CHƯƠNG V
MỘT THỂ THỨC CHÍNH TRỊ TỐT ĐẸP HƠN
154. Sự tiến triển của cộng đồng huynh đệ hoàn cầu dựa trên việc thực thi tình hữu nghị xã hội từ phía các dân tộc và quốc gia, kêu mời một loại hình chính trị tốt đẹp hơn, một thể thức chính trị thật sự phục vụ thiện ích chung. Đáng buồn thay, nền chính trị ngày nay thường mang đậm hình thức cản trở sự thăng tiến hướng tới một thế giới khác.
CÁC LOẠI HÌNH DÂN TÚY VÀ TỰ DO CHỦ NGHĨA
155. Hiện trạng thiếu quan tâm đến những người dễ bị tổn thương có thể ẩn nấp phía sau chủ nghĩa dân túy, nhằm mị dân bóc lột họ vì các mục đích riêng, hoặc ẩn tàng đằng sau chủ nghĩa tự do chuyên phục vụ lợi ích kinh tế của những ai nắm quyền. Trong cả hai trường hợp này, thật khó để dự kiến một thế giới cởi mở, kiến tạo không gian cho mọi người, bao gồm những ai dễ bị tổn thương nhất, và biểu lộ lòng tôn trọng đối với các nền văn hóa khác nhau.
Người được lòng dân đối trọng với người theo chủ trương dân túy
-
Những năm gần đây, cụm từ “chủ nghĩa dân túy” và “người theo chủ trương dân túy” đã xâm nhập vào các phương tiện truyền thông và chuyện trò hằng ngày. Vì vậy, chúng đánh mất bất cứ giá trị nào mà họ có thể sở hữu, và trở thành nguồn phân cực khác biệt trong xã hội vốn đã chia rẽ bấy lâu. Mọi nỗ lực đưa ra nhằm phân loại toàn bộ các dân tộc, các nhóm, các xã hội và chính phủ như thể “theo chủ trương dân túy” hay chăng. Ngày nay, không ai có thể bày tỏ quan điểm về bất cứ chủ đề nào mà không bị phân loại theo dạng này hay dạng khác, hoặc bị mất uy tín một cách bất công, hoặc được tung hô lên tận trời cao.
157. Mưu toan xem chủ nghĩa dân túy như chìa khóa biện giải thực tại xã hội có vấn đề theo một cách khác: nó coi thường ý nghĩa chính đáng của hạn từ “nhân dân”. Bất kỳ nỗ lực nào loại bỏ khái niệm này ra khỏi cách nói thông thường đều dẫn đến việc loại trừ chính ý niệm dân chủ như là “chính phủ do nhân dân”. Nếu chúng ta ước muốn duy trì xã hội vượt lên trên một tập hợp đơn thuần gồm các cá thể, thì thuật ngữ “nhân dân” được minh định cần thiết. Những hiện tượng xã hội tạo ra nhiều khối đa số, cũng như xu thế lớn lao và biết bao khát vọng cộng đồng đang tồn tại. Đàn ông cũng như phụ nữ có khả năng đưa ra các mục tiêu chung vượt hẳn đặc điểm khác biệt của họ, do đó họ có thể tham gia vào diễn trình nỗ lực chung. Nhưng sẽ rất khó thực hiện một đề án dài hạn, trừ phi nó trở thành nguyện vọng tập thể. Mọi nhân tố này ẩn sâu dưới những từ ngữ mà chúng ta sử dụng như “nhân dân” và “được lòng dân”. Trừ phi chúng được xem xét – cùng với lời phê bình đúng đắn về trò mị dân – thì khía cạnh căn bản của thực tại xã hội sẽ bị làm ngơ.
158. Tuy nhiên, một sự hiểu lầm có thể hiện hữu ở đây. “‘Nhân dân’ chẳng phải là phạm trù luận lý học, cũng không phải là phạm trù huyền bí, nếu qua đó chúng ta muốn ám chỉ rằng mọi việc dân chúng làm đều tốt đẹp, hoặc nhân dân là một thực tại ‘như thiên thần’. Đúng hơn, nó là phạm trù huyền thoại…Khi phải giải thích điều bạn muốn nói với cụm từ nhân dân, bạn sử dụng các phạm trù luận lý học để giải nghĩa, và nhất thiết phải như vậy. Tuy nhiên, theo cách này, bạn chẳng thể nào giải thích ý nghĩa của việc thuộc về một dân tộc. Hạn từ ‘dân tộc’ mang ý nghĩa sâu sắc hơn, mà không thể phát biểu bằng các thuật ngữ luận lý học thuần túy. Trở nên một phần của dân tộc là trở thành bộ phận của bản sắc chung, phát sinh từ mối dây liên kết xã hội-văn hóa. Và đây chẳng phải tự động mà có, đúng hơn là một diễn trình tiệm tiến đầy khó khăn…hướng tới một dự án chung” [132].
159. Các nhà lãnh đạo “được lòng dân” hiện hữu, họ là những người có khả năng giải thích cảm quan, động lực văn hóa của một dân tộc, và các xu hướng quan trọng trong xã hội. Với mọi nỗ lực, việc họ phục vụ nhằm hợp nhất và lãnh đạo có thể trở thành nền tảng cho một viễn kiến lâu dài, ngõ hầu biến đổi và tăng trưởng, mà cũng bao gồm cả việc tạo không gian cho những người khác theo đuổi lợi ích chung. Nhưng điều này có thể thoái hóa thành một “chủ nghĩa dân túy” không lành mạnh, trong lúc các cá nhân khai thác nền văn hóa của một dân tộc trên bình diện chính trị, dưới bất cứ biểu ngữ ý thức hệ nào, vì lợi thế bản thân của họ hoặc nhằm tiếp tục nắm quyền. Vào những thời khắc khác, khi họ tìm kiếm sự nổi danh bằng cách kêu gọi các khuynh hướng đê hèn và ích kỷ nhất của một số bộ phận dân chúng. Điều này càng trở nên nghiêm trọng hơn khi nó đều dẫn đến việc chiếm đoạt các định chế và luật lệ, dưới bất cứ hình thức thô thiển hay tinh vi nào.
160. Những nhóm dân túy khép kín bóp méo hạn từ “nhân dân”, vì lẽ họ chẳng đề cập đến một dân tộc chân chính. Trên thực tế, “nhân dân” là một khái niệm bỏ ngỏ. Người dân năng nổ sinh động, hay một dân tộc có tương lai, luôn không ngừng cởi mở đón nhận xu hướng tổng hợp mới, thông qua khả năng hoan nghênh mọi đặc tính khác biệt. Bằng cách này, nó chẳng hề phủ nhận bản sắc riêng, nhưng mở ra với những ai đang vận động, thách thức, nới rộng và làm phong phú thêm, do đó, nó được tăng trưởng và phát triển hơn.
161. Một dấu hiệu khác của sự suy giảm khả năng lãnh đạo được lòng dân là mối quan tâm lợi thế ngắn hạn. Lợi thế đáp ứng nhu cầu thu được nhiều phiếu bầu hay ủng hộ, nhưng lại không thúc đẩy trong nỗ lực miệt mài liên tục nhằm tạo ra các nguồn tài nguyên mà người dân đang cần để phát triển, cũng như mưu sinh bằng chính nỗ lực và óc sáng tạo của họ. Về phương diện này, tôi đã nói rõ rằng “Tôi không có ý định đề xướng một chủ nghĩa dân túy vô trách nhiệm nào” [133]. Xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng đòi hỏi khả năng tăng trưởng kinh tế, mà nó hỗ trợ khai thác tiềm năng của từng khu vực, và như vậy bảo đảm sự bình đẳng lâu dài [134]. Đồng thời, “đề án phúc lợi vốn đáp ứng những nhu cầu cấp thiết nào đó, chỉ nên được xem như các đối ứng tạm thời” [135].
