10 CÁCH THỨC CHÚA GIÊSU BIỂU LỘ TÌNH THƯƠNG

Tiến sĩ Stephen Post, giáo sư môn Đạo Đức Sinh Học ở Mỹ, viện trưởng Viện Nghiên Cứu Tình Yêu Vô Hạn, tác giả cuốn sách nổi tiếng