MỘT CHUYẾN HÀNH HƯƠNG

Biết ly chi cm mến

Biết ly chi báo đn

Hng ân Chúa cao vi

Chúa đã làm cho gia đình con.

       Ngày 23 tháng 12 năm 2017 từ phi trường Narita, gia đình tôi mang theo nỗi háo hức, tò mò lên máy bay tiến về Đất Thánh. Miền đất với biết bao sự kỳ bí mà con người cần khám phá.

Sau chuyến bay dài gần 20 tiếng, chúng tôi đã đến phi trường Tel Aviv-Do Thái, kiến trúc phi trường rất mới lạ, vừa hiện đại vừa truyền thống đan xen.

Từ phi trường, chạy trên đoạn đường khoảng 80km, con đã tới được BêLem-nơi đây hơn 2000 năm trước -Đấng Emmanuel đã Giáng Sinh đem sứ điệp bình an đến cho nhân loại. Với một tâm thái háo hức con vội vàng hướng đến BêLem, vì quy về Cựu Ước, Bêlem là nơi sinh và cũng là nơi xức dầu phong vương của Đavid, tổ phụ lập quốc của dân Do Thái.

Đavid sinh ra ở BêLem cũng giống như Chúa Kitô sinh ra ở đây. Đavid là vua dẫn dân về Giêrusalem lập quốc, khai sinh ra dân tộc Do Thái thế nào thì Đức Kitô cũng khai nguồn một Nước Trời mới như thế.

Từ BêLem, hai vì sao đã xuất hiện, ngôi sao Đavid và ngôi sao Giáng Sinh của Chúa Kitô.

Còn BêLem hôm nay, đầy những trạm gác quân sự -checkpoint-. Từ Giêrusalem ở cổng Damacus có một trạm xe bus, mất khoảng 40 phút là tới trạm gác quân sự (checkpoint) .

Checkpoint là cửa khẩu của một bức tường bê tông cốt sắt. Người Do Thái xây tường bao vây người Palestin khắp nơi. Những dải tường bê tông cao khoảng bẩy, tám mét. Tại checkpoint có lính kiểm soát giấy tờ, có camera theo dõi. Qua khỏi trạm gác là thấy ngay cái khổ của dân Palestin. Người Do Thái tìm cách cô lập kinh tế và đời sống xã hội để dân Palestin phải chết dần mòn. BêLem nghèo, hầu hết là thất nghiệp. Thế mà ở BêLem có:

*Đền Thờ Giáng Sinh :

Năm 326 :Đền thờ kính mầu nhiệm Giáng Sinh đầu tiên được hoàng hậu Helena là mẹ vua Constantine xây. Trải qua ngày tháng thăng trầm, đền thờ bị quân Samaritan tàn phá.

Năm 529: thờ hiện tại được xây do vua Justinian (527-565). Đền thờ xây theo hình thánh giá, chiều dài 54m, rộng 26m và chiều ngang rộng 35m. Bước vào cửa đền thờ là bốn hàng cột uy nghiêm cao 6m. Đây là nhà thờ cổ xưa nhất còn sót lại ,sau những thế kỷ chiến tranh tàn phá.

Năm 619: Quân Persians xâm chiếm Palestin, họ phá hết các đền thờ, nhưng khi thấy trên tường Đền Thờ Giáng Sinh BêLem vẽ hình Ba Vua ăn mặc theo văn hoá người Persians của họ, họ đã không phá hủy, vì thế đền thờ còn sót lại cho đến hôm nay, dĩ nhiên đã được tu sửa lại.

Năm 1095-1291: Thời kỳ Đạo Binh Thánh Giá, đền thờ được nâng cấp tu sửa. Những thế kỷ sau, nhiều thế lực tranh giành, hai thế lực lớn là các thầy Dòng Phanxicô và Chính Thống Hy Lạp.

Năm 1757: Đền thờ từ các thầy Dòng Phanxicô, rơi vào tay Chính Thống Giáo, cho tới ngày hôm nay.

Giữa gian cung thánh đền thờ , ngay dưới bàn thờ chính , nằm sâu dưới lòng đất là nơi Chúa sinh ra. Nơi Chúa sinh ra được đánh dấu bằng ngôi sao bạc 14 cánh trên đá cẩm thạch. Trên ngôi sao là hàng chữ khắc bằng tiếng Latin: “NƠI NÀY ĐỨC TRINH NỮ MARIA ĐÃ HẠ SINH CHÚA GIÊSU KITO “Hang đá rộng chừng 3m, dài 12m. Có một di tích độc đáo khác là cửa vào Đền thờ. Một Đại Vương Cung Thánh Đường quan trọng như thế mà hôm nay không có cửa vào, chỉ có một cửa nhỏ, khoảng một mét hai, phải cúi khom lưng để chui vào. Có hai truyền thuyết nói như sau: Một là tránh không cho quân lính cưỡi ngựa vào; Hai là để ai muốn vào thì phải cúi đầu tỏ lòng kính trọng.