162. Vấn đề lớn lao nhất là công ăn việc làm. Điều thật sự “được lòng dân” – bởi lẽ nó cổ vũ lợi ích của nhân dân – cung cấp cho mọi người cơ hội dưỡng nuôi những hạt giống mà Thiên Chúa đã gieo vào trong mỗi chúng ta: các tài năng, sáng kiến và nguồn lực bẩm sinh của chúng ta. Đây là hỗ trợ tốt đẹp nhất mà chúng ta có thể chia san với người nghèo, là chặng đường tối ưu nhất dẫn tới cuộc sống phù hợp nhân phẩm. Do đó, tôi xin nhấn mạnh rằng “giúp đỡ người nghèo về mặt tài chính luôn phải là một giải pháp tạm thời trước những nhu cầu cấp bách. Mục tiêu rộng lớn hơn là trợ giúp họ có cuộc sống xứng đáng thông qua công ăn việc làm” [136]. Bởi lẽ những hệ thống sản xuất có thể thay đổi, nên các hệ thống chính trị phải tiếp tục hoạt động để định hình cấu trúc xã hội theo cách mà hết thảy mọi người đều có cơ hội đóng góp tài năng và nỗ lực của riêng mình. Vì “chẳng có cái nghèo nào tồi tệ hơn việc lấy mất việc làm và phẩm giá công việc” [137]. Trong xã hội phát triển đích thật, công ăn việc làm là một khía cạnh thiết yếu của đời sống xã hội, vì nó không chỉ là phương tiện kiếm cơm hàng ngày, mà còn là cách thức phát triển bản thân, xây dựng các mối tương quan lành mạnh, tự biểu đạt và trao đổi quà tặng thiên phú. Công ăn việc làm mang lại cho chúng ta ý thức về trách nhiệm chung đối với sự nghiệp phát triển thế giới, và sau cùng, đối với cuộc sống của chúng ta như một dân tộc.
Lợi ích và giới hạn của các phương thức tự do
163. Khái niệm “nhân dân” bao hàm tự nhiên quan điểm tích cực về các mối liên kết cộng đồng và văn hóa, thường bị những phương thức tự do của chủ nghĩa cá nhân bác bỏ, mà chúng vốn coi xã hội đơn thuần là tổng số của mọi lợi ích cùng tồn tại với nhau. Người ta nói tới sự tôn trọng tự do, nhưng nó lại không bén rễ sâu vào một trình thuật chung; trong bối cảnh nào đó, những ai bênh vực quyền lợi của mọi thành viên dễ bị tổn thương nhất trong xã hội thường bị chỉ trích là kẻ theo chủ nghĩa dân túy. Ý niệm nhân dân bị coi như một cấu trúc trừu tượng, điều gì đó chẳng thật sự tồn tại. Nhưng điều này tạo ra lưỡng phân cực không cần thiết. Chẳng thể nào đánh giá khái niệm “nhân dân” hay “người lân cận” đơn giản chỉ là trừu tượng hoặc lãng mạn thuần tuý, bằng cách thức mà tổ chức xã hội, các định chế khoa học và dân sự vốn có thể bị bác bỏ hoặc bị khinh miệt đối xử [138].164. Mặt khác, đức ái hợp nhất cả hai chiều kích – trừu tượng và định chế – vì nó đòi hỏi một diễn trình hữu hiệu thay đổi lịch sử bao trùm mọi sự: định chế, luật pháp, kỹ thuật, kinh nghiệm, chuyên môn nghề nghiệp, phân tích khoa học, thủ tục hành chính, v.v…Đối với vấn đề đó, “cuộc sống riêng tư không thể tồn tại, trừ phi nó được bảo vệ bởi trật tự công cộng. Mái ấm gia đình sẽ chẳng thực sự ấm áp, nếu nó không được bảo vệ nhờ pháp luật, bởi một trạng thái yên bình dựa trên luật pháp, và được hưởng mức an sinh tối thiểu mà cách phân công lao động, trao đổi thương mại, công bằng xã hội và quyền công dân chính trị đảm bảo” [139].
165. Bác ái chân chính có khả năng kết hợp mọi yếu tố này lại trong mối quan tâm của nó đối với tha nhân. Trong trường hợp gặp gỡ cá nhân, thậm chí những dịp liên quan đến anh chị em ở xa hoặc bị lãng quên, thì nó có thể diễn ra như vậy nhờ vận dụng mọi nguồn liệu mà các định chế của xã hội quy cũ, tự do và sáng tạo khả dĩ hình thành. Chẳng hạn, ngay cả người Sa-ma-ri-a Nhân hậu cũng cần quán trọ gần đó để ra tay giúp đỡ, mà bản thân ông không thể cung cấp. Mến yêu người lân cận thật cụ thể và chẳng lãng phí bất cứ nguồn liệu nào cần thiết nhằm mang lại lịch sử đổi thay, mà nó có thể sinh lợi cho người nghèo và ai bị thiệt thòi. Tuy nhiên, đôi lúc các ý thức hệ cánh tả hoặc những học thuyết xã hội liên kết với phương thức hành động cá nhân chủ nghĩa và thủ tục vô hiệu quả chỉ ảnh hưởng đến thiểu số, trong khi phần lớn những ai bị bỏ quên vẫn lệ thuộc vào thiện chí của người khác. Điều này chứng tỏ nhu cầu phải có tinh thần huynh đệ cao cả, nhưng cũng cần một tổ chức thế giới hữu hiệu hơn nhằm hỗ trợ giải quyết vấn đề nan giải gây tai họa cho những người bị bỏ rơi đang đau khổ và thoi thóp tại các nước nghèo. Nó cũng cho thấy không một giải pháp, không phương pháp luận duy nhất có thể được chấp nhận, không công thức kinh tế nào được áp dụng cho tất cả theo cách phân biệt đối xử. Ngay cả các nghiên cứu khoa học nghiêm ngặt nhất cũng chỉ có thể đề xướng hướng hành động khác nhau mà thôi.
166. Như vậy, mọi sự đều phụ thuộc vào khả năng của chúng ta nhìn ra nhu cầu thay đổi tâm hồn, thái độ và lối sống. Nếu không, tuyên truyền chính trị, phương tiện truyền thông và những kẻ định hình công luận sẽ tiếp tục cổ vũ một nền văn hóa cá nhân chủ nghĩa không hề phê phán, lệ thuộc lợi ích kinh tế và định chế xã hội tự tung tự tác nhằm phục vụ những ai đã thụ hưởng quá nhiều quyền lực. Các lời chỉ trích của tôi về mô hình kỹ trị bao hàm hơn cả lối suy nghĩ đơn giản cho rằng nếu chúng ta kiểm soát được những thái quá của nó thì mọi sự sẽ yên ổn. Nguy cơ lớn hơn không phát sinh từ các đối tượng chuyên biệt, thực tại hay thể chế vật chất, nhưng đến từ cách thức mà chúng được sử dụng. Nó liên quan đến sự yếu đuối con người, xu hướng thiên về thói ích kỷ, vốn là một phần của điều mà truyền thống Ki-tô giáo gọi là “tư dục”: khuynh hướng cá vị chỉ quan tâm đến bản thân, nhóm, tư lợi nhỏ nhen của mình. Tư dục chẳng phải là một thiếu sót được giới hạn ở thời đại chúng ta. Nó đã có mặt từ thuở sơ khai của nhân loại, chỉ thay đổi và khoác lên những hình dạng khác nhau qua các thời đại, vận dụng bất kể phương tiện nào mà mỗi khoảnh khắc lịch sử mang lại thôi. Tuy nhiên, chúng ta có thể vượt qua tư dục với sự trợ lực của Thiên Chúa.
