phúc chuyển cầu cho tất cả chúng ta.

Rôma, Đền Thờ Thánh Gioan Latêranô, ngày 14 tháng 9 năm 2021,

Lễ Suy tôn Thánh giá

Phanxicô Giáo Hoàng