Bên cạnh dính liền với đền thờ Giáng Sinh là đền thờ thánh Catarina được xây năm 1882, do các thầy Phanxicô trông coi. Đêm Giáng Sinh , Công Giáo dâng lễ tại đền thờ này.

Đền thờ Giáng Sinh do Chính Thống Giáo quản nhiệm . Dưới lòng đất còn có nguyện đường kính thánh Giuse, nguyện đường kính các thánh Anh Hài và bàn thờ kính thánh Jerome.Vào năm 388 Thánh Jerome trở lại Palestine sống suốt quãng đời 32 năm khổ hạnh cho đến chết trong hang đá cạnh nơi Chúa Giáng Sinh. Công trình vĩ đại Ngài để lại cho Giáo Hội là bản dịch toàn bộ Kinh Thánh sang tiếng Latin mà chúng ta có hôm nay.

Một chút cảm nghiệm: không bao giờ chúng tôi nghĩ mình có cơ hội tham dự Thánh Lễ Giáng Sinh tại nhà thờ Bêlem, nơi Chúa Giêsu sinh ra, thế mà không có gì là không thể đối với Chúa, tạ ơn Ngài vì hồng phúc Ngài ban cho gia đình con. Không thể diễn tả được niềm vui sướng khi cầm tấm vé để có thể vào Vương cung Thánh đường Bêlem tham dự Thánh lễ Giáng sinh đêm 24, một nỗi sung sướng hạnh phúc vỡ oà trong tim. 12 giờ đêm mới bắt đầu Thánh Lễ, thế mà mới 8 giờ tối, phái đoàn của chúng con đã vội vàng đi cho sớm để xí chỗ (hi hi hì..), nhưng mà người tính không bằng trời tính, vừa ra khỏi nhà trọ trời đổ mưa, cả nhóm chỉ có một cây dù, thôi cũng không sao chúng ta cùng nhau chạy chỉ có 10 phút thôi mà, đến nhà thờ gặp ngay trạm gác của quân lính Palestine, họ nhất định không cho vào, nào là mưa, nào là quân lính không cho vào lòng háo hức đã vơi một nửa. Tự an ủi thôi ráng chờ một chút, nhưng mà Chúa như muốn thử lòng kiên nhẫn. Mưa mỗi lúc một to, gió rét lúc này mọi người đã hết kiên nhẫn, bắt đầu đã có tiếng la hét, một số người đã bỏ về, lúc này nhìn lại mấy đứa con, con lo lắng chỉ sợ chúng ngã bệnh thì sao! Hay là mình đi về không chờ tham dự Thánh Lễ nữa! Nhưng mà chính lúc muốn bỏ về vì thương con, tôi mới cảm nghiệm được nỗi lo lắng khổ cực của Mẹ Maria và Thánh Giuse, trong đêm đông giá lạnh không tìm được chỗ trong quán trọ. Một người phụ nữ lúc lâm bồn mà không có chỗ dừng chân sẽ tủi thân đến chừng nào, huống chi người con mà Mẹ cưu mang lại là Vua trên hết các Vua, là Chúa trên hết các Chúa, mà chỗ trọ cũng không có, phải mượn tạm hang bò lừa hôi hám, thế mà Mẹ vẫn không một lời than van, vẫn tin tưởng phó thác vào Chúa. “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa …,,”, Tâm tư con chợt bừng tỉnh và tiếp tục đứng chờ dưới mưa với một tâm hồn bình an và phó thác. Sau hơn một tiếng chờ dưới mưa cuối cùng gia đình con cũng được vào nhà thờ Bêlem đúng đêm huyền diệu, đêm an lành.

Một điều tuyệt vời Chúa ban là dù mọi người ướt nhẹp nhưng mà không một ai trong nhóm bị bệnh. Tạ ơn Chúa, và xin Ngài tiếp tục củng cố Đức Tin cho chúng con Amen .

Minh Hằng

GIÁNG SINH LÀ TIỆC MỪNG CỦA ĐỨC TIN

Trong bài “Lời chúc Giáng Sinh của Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô với các thành viên của Giáo Triều Rô-ma” (Giu-se Thẩm Nguyễn), Vietcatholic ngày 21 tháng 12 năm 2017, có viết: “Giáng SinhTiệc Mừng của Đức Tin”. Ta cùng tìm hiểu và suy nghĩ về việc này.