167. Giáo dục và dưỡng nuôi, biết quan tâm đến tha nhân, nhìn đời toàn diện và trưởng thành tâm linh: tất cả những điều này đều thiết yếu đối với các mối tương quan con người phẩm hạnh và tạo điều kiện cho chính xã hội chống lại mọi bất công, lầm lạc và lạm dụng kinh tế, kỹ thuật, chính trị cũng như quyền lực truyền thông. Một số phương thức tự do phớt lờ nhân tố của sở đoản con người này; chúng dự kiến thế giới tuân theo nền trật tự đã được định sẵn, và tự nó khả dĩ bảo đảm tương lai tươi sáng, cũng như cung cấp giải pháp cho mọi vấn đề.
168. Thị trường tự nó chẳng thể nào giải quyết mọi vấn đề, bất luận chúng ta được yêu cầu tin vào tín điều này của tín ngưỡng theo trường phái tân tự do ra sao. Dù thử thách là gì đi chăng nữa, trường phái tư tưởng nghèo nàn lặp đi lặp lại này luôn đưa ra những công thức giống nhau. Chủ nghĩa tân tự do chỉ tự tái tạo mình bằng cách dùng đến các lý thuyết ma thuật “chảy tràn” hoặc “nhỏ giọt” – mà không dùng danh xưng – như giải pháp duy nhất cho những vấn đề xã hội. Nó ít đánh giá được thực tại này là điều viện dẫn “chảy tràn” không giải quyết tính bất bình đẳng, mà nó từng làm gia tăng loại hình bạo lực mới, đe dọa chính kết cấu của xã hội. Vì vậy, nhất thiết phải có chính sách kinh tế chủ động nhằm “cổ vũ một nền kinh tế tạo điều kiện thuận lợi cho đặc tính đa dạng chế tác và sự sáng tạo kinh doanh” [140], cũng như tạo khả thể cho công ăn việc làm luôn được dồi dào, chứ không bị cắt giảm. Về mặt căn bản, đầu cơ tài chính nhắm tới lợi nhuận nhanh chóng tiếp tục gây hại, tàn phá. Thật vậy, “nếu không có các hình thức liên đới nội bộ và tin cậy lẫn nhau, thì thị trường chẳng thể nào hoàn thành đầy đủ chức năng kinh tế tương ứng của nó. Và ngày nay sự tin tưởng này đã không còn hiện hữu” [141]. Câu chuyện chẳng hề kết thúc theo cách của nó, còn các công thức giáo điều nơi lý thuyết kinh tế hiện hành được minh định không phải là bất khả ngộ. Tính mong manh của những hệ thống hoàn cầu khi đối mặt với trận đại dịch đã lộ ra: chẳng phải mọi sự đều có thể được giải quyết bằng tự do thị trường. Ngoài việc khôi phục cuộc sống chính trị lành mạnh không bị bức chế tài chính chi phối, thì nó cũng lột tả rằng “chúng ta phải đặt nhân phẩm trở lại trọng tâm và xây dựng trên trụ cột đó các cấu trúc xã hội thay thế mà chúng ta vốn cần đến” [142].
169. Thí dụ, trong một số phương thức kinh tế khép kín và đơn sắc, dường như chẳng có chỗ cho các phong trào bình dân nhằm kết hợp những nhân công thất nghiệp, lao động tạm thời và phi chính thức, cũng như nhiều người khác không dễ dàng tìm được chỗ đứng trong các cơ cấu hiện hành. Tuy nhiên, những phong trào ấy quản lý vô số hình thức kinh tế bình dân và sản xuất cộng đồng. Điều chúng ta cần là một mô hình tham gia xã hội, chính trị và kinh tế mà “có thể bao gồm các phong trào bình dân, hầu tiếp thêm sức mạnh cho cơ cấu quản lý địa phương, quốc gia và quốc tế với dòng năng lượng đạo đức phát sinh từ hành động bao gồm cả những ai bị loại trừ trong việc xây dựng một vận mệnh chung”. Trong khi đó cũng bảo đảm để “những cảm nghiệm liên đới lớn lên từ bên dưới, từ tầng đất cái của hành tinh – có thể đến với nhau, được phối hợp nhiều hơn, tiếp tục gặp gỡ nhau” [143]. Tuy nhiên, điều này phải diễn ra theo cách thức không được trái ngược với hoạt động khác biệt của chúng, tựa “những người gieo hạt mà họ biến chuyển, cổ vũ tiến trình thu hút hàng triệu hành động lớn nhỏ, đan xen đầy sáng tạo như lời lẽ trong một bài thơ” [144]. Vậy, các phong trào thế này là “những thi sĩ xã hội”, mà họ đã làm việc, đề xướng, cổ vũ và giải phóng theo cách riêng của bản thân. Họ giúp sự phát triển con người toàn diện thành hiện thực, vượt lên trên “ý niệm xem các chính sách xã hội như chính sáchcho người nghèo, chứ chẳng bao giờ vớingười nghèo và của người nghèo, lại càng không phải là một phần của dự án nhằm tái hợp nhất mọi dân nước” [145]. Họ có thể rầy rà phiền phức, và một số “lý thuyết gia” có lẽ khó phân loại họ, nhưng chúng ta phải đủ can đảm để thừa nhận rằng, nếu không có họ, “dân chủ sẽ teo tóp, biến thành hạn từ đơn lẻ, một lề thói; nó đánh mất đặc tính biểu trưng và vỡ vụn tan rã, vì nó bỏ rơi con người trong cuộc đấu tranh giành phẩm giá hằng ngày, cũng như trong việc xây dựng tương lai của họ”.
QUYỀN LỰC QUỐC TẾ
170. Một lần nữa tôi cho rằng “cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2008 đã mang lại cơ hội phát triển nền kinh tế mới, chú ý nhiều hơn đến các nguyên tắc đạo đức, cũng như cách thức mới nhằm điều chỉnh những việc thực hành tài chính đầu cơ tích trữ và của cải ảo. Nhưng đối ứng với cuộc khủng hoảng không liên quan tới vấn đề tái xem xét các tiêu chuẩn lỗi thời, mà chúng vẫn tiếp tục thống trị thế giới” [147]. Thật vậy, dường như những chiến lược thực tế được phát triển khắp thế giới sau cuộc khủng hoảng đã cổ vũ chủ nghĩa cá nhân nhiều hơn, nhưng ít hội nhập hơn và tăng cường tự do cho kẻ nắm quyền thực sự, họ luôn tìm cách trốn thoát mà chẳng hề hấn chi.
171. Tôi cũng xin nhấn mạnh rằng “trao cho mỗi người phần của họ – trích dẫn định nghĩa cổ điển về công lý – nghĩa là không một cá nhân hay nhóm người nào có thể tự xem mình tuyệt đối, cho mình quyền phớt lờ phẩm giá và quyền lợi của các cá nhân khác hoặc những nhóm xã hội của họ. Sự phân bổ quyền lực hữu hiệu (đặc biệt quyền lực chính trị, kinh tế, quốc phòng và kỹ thuật) giữa tính đa nguyên chủ thể và việc kiến tạo một hệ thống pháp lý nhằm điều chỉnh các yêu sách và lợi ích, là một cách thức cụ thể để hạn chế quyền lực. Tuy nhiên, thế giới ngày nay trình bày cho chúng ta đầy dẫy quyền lợi sai trái và đồng thời nhiều bộ phận rộng lớn dễ bị tổn thương, những nạn nhân của quyền lực bị xử lý một cách tồi tệ” [148].
172. Thế kỷ XXI “đang chứng kiến sự suy yếu quyền lực của các nhà nước quốc gia, chủ yếu vì các bộ phận kinh tế và tài chính mang tính xuyên quốc gia thường lấn lướt bộ phận chính trị. Trước tình hình đó, điều thiết yếu là đặt ra những định chế quốc tế quy cũ hữu hiệu và chặt chẽ hơn, với các viên chức được bổ nhiệm công bằng theo thỏa thuận giữa chính phủ quốc gia, và họ cũng được trao quyền áp đặt những biện pháp trừng phạt” [149]. Khi nói tới khả năng của một số hình thức thẩm quyền thế giới được luật pháp quy định [150], chúng ta không nhất thiết phải nghĩ đến thẩm quyền cá nhân. Tuy nhiên, một cơ quan như vậy ít nhất cần cổ vũ các tổ chức thế giới hữu hiệu hơn, được trang bị với quyền hành cung ứng cho lợi ích chung hoàn cầu, xóa bỏ đói nghèo và bảo vệ chắc chắn mọi nhân quyền căn bản.
173. Về khía cạnh này, tôi cũng xin lưu ý nhu cầu cải tổ “Cơ quan Liên hiệp quốc, tương tự như các định chế kinh tế và tài chính quốc tế, ngõ hầu khái niệm gia đình của mọi quốc gia có thể được thành sự” [151]. Chẳng cần bàn luận, điều này đòi hỏi những giới hạn pháp lý rõ ràng, nhằm tránh quyền hạn chỉ cho một số quốc gia đồng chọn và ngăn chặn các áp đặt văn hóa, hoặc hạn chế quyền tự do căn bản của những nước yếu thế hơn trên cơ sở khác biệt về ý thức hệ. Vì “cộng đồng quốc tế là một cộng đồng pháp lý, được thành lập dựa trên tính chủ quyền của mỗi quốc gia thành viên, không bị ràng buộc bởi lệ thuộc mà phủ nhận hoặc hạn chế sự độc lập của quốc gia đó” [152]. Đồng thời, “theo các nguyên tắc nêu trong phần Dẫn nhập và những Điều khoản đầu tiên của Hiến chương thành lập, thì công việc của Liên hiệp quốc có thể được xem như sự phát triển và cổ vũ tính thượng tôn pháp luật, dựa trên nhận thức công lý là điều kiện thiết yếu để đạt được lý tưởng huynh đệ phổ quát…Cần phải bảo đảm nguyên tắc thượng tôn pháp luật không thể bàn cãi và bền bỉ đàm phán, hòa giải và phân xử như Hiến chương Liên hiệp quốc đã đề xướng, cấu thành nên một chuẩn mực pháp lý nền tảng thật sự” [153]. Cần phải ngăn chặn việc Cơ quan này bị phi hợp pháp hóa, vì các vấn đề cũng như thiếu sót của nó có thể được cùng nhau bàn thảo và giải quyết.
174. Lòng can đảm và quảng đại cần thiết, hầu được tự do thiết lập các mục tiêu chung và đảm bảo tuân thủ những chuẩn mực thiết yếu nhất định nào đó trên toàn thế giới. Để nó thực sự hữu ích thì cần đề cao “nhu cầu trung thành với các thỏa thuận đã được ký kết (phải tuân giữ hiệp ước [pacta sunt servanda])” [154], và tránh “lời cám dỗ nại tới luật sức mạnh hơn là sức mạnh của luật” [155]. Nghĩa là phải củng cố “những công cụ quy chuẩn, ngõ hầu mang lại giải pháp hòa bình cho các cuộc luận chiến…nhằm tăng cường phạm vi và hiệu lực trói buộc của chúng” [156]. Trong số công cụ quy chuẩn này, nên ưu tiên những hiệp định đa phương giữa các quốc gia, hơn là hiệp định song phương, vì lẽ chúng cam đoan cổ vũ cho lợi ích chung phổ quát đích thật và bảo vệ những quốc gia yếu thế hơn.
175. Nhờ Chúa quan phòng, nhiều nhóm và tổ chức trong xã hội dân sự giúp bù đắp các thiếu sót của cộng đồng quốc tế, thiếu sự phối hợp trong những tình huống phức tạp, thiếu quan tâm đến nhân quyền căn bản, cũng như mọi nhu cầu cần kíp của một số nhóm nào đó. Ở đây, chúng ta có thể thấy ứng dụng cụ thể của nguyên tắc phụ đới, mà nó minh giải cho hoạt động và tham gia của các cộng đồng cũng như tổ chức ở cấp thấp, như là phương tiện nhằm tích hợp và bổ sung cho hoạt động quốc gia. Các nhóm và tổ chức này thường tiến hành nỗ lực đáng khen trong việc phục vụ lợi ích chung, và thành viên họ đôi khi biểu lộ tinh thần anh hùng chuyên chính, đồng thời lột tả điều gì đó vĩ đại mà nhân loại chúng ta vẫn có khả năng thực hiện.
BÁC ÁI XÃ HỘI VÀ CHÍNH TRỊ
176. Đối với nhiều người ngày nay, chính trị là từ ngữ gây khó chịu, thường do những sai lầm, vấn nạn tham nhũng và tính kém hiệu quả của một số chính trị gia. Vô số toan tính làm mất uy tín chính trị tồn tại, thay thế bằng kinh tế học hoặc bóp méo nó thành ý thức hệ này hay ý thức hệ kia. Tuy nhiên, liệu thế giới chúng ta có thể hoạt động mà chẳng cần tới chính trị? Phải chăng một tiến trình tăng trưởng hữu hiệu hướng tới tình huynh đệ phổ quát và hòa bình xã hội không cần sinh hoạt chính trị lành mạnh? [157]
Nền chính trị chúng ta cần
177. Một lần nữa tôi xin nhận xét ở đây rằng “chính trị không nên lệ thuộc kinh tế, mà kinh tế cũng không nên phụ thuộc vào bức chế của mô hình kỹ trị dựa trên hiệu năng” [158]. Mặc dù phải rõ ràng bác bỏ việc lạm dụng quyền lực, tham nhũng, xem thường luật pháp và tính thiếu hiệu năng, nhưng “kinh tế mà không có chính trị thì không thể xác minh, vì điều này sẽ khiến chúng ta chẳng thể nào ủng hộ các cách thức khác trong việc xử lý vô số khía cạnh của cuộc khủng hoảng hiện nay” [159]. Thay vào đó, “một nền chính trị cần có tầm nhìn xa trông rộng và sở hữu khả năng thực hiện phương thức liên ngành, toàn diện, mới mẻ, nhằm xử lý các khía cạnh khác nhau của cuộc khủng hoảng” [160]. Nói cách khác, một “nền chính trị lành mạnh…có khả năng cải cách và phối hợp các định chế, đồng thời cổ vũ thói quen lệ thường tốt nhất và vượt qua áp lực thái quá, cũng như tính trì trệ quan liêu” [161]. Chúng ta chẳng trông mong kinh tế thực hiện điều này, nhưng cũng không cho phép kinh tế tiếp quản quyền lực thực sự của nhà nước.
178. Đối mặt với nhiều hình thức chính trị nhỏ nhen chỉ biết khư khư vào lợi ích trước mắt, tôi xin nhắc lại rằng “nghệ thuật lãnh đạo đất nước chân chính được bộc lộ trong những thời khắc nguy nan, lúc chúng ta giữ vững mọi nguyên tắc cao cả và nghĩ suy đến lợi ích chung lâu dài. Các thế lực chính trị chẳng nhận thấy việc đảm nhận nhiệm vụ này trong công cuộc xây dựng đất nước là chuyện dễ dàng” [162], lại càng không dễ dàng chút nào khi tạo ra một dự án chung cho gia đình nhân loại, ngay lúc này và trong tương lai. Nghĩ tới những hậu duệ chúng ta, họ sẽ không phục vụ mục đích bầu cử, nhưng đó là điều công lý chân chính đòi hỏi. Như chư huynh Giám mục Bồ Đào Nha từng dạy, trái đất “được mỗi thế hệ vay mượn, tiếp nhận, rồi trao lại cho thế hệ tiếp theo” [163].