Nói đến Tiệc Mừng, thì nói đến Bữa Tiệc và sự Vui Mừng. “Giáng sinh là Tiệc Mừng của Đức Tin” nghĩa là Giáng Sinh là Bữa Tiệc của Đức Tin; Giáng Sinh là sự Vui Mừng của Đức Tin. Tại sao Đức Giáo Hoàng lại nói: “Giáng Sinh là Tiệc Mừng của Đức Tin”?

Giáng Sinh là sự Vui Mừng của Đức Tin

Giáng Sinh là niềm vui. Vui vì Thiên Chúa làm người; vui vì Thiên Chúa đã ở cùng chúng ta : “Em-ma-nu-en”; vui vì kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đã bắt đầu cách âm thầm qua việc Truyền Tin và khởi đầu cách công khai qua việc Chúa Giáng Sinh. Mừng vì con người chúng ta được cứu độ. Vì để cứu độ con người chúng ta, Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Điều đó làm cho chúng ta vui mừng. Dĩ nhiên là chúng ta phải tin vào Thiên Chúa, tin vào Hài Nhi Giê-su, nghĩa là phải có Đức Tin. Do đó gọi Giáng Sinh là sự vui mừng của Đức Tin. Nói cách khác, có đức tin ta mới có thể hưởng được niềm vui đó.

Giáng Sinh là Bữa Tiệc của Đức Tin.

Đức Tin sẽ tìm được gì, sẽ ăn được gì nơi Bữa Tiệc này; nơi máng cỏ; nơi Hài Đồng Giê-su cho thân xác, linh hồn, thần trí và cho cuộc sống đức tin của ta ?

Đức Tin tìm được nơi máng cỏ, của ăn cho thân xác chúng ta là Mình và Máu Đức Ki-tô, tức là Thánh Thể. Thánh Thể này được được khởi đầu nơi cung lòng của Đức Ma-ri-a; tiếp đó là Một Trẻ Thơ nơi máng cỏ, sau đó được hiến tế thên Thập Giá và bây giờ trong Thánh Lễ.

Đức Tin tìm được nơi hang đá bò lừa một của ăn cho linh hồn, cho thần trí chúng ta là món ăn tinh thần, là Lời của Thiên Chúa. Hài Nhi Giê-su chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa mà: “Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta”(x.Ga 1,14)

Đức Tin tìm thấy được nơi chuồng bò giá lạnh, những nhân đức nơi Hài Nhi Giê-su, những nhân đức đó là:

Nhân đức từ bỏ. Hài Nhi Giê-su đã từ bỏ ngai trời; từ bỏ thân phận của một Vì Thiên Chúa để xuống thế làm người. Ta cũng hãy biết từ bỏ chính mình; từ bỏ tính kiêu căng ngạo mạn của mình.

Nhân đức khó nghèo. Hài Nhi Giê-su đã tự nguyện sống nghèo của kiếp người, sinh nơi hang đá bò lừa, không nhà không cửa; không tiện nghi, không giàu có. Ta hãy noi gương Ngài để sống tinh thần khó nghèo trong cuộc sống mình.

Nhân đức vâng phục. Hài Nhi Giê-su đã vâng phục Thiên Chúa, để thưa xin vâng: “Này con đây, con đến để thi hành thánh ý Cha”(x.Dt 10,9). Ta cũng hãy noi gương Chúa để sống tinh thần vâng phục trong ơn gọi sống đời hôn nhân cũng như ơn gọi tu trì.

Nhân đức khiêm nhường. Hài Nhi Giê-su đã khiêm nhường hạ mình nên bé nhỏ như trẻ thơ. Ta hãy noi gương Chúa biết khiêm cung, tự hạ trong mọi nơi, mọi lúc.

Nhân đức đơn sơ. Hài Nhi Giê-su đơn sơ trong hình hài của một trẻ nhỏ, với bộ mặt dễ thương, dễ mến. Ta hãy noi gương Chúa để có một tâm hồn đơn sơ và có bộ mặt dễ thương, dễ mến.

Nhân đức làm ơn, làm phúc. Hài Nhi Giê-su giơ hai tay như để chúc phúc, chúc bình an cho mọi người. Ta hãy noi gương Chúa hăng say và nhiệt tình trong việc làm ơn, làm phúc cho người khác.

Đó là những món ăn tinh thần, món ăn đức tin cho đời sống đức tin của ta, nó bổ dưỡng cho thân xác, cho linh hồn và cho đức tin của ta.