179. Xã hội hoàn cầu đang khốn khổ vì những khiếm khuyết nghiêm trọng về cơ cấu, mà chúng không thể được giải quyết bằng các giải pháp từng phần hoặc sửa chữa vội vã. Quá nhiều thứ cần thay đổi, qua lối cải cách nền tảng và canh tân trọng yếu. Chỉ một nền chính trị lành mạnh bao gồm những lĩnh vực và kỹ năng đa dạng nhất mới có khả năng giám sát diễn trình này. Nền kinh tế mà là một bộ phận trọn vẹn của chương trình chính trị, xã hội, văn hóa và đại chúng hướng đến lợi ích chung, mới có thể mở đường cho “các khả thể khác nhau không dính dáng tới việc ngăn cản tính sáng tạo của con người và lý tưởng tiến bộ của nó, nhưng tốt hơn hết là điều hướng năng lực đó theo các khí cụ mới” [164].
Tình yêu chính trị
-
Thừa nhận rằng mọi người đều là anh chị em của chúng ta, và kiếm tìm các hình thức hữu nghị xã hội chấp nhận tất cả, chẳng đơn thuần là điều không tưởng. Nó đòi hỏi lời cam kết dứt khoát nhằm đưa ra những phương thế hữu hiệu cho mục đích này. Bất cứ nỗ lực nào theo đường hướng trên đều trở thành việc thực thi bác ái cao quý. Vì lẽ trong lúc các cá nhân có thể giúp đỡ tha nhân đang gặp khó khăn, khi họ cùng tham gia khởi xướng những tiến trình xã hội cổ vũ tình huynh đệ và công bằng cho mọi người, thì quả thật họ đã bước vào “lĩnh vực bác ái trên bình diện rộng lớn nhất, tức là bác ái chính trị” [165]. Điều này bao hàm hoạt động cho một trật tự xã hội và chính trị, mà linh hồn của nó chính là bác ái xã hội [166]. Lần nữa, tôi xin kêu gọi sự ngưỡng mộ mới mẻ về chính trị như “một ơn gọi cao quý và là một trong những dạng thức bác ái cao cả nhất, bởi lẽ nó tìm kiếm thiện ích chung” [167].
181. Mọi cam kết được gợi hứng nhờ học thuyết xã hội của Giáo hội đều “phát xuất từ lòng bác ái, mà theo lời dạy của Đức Giê-su, nó vốn là tổng hợp luận của toàn bộ Lề luật (x. Mt22, 36-40)” [168]. Điều này có nghĩa thừa nhận rằng “tình yêu vốn đầy ắp những cử chỉ bé nhỏ quan tâm lẫn nhau, nhưng thấm đượm tính dân sự và chính trị; hơn nữa, tự nó thể hiện trong mọi hành động nhằm xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn” [169]. Vì vậy, lòng bác ái được biểu lộ không chỉ trong những mối tương quan gần gũi thân thiết, mà còn trong “các liên hệ vĩ mô: mang tính xã hội, kinh tế và chính trị” [170].
182. Lòng bác ái chính trị này ra đời từ ý thức xã hội vượt trên mọi não trạng chủ nghĩa cá nhân: “‘Bác ái xã hội khiến chúng ta chân quý thiện ích’, nó đưa ta đi tìm kiếm lợi ích của mọi người một cách hữu hiệu, mọi người ở đây không những được xem như các cá thể hay tư nhân, mà còn được đặt trong chiều kích xã hội nhằm hợp nhất họ nữa” [171]. Mỗi chúng ta hoàn toàn là con người khi chúng ta là một phần của dân tộc; đồng thời, chẳng có dân tộc nào mà lại không tôn trọng cá tính riêng của mỗi người. “Dân tộc” và “con người” là thuật ngữ liên quan với nhau. Tuy nhiên, ngày nay tồn tại vô số mưu toan nhằm giản lược con người thành những cá nhân cô lập dễ bị thao túng bởi các thế lực chỉ biết theo đuổi lợi ích giả mạo. Nhưng trên mọi bình diện của đời sống xã hội, nền chính trị đúng đắn sẽ tìm cách xây dựng cộng đồng, nhằm điều chỉnh cũng như định hướng lại việc toàn cầu hóa, và do đó tránh được những hậu quả huỷ hoại nó.
Tình yêu hữu hiệu
-
“Bác ái xã hội” [172] khiến chúng ta có thể vươn tới nền văn minh tình thương, mà hết thảy chúng ta đều cảm nhận được lời mời gọi thông phần. Với sự thúc bách hướng tới tính phổ quát, lòng bác ái có khả năng xây dựng một thế giới mới [173]. Chẳng phải cảm tính đơn thuần, mà nó là phương thế tốt nhất nhằm khám phá những nẻo đường lành mạnh cho sự phát triển của mọi người. Bác ái xã hội là một “sức mạnh hữu năng mang nguồn cảm hứng tạo ra nhiều cách thức mới, hầu tiếp cận các vấn nạn của thế giới ngày nay, cũng như đổi mới sâu sắc những cơ cấu, tổ chức xã hội và hệ thống luật pháp từ bên trong” [174].
184. Bác ái là cốt lõi của mọi xã hội lành mạnh và cởi mở, nhưng ngày nay “nó dễ bị bác bỏ như thể không thích hợp để biện giải và đưa ra định hướng cho trách nhiệm luân lý” [175]. Khi đồng hành với lời cam kết bênh vực sự thật, lòng bác ái vượt trên cảm giác cá nhân, và do đó, chẳng cần “thành mồi nhử cho những xúc cảm và ý kiến chủ quan ngẫu nhiên” [176]. Thật vậy, mối liên hệ chặt chẽ với chân lý cổ vũ tính phổ quát của nó, và bảo toàn khỏi bị “giới hạn trong lĩnh vực hẹp hòi thiếu các mối tương quan” [177]. Còn không, nó sẽ bị “loại trừ khỏi những kế hoạch và tiến trình cổ vũ phát triển con người trên phạm vi hoàn cầu, trong cuộc đối thoại giữa tri thức và tập quán” [178]. Không có chân lý, xúc cảm thiếu vắng nội dung liên hệ và xã hội. Vì vậy, bác ái rộng mở với sự thật sẽ bảo vệ nó khỏi “chủ nghĩa duy tín, vốn tước đoạt chiều kích nhân bản và phổ quát của nó” [179].
185. Bác ái cần ánh sáng chân lý mà chúng ta không ngừng tìm kiếm. “Ánh sáng đó vừa là ánh sáng của lý trí, vừa là ánh sáng của đức tin” [180], và không thừa nhận bất cứ hình thức nào của thuyết tương đối. Tuy nhiên, nó tôn trọng sự phát triển của các ngành khoa học, cũng như những đóng góp thiết yếu của chúng trong việc tìm ra phương thế thực tiễn chắc chắn nhất để đạt được kết quả mong muốn. Vì khi lợi ích của người khác bị đe dọa, thì những ý định tốt lành thôi chưa đủ. Mọi cố gắng cụ thể phải được thực hiện, ngõ hầu mang lại bất cứ điều gì mà họ và các quốc gia của họ cần để phát triển.
THỰC THI TÌNH YÊU CHÍNH TRỊ
186. Một loại tình yêu “được luận ra” hiện hữu: những hành vi của nó phát xuất trực tiếp từ đức bác ái và hướng tới mọi cá nhân cũng như dân tộc. Mặc khác còn có tình yêu “được lệnh truyền”, mà nó bộc lộ trong hành động bác ái vốn thúc đẩy con người tạo ra các định chế lành mạnh hơn, quy định công bằng hơn, nhiều cơ cấu hỗ trợ hơn [181]. Vì vậy, “đây là một hành động yêu thương trọng yếu, không thể thiếu trong nỗ lực tổ chức và kiến tạo cơ cấu xã hội, ngõ hầu người lân cận sẽ chẳng còn thấy mình đang cơ cực nữa” [182]. Vốn là hành động yêu thương nhằm giúp đỡ ai đau khổ, nhưng nó cũng là hành vi bác ái, ngay cả khi chúng ta không biết đến người ấy, hầu làm thay đổi các điều kiện xã hội đã gây ra khổ đau. Nếu ai đó giúp cụ già qua sông, thì đấy là nghĩa cử bác ái tốt lành. Mặt khác, chính trị gia nào xây dựng bắt cầu, thì đó cũng là hành vi bác ái. Trong khi một người có thể giúp đỡ tha nhân bằng cách mang lại của ăn, thì chính trị gia tạo ra việc làm cho người khác, và thực hành loại hình bác ái cao quý, mà nó tôn vinh hoạt động chính trị của ông/bà ấy.
Hy sinh từ đức mến
-
Vốn là cốt lõi thiêng liêng của nền chính trị, đức ái luôn là tình yêu ưu tiên dành cho những ai thiếu thốn nhất; nó củng cố mọi việc chúng ta làm thay cho họ [183]. Chỉ một ánh nhìn mà đức ái cải hoá mới có thể giúp nhận ra phẩm giá của tha nhân, do đó, người nghèo được thừa nhận và đánh giá cao trong nhân phẩm, được tôn trọng nơi bản sắc và nền văn hóa của họ, rồi họ thực sự hòa nhập vào xã hội. Cái nhìn này là trọng tâm của tinh thần chính trị chân chính. Nó trông thấy những nẻo đường rộng mở, khác biệt với lối đi của chủ nghĩa thực dụng vô hồn. Điều này khiến chúng ta nhận ra rằng “vụ tai tiếng đói khổ chẳng thể giải nào quyết bằng cách cổ vũ các chiến lược ngăn chặn mà vốn chỉ làm an lòng người nghèo, thuần phục họ và không gây hại. Buồn biết bao khi chúng ta phát hiện đằng sau những công việc được cho là đầy ắp lòng vị tha, lại giản lược, đẩy tha nhân vào tình trạng thụ động” [184]. Các lộ trình mới cần thiết giúp họ tự thể hiện và tham gia vào xã hội. Công cuộc giáo dục phục vụ những điều này bằng cách hỗ trợ mỗi người định hình tương lai của chính mình. Tương tự ở đây, chúng ta cũng thấy được tầm quan trọng của nguyên tắc phụ đới, mà nó không thể tách rời khỏi nguyên tắc liên đới.
188. Những xem xét trên giúp chúng ta nhận ra nhu cầu cấp thiết phải chống lại mọi đe dọa hoặc xâm phạm đến các nhân quyền căn bản. Chính trị gia được kêu gọi “chăm lo nhu cầu của từng cá nhân và cả dân tộc. Phục vụ những ai đang gặp túng thiếu đòi hỏi sức mạnh và sự ân cần, nỗ lực và lòng quảng đại giữa một não trạng duy chức năng và tư hữu hóa, mà nó hiển nhiên dẫn tới ‘nền văn hóa vứt bỏ’…Điều này đòi hỏi tinh thần chịu trách nhiệm với thời hiện tại vốn đầy dẫy tình cảnh bị gạt ra ngoài hoàn toàn và gây ra bao nỗi lo âu xao xuyến, cũng như bao gồm khả năng mang lại phẩm giá cho nó” [185]. Tương tự, nó tạo ra nỗ lực mãnh liệt nhằm bảo đảm rằng “mọi thứ được thực hiện để bảo vệ cương vị xã hội và phẩm giá con người” [186]. Chính trị gia là những người hành động, những nhà kiến thiết với các mục tiêu đầy tham vọng, sở hữu tầm nhìn bao quát, thực tiễn và thực tế, vượt qua biên giới của xứ sở họ. Mối quan tâm lớn lao nhất của chính trị gia chẳng phải kết quả sụt giảm trong các cuộc thăm dò, mà là tìm ra giải pháp hữu hiệu cho “hiện tượng loại trừ kinh tế-xã hội, đầy những hậu quả đáng buồn như: nạn buôn người, buôn bán bộ phận và tế bào mô con người, tình trạng bóc lột tình dục trẻ em gái trai, lao động nô dịch, bao gồm cả nạn mại dâm, buôn bán ma túy vũ khí, khủng bố và tội phạm quốc tế có tổ chức. Mức độ nghiêm trọng của những tình trạng này, và chỉ số sinh mạng vô tội tử vong, mà chúng ta phải tránh mọi cám dỗ, đừng sa vào thuyết duy danh của những kẻ chỉ đưa ra tuyên bố nhằm giải khuây lương tâm của chúng ta. Cần bảo đảm các định chế của chúng ta thực sự hữu hiệu trong cuộc đấu tranh chống lại tất cả những tai họa này” [187]. Và như vậy, nó đòi hỏi tận dụng khôn khéo các nguồn tài nguyên bao la nhờ những tiến bộ kỹ thuật mang lại.
189. Chúng ta vẫn còn cách xa với tính hoàn cầu hóa các nhân quyền căn bản nhất. Đó là lý do tại sao chính trị thế giới cần phải biến việc xóa bỏ hữu hiệu nạn đói thành một trong những mục tiêu hàng đầu và cấp bách của nó. Thật vậy, “khi đầu cơ tài chính thao túng giá cả lương thực, xem nó như một loại hàng hóa khác, thì hàng triệu người đau khổ và chết vì đói. Đồng thời, hàng tấn thức ăn bị vứt bỏ. Điều này tạo ra tai tiếng thực sự. Nạn đói là một tội ác; còn thực phẩm là quyền bất khả chuyển nhượng” [188]. Trong khi tiếp tục tranh cãi về ngữ nghĩa hoặc ý thức hệ, thông thường chúng ta đã để anh chị em mình chết vì đói khát, rơi vào cảnh màn trời chiếu đất hoặc chẳng được chăm sóc sức khỏe. Bên cạnh những nhu cầu căn bản vẫn chưa được đáp ứng này, nạn buôn người còn biểu trưng cho một căn nguyên tủi nhục khác đối với nhân loại, mà nó mang tầm vóc chính trị quốc tế, vượt lên trên các diễn từ đẹp đẽ và ý hướng tốt lành, ắt hẳn chẳng dễ dàng bỏ qua. Những điều này rất quan trọng và không được trì hoãn nữa.
Tình yêu hòa nhập và hợp nhất
-
Bác ái chính trị còn được bộc lộ qua tinh thần cởi mở với hết mọi người. Các nhà lãnh đạo chính phủ nên tiên phong thực thi những hy sinh cổ vũ gặp gỡ và tìm kiếm sự đồng thuận ít nhất về một số vấn đề. Họ nên sẵn sàng lắng nghe các quan điểm khác và tạo cơ hội cho mọi người. Qua sự hy sinh và tính nhẫn nại, họ có thể trợ giúp kiến tạo một thực tại đa diện tươi đẹp, mà nơi đó mọi người đều có chỗ đứng. Ở điểm này, các cuộc đàm phán kinh tế không hữu hiệu, đòi hỏi một điều khác, đó là: trao đổi tài năng vì lợi ích chung. Trông nó có vẻ ngây ngô và không tưởng, nhưng chúng ta chẳng thể nào từ bỏ mục tiêu cao cả này.