Đức Tin đó như Đức Giáo Hoàng nói: “Đức Tin chỉ trở thành thật sự khi Đức Tin ấy đụng chạm đến trái tim chúng ta, linh hồn chúng ta, tâm trí chúng ta và cả cuộc sống của chúng ta”. Nói cách khác, một Đức Tin mà đụng đến trái tim, đến linh hồn, tâm trí và đụng đến cuộc sống của chúng ta thì đó mới là Đức Tin thật, không thì là một đức tin giả, một đức tin chết. Chính Đức Tin thật đó mới mang lại ơn cứu độ cho toàn bộ con người chúng ta. Đức Tin đó là Đức Tin gì ? Đức Giáo Hoàng giải thích:

Một Đức Tin không làm khó chúng ta là một Đức Tin có trở ngại”. Nghĩa là một Đức Tin không có vấn đề gì, không có trở ngại gì, là một Đức Tin chết, không đem lại ích lợi gì cho ta. Phải là một Đức Tin luôn “làm khó” ta, luôn bắt ta phải suy nghĩ, phải suy niệm, phải tìm tòi, phải tìm hiểu những chân lý đức tin, những điều mình tin. Không phải ta nghi ngờ mà là muốn đào sâu để ta ngày càng thâm tín hơn, càng mạnh hơn; nếu không thì là một Đức Tin èo uột và yếu nhược.

Một Đức Tin không làm chúng ta lớn lên là một Đức Tin cần phát triển”. Lớn lên có nghĩa là tiến lên. Đức Tin của ta cần phải phát triển mãi, phát triển không ngừng để ta lớn lên, để ta tiến lên cho tới tầm mức “viên mãn của Đức Ki-tô”.

Một Đức Tin không làm ta phấn đấu là một đức tin cần phải được kích động”. Nghĩa là một Đức Tin không làm cho ta hăng say phấn đấu để nên tốt hơn, để ta nên thánh, nên thiện hơn, nên mạnh hơn là một Đức Tin cần phải được kích động, cần phải được kích hoạt; Đức Tin đó cần được thêm dầu; cần được lên giây cót; cần phải kích thích để cho ta kiên trì và phấn đấu cho đến cùng.

Một Đức Tin không lay động chúng ta là một Đức Tin cần thử thách”. Tức là một Đức Tin không việc làm, một Đức Tin nằm im, không lay động, không thúc đẩy ta gì hết thì Đức Tin đó cần phải có sự thử thách. Đức Tin đó như vàng phải thử lửa, để xem thật hay giả. Có những đêm tối của Đức Tin khi mà ta không còn tin gì nữa hết; chẳng tin Chúa cũng chẳng tin Giáo Hội. Cầu mãi mà chẳng được gì ? Xin mãi mà chẳng thấy đâu ? Có Chúa không ? Chúa ở đâu ? Tại sao tôi phải khổ thế này ? Tại sao tôi học hành chăm chỉ, làm việc cần mẫn mà lại thất bại; tại sao tôi sống tốt mà lại bị hiểu lầm, bị vu khống, vv… Rồi bệnh tật, tai nạn,…..

Quả thật, những thử thách đó không quá sức chịu đựng của ta đâu, nhưng nhờ những thử thách đó, Đức tin của ta được trui được rèn; được mài được dũa, làm cho Đức Tin của ta chuyển động, chuyển mình và hoạt động; sáng lên và mạnh mẽ.

Một Đức Tin chỉ là hiểu hay âm ấm chỉ là khái niệm về Đức Tin”. Nghĩa là một đức Tin không nóng cũng không lạnh; không mạnh cũng không yếu, dở dở ương ương, chỉ là một Đức Tin trên giấy tờ, tệ hơn nữa chỉ là từ ngữ không hơn không kém. Chỉ có cái tên, chỉ có cái “Made in Đức Tin” thì không có ích lợi hay giá trị gì cả.

Một Đức Tin chân chính và chân thật là một Đức Tin cần làm khó ta; làm cho ta lớn lên, tiến lên; làm cho ta hăng say phấn đấu, lay động ta. Đức Tin đó cần được dừng nơi máng cỏ Giáng Sinh để tìm hiểu, để học đòi, để ăn tiệc, ăn những món ăn được dọn ra nơi đó. Đó là bữa tiện mừng. Mà đã là Bữa Tiệc Mừng thì phải có lý do để mừng; có sự hiện diện và tham gia với mọi người, cùng nhau ăn mừng, cùng nhau chúc mừng và đương nhiên sẽ có những món ăn ngon và bổ dưỡng.

Bữa Tiệc Mừng đó chính là Bữa Tiệc Giáng Sinh và Bữa Tiệc Giáng Sinh là chính Bữa Tiệc của Đức Tin. Vậy ta hãy lấy Đức Tin mà Mừng lễ Giáng Sinh, khi đó Giáng Sinh trở thành Tiệc Mừng cho Đức Tin của Ta.

Lm. Bosco Dương Trung Tín