191. Vào thời điểm mà vô số loại hình bất khoan dung cực đoan đang gây hại cho các mối liên hệ giữa những cá nhân, nhóm và dân tộc, chúng ta hãy cùng cam kết sống và giảng dạy giá trị của việc tôn trọng tha nhân, một tình yêu sẵn sàng chào đón những khác biệt, cũng như ưu tiên phẩm giá của mỗi con người hơn các ý tưởng, quan điểm, tập quán và ngay cả tội lỗi họ. Thậm chí khi vô số hình thức cuồng tín, sống khép kín và tình trạng phân hóa xã hội-văn hóa ngày càng gia tăng trong xã hội ngày nay, thì một chính trị gia tốt sẽ tiên phong, cũng như nhấn mạnh tới việc chú tâm lắng nghe các tiếng nói khác nhau. Những bất đồng có thể gây ra xung đột, nhưng tính độc dạng lại chứng tỏ ngột ngạt và dẫn đến suy đồi văn hóa. Ước gì chúng ta đừng an vị với tình cảnh tự đóng khung trong một phân mảnh thực tại.
192. Về khía cạnh này, vị Imam Đáng kính Ahmad Al-Tayyeb và tôi đã kêu gọi “các kiến trúc sư của chính sách quốc tế và nền kinh tế thế giới làm việc tích cực, hầu truyền bá nền văn hóa khoan dung và chung sống trong hòa bình; cũng như can thiệp sớm nhất có thể nhằm ngăn chặn việc đổ máu người vô tội” [189]. Khi một chính sách chuyên biệt nhân danh phúc lợi quốc gia mình mà gieo rắc hận thù và sợ hãi đối với các quốc gia khác, thì cần quan tâm tới nó, ngõ hầu phản ứng kịp thời và ngay lập tức để hiệu chỉnh đường lối.
KẾT QUẢ LÀ THỨ YẾU SO VỚI TÍNH ĐƠM HOA KẾT TRÁI
-
Ngoài hoạt động không mệt mỏi, các chính trị gia cũng là những người đàn ông và phụ nữ bình thường. Nhưng họ được mời gọi thực thi bác ái trong các mối tương quan liên ngã hàng ngày. Là tư cách con người, họ cần cân nhắc: “thế giới hiện đại, với những tiến bộ kỹ thuật, ngày càng thiên về vận hành tính thỏa mãn khát khao của con người, hiện được xếp loại và phân chia giữa nhiều dịch vụ khác nhau. Người ta ngày càng ít được gọi bằng tên, hữu thể độc nhất này ít được đối xử như một con người có những xúc cảm, buồn đau, vấn đề nan giải, niềm vui và gia đình họ. Bệnh tình của họ chỉ được biết đến để chữa trị, tài chính của họ chỉ cần lo chu cấp, hiện trạng thiếu mái ấm gia đình chỉ mang lại cho họ nơi tá túc, mong muốn tiêu khiển và giải trí của họ chỉ là để thỏa mãn chúng”. Tuy nhiên, không bao giờ được quên rằng “yêu thương những ai tầm thường nhất như người anh em/chị em, như thể chẳng có ai khác trên thế giới này ngoài anh/chị ấy, thì không thể bị coi là lãng phí thời gian” [190].
194. Chính trị cũng phải dành chỗ cho tình mến tha nhân dịu dàng. “Nét dịu dàng là gì? Đó là đức ái gần gũi và trở thành hiện thực. Một chuyển động bắt đầu từ con tim chúng ta, rồi đến đôi mắt, đôi tai và đôi tay…Sự dịu dàng là lộ trình ưu tuyển của những người đàn ông và phụ nữ mạnh mẽ, can đảm nhất” [191]. Giữa lo toan thường nhật nơi đời sống chính trị, “người bé mọn nhất, người yếu đuối nhất, người nghèo khổ nhất ắt hẳn đánh động tâm hồn chúng ta: quả thật, họ có ‘quyền’ thỉnh cầu con tim và linh hồn chúng ta. Họ là anh chị em chúng ta, như vậy, chúng ta phải yêu thương và chăm sóc họ” [192].
195. Tất cả sự việc này có lẽ giúp chúng ta nhận ra điều quan trọng chẳng phải là liên tục đạt được những kết quả lớn lao, vì đâu hẳn lúc nào chúng cũng khả hữu. Trong hoạt động chính trị, chúng ta nên nhớ rằng, “bất luận diện mạo ra sao, mỗi người đều hết sức tốt lành và đáng được chúng ta yêu mến. Do đó, nếu tôi có thể giúp đỡ ít nhất một người có cuộc sống tốt đẹp hơn, thì điều đó đã minh chứng cho sự cống hiến đời tôi. Được trở nên dân Chúa tín trung quả là điều kỳ diệu. Chúng ta đạt tới mức trọn vẹn khi giật sập tường luỹ và tâm hồn ta tràn ngập bao nhân diện và danh tánh!” [193]. Các mục tiêu to lớn trong ước mơ và kế hoạch của chúng ta có thể chỉ đạt được một phần. Tuy nhiên trên cả điều này, những ai yêu mến, và những người không còn xem chính trị đơn thuần là truy tìm quyền lực, thì “có lẽ chắc rằng chẳng một hành vi bác ái, cũng như bất cứ hành động quan tâm chân thành nào của chúng ta đối với người khác lại bị mất hút. Không một hành vi yêu thương nào đối với Thiên Chúa sẽ mất đi, không nỗ lực quảng đại nào là vô nghĩa, không có sự chịu đựng đau đớn nào bị lãng phí cả. Tất cả những điều này đều bao quanh thế giới chúng ta như một sinh lực” [194].
196. Vì lý do này, thật sự cao thượng khi đặt niềm hy vọng vào sức mạnh tiềm ẩn của những hạt giống thiện hảo chúng ta gieo trồng, và do đó, khởi đầu các diễn trình mà thành quả của chúng sẽ được người khác gặt hái. Nền chính trị tốt đẹp kết hợp tình yêu với lòng hy vọng và với niềm tin trong kho thiện hảo vốn hiện diện nơi tâm hồn con người. Thật vậy, “được xây dựng trên việc tôn trọng luật pháp và đối thoại thẳng thắn giữa các cá nhân, đời sống chính trị chân chính liên tục được đổi mới, bất cứ lúc nào nhận ra mỗi phụ nữ và đàn ông, cũng như mỗi thế hệ nối tiếp, đều mang lại hứa hẹn của vô vàn năng lực mới mẻ đậm chất liên kết, trí thức, văn hóa và tâm linh” [195].
197. Theo lối nhìn này, chính trị là một điều gì đó cao quý hơn những kiểu tạo dáng, tiếp thị và truyền thông xoay quanh. Các trò này chẳng gieo rắc gì ngoài sự chia rẽ, xung đột và thói hoài nghi ảm đạm không thể huy động mọi người theo đuổi mục tiêu chung. Lúc nghĩ đến tương lai, đôi khi chúng ta nên tự hỏi bản thân, “Tại sao tôi làm điều này?”, “Mục tiêu thực sự của tôi là gì?” Vì thời gian trôi qua, ngẫm lại quá khứ, các nghi vấn sẽ chẳng phải là: “Bao nhiêu người tán thành tôi?”, “Bao nhiêu người đã bỏ phiếu cho tôi?”, “Bao nhiêu người sở hữu hình ảnh tích cực về tôi?” Nhưng câu hỏi thực sự, và ẩn tàng nỗi đau sẽ là, “Tôi đã đặt bao nhiêu tình yêu thương vào công việc của mình?” “Tôi đã làm gì cho sự tiến bộ của dân tộc chúng ta?” “Tôi đã để lại dấu ấn gì trong đời sống xã hội?” “Tôi đã tạo ra mối liên kết thực sự nào?” “Tôi đã giải phóng những năng lượng tích cực nào?” “Tôi đã gieo hạt giống an bình xã hội ít nhiều ra sao?” “Tại chức vụ được giao phó, tôi đã hoàn thành được điều gì tốt đẹp?”
Chuyển ngữ: Lm. Xuân Hy Vọng
CHÚ THÍCH:
[132] ANTONIO SPADARO, S.J., Le orme di un pastore. Una conversazione con Papa Francesco [tạm dịch: Dấu chân Mục tử. Hội đàm với Đức Thánh Cha Phan-xi-cô], trong JORGE MARIO BERGOLIO – GIÁO HOÀNG PHAN-XI-CÔ, Nei tuoi occhi è la mia parola. Omelie e discorsi di Buenos Aires 1999-2013 [tạm dịch: Lời tôi trong đôi mắt bạn. Bài giảng và Diễn thuyết tại Bu-ê-nos Ai-res 1999-2013], Rizzoli, Milan 2016, XVI; x. Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013), 220-221: AAS 105 (2013), 1110-1111.
[133] Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013), 204: AAS 105 (2013), 1106.
[134] x, Nt: AAS 105 (2013), 1105-1106.
[135] Nt, 202: AAS 105 (2013), 1105.
[136] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 128: AAS 107 (2015), 898.
[137] Diễn văn dành cho các Phái bộ Ngoại giao tại Tòa Thánh (12/1/2015): AAS 107 (2015), 165; x. Diễn văn dành cho Tham dự viên Buổi gặp gỡ các Phong trào Giáo dân Thế giới (28/10/2014): AAS 106 (2014), 851-859.
[138] Điểm tương tự có lẽ được trưng dẫn về phạm trù Kinh Thánh của Nước Thiên Chúa.
[139] PAUL RICOEUR, Histoire et Verité (Lịch sử và Chân lý), Le Seuil biên soạn, Paris, 1967, 122.
[140] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 129: AAS 107 (2015), 899.
[141] Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29/6/2009), 35: AAS 101 (2009), 670.
[142] Diễn văn dành cho Tham dự viên Buổi gặp gỡ các Phong trào Giáo dân Thế giới (28/10/2014): AAS 106 (2014), 858.
[143] Nt.
[144] Diễn văn dành cho Tham dự viên Buổi gặp gỡ các Phong trào Giáo dân Thế giới (5/11/2016): Tờ Quan sát Viên Rô-ma, 7-8/11/2016, tr. 4-5.
[145] Nt.
[146] Nt.
[147] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 189: AAS 107 (2015), 922.
[148] Diễn văn dành cho các Thành viên Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York (25/9/2015): AAS 107 (2015), 1037.
[149] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 175: AAS 107 (2015), 916-917.
[150] x. Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29/6/2009), 67: AAS 101 (2009), 700-701.
[151] Nt: AAS 101 (2009), 700.
[152] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công giáo, 434.
[153] Diễn văn dành cho các Thành viên Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York (25/9/2015): AAS 107 (2015), 1037, 1041.
[154] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công giáo, 437.
[155] Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II, Sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế giới 2004, 5: AAS 96 (2004), 117.
[156] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công giáo, 439.
[157] x. Ủy ban Xã hội trực thuộc Hội đồng Giám mục Pháp, Tuyên ngôn Réhabiliter la Politique [tạm dịch: Phục hồi Chính sách] (17/2/1999).
[158] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 189: AAS 107 (2015), 922.
[159] Nt, 196: AAS 107 (2015), 925.
[160] Nt, 197: AAS 107 (2015), 925.
[161] Nt, 181: AAS 107 (2015), 919.
[162] Nt, 178: AAS 107 (2015), 918.
[163] Hội đồng Giám mục Bồ Đào Nha, Thư Mục vụ Responsabilidade Solidária pelo Bem Comum [tạm dịch: Trách nhiệm Hợp nhất vì Thiện ích chung] (15/9/2003), 20; x. Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 159: AAS 107 (2015), 911.
[164] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 191: AAS 107 (2015), 923.
[165] Giáo hoàng Pi-ô XI, Diễn văn với Liên đoàn Sinh viên Đại học Công Giáo Ý (18/12/1927): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 23/12/1927, tr. 3.
[166] x. Giáo hoàng Pi-ô, Thông điệp Quadragesimo Anno (15/5/1931): AAS 23 (1931), 206-207.
[167] Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013), 205: AAS 105 (2013), 1106.
[168] Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29/6/2009), 2: AAS 101 (2009), 642.
[169] Thông điệp Laudato Si’ (24/5/2015), 231: AAS 107 (2015), 937.
[170] Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29/6/2009), 2: AAS 101 (2009), 642.
[171] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công giáo, 207.
[172] Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Redemptor Hominis (4/3/1979), 15: AAS 71 (1979), 288.
[173] x. Thánh Giáo hoàng Phao-lô VI, Thông điệp Populorum Progressio (26/3/1967), 44: AAS 59 (1967), 279.
[174] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công giáo, 207.
[175] Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29/6/2009), 2: AAS 101 (2009), 642.
[176] Nt, 3: AAS 101 (2009), 643.
[177] Nt, 4: AAS 101 (2009), 643.
[178] Nt.
[179] Nt, 3: AAS 101 (2009), 643.
[180] Nt: AAS 101 (2009), 642.
[181] Theo giáo huấn của Thánh Tô-ma A-qui-nô, giáo thuyết luân lý Công Giáo phân biệt giữa các hành vi “được luận ra” và “được lệnh truyền”; x. Tổng luận Thần học, I-II, câu hỏi 8-17; M. ZALBA, S.J., Theologiae Moralis Summa. Theologia Moralis Fundamentalis. Tractatus de Virtutibus Theologicis [tạm dịch: Tổng luận Thần học Luân lý. Thần học Luân lý Đại cương. Luận văn về Nhân đức Đối Thần], BAC biên soạn, Madrid, 1952, tập I, 69; A. ROYO MARÍN, Teología de la Perfección Cristiana [tạm dịch: Thần học của việc Nên trọn của Ki-tô hữu], BAC biên soạn, Madrid, 1962, 192-196.
[182] Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo Hội Công giáo, 208.
[183] x. Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (30/12/1987), 42: AAS 80 (1988), 572-574; Thông điệp Centesimus Annus (1/5/1991), 11: AAS 83 (1991), 806-807.
[184] Diễn văn dành cho Tham dự viên Buổi gặp gỡ các Phong trào Giáo dân Thế giới (28/10/2014): AAS 106 (2014), 852.
185] Diễn văn tại Nghị viện Âu Châu, Strasbourg (25/11/2014): AAS 106 (2014), 999.
[186] Diễn văn tại cuộc Gặp gỡ các Chính quyền và Ngoại giao đoàn ở Cộng Hòa Trung Phi, Bangui (29/11/2015): AAS 107 (2015), 1320.
[187] Diễn văn tại Liên Hiệp Quốc, New York (25/9/2015): AAS 107 (2015), 1039.
[188] Diễn văn dành cho Tham dự viên Buổi gặp gỡ các Phong trào Giáo dân Thế giới (28/10/2014): AAS 106 (2014), 853.
[189] Văn thư về Tình huynh đệ Nhân bản cho Nền hòa bình Thế giới và Chung sống, Abu Dhabi (4/2/2019): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 4-5/2/2019, tr. 6.
[190] RENÉ VOILLAUME, Frères de tous [tạm dịch: Anh em hết thảy mọi người], Cerf biên soạn, Paris, 1968, 12-13.
[191] Diễn văn Video dành cho Hội nghị TED tại Vancouver (26/4/2017): Tờ Quan sát viên, 27/4/2017, tr. 7.
[192] Yết kiến chung (18/2/2015): Tờ Quan sát viên Rô-ma, 19/2/2015, tr. 8.
[193] Tông huấn Evangelii Gaudium (24/11/2013), 274: AAS 105 (2013), 1130.
[194] Nt, 279: AAS 105 (2013), 1132.
[195] Sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế giới 2019 (8/12/2018), 5: Tờ Quan sát viên Rô-ma, 19/12/2018, tr. 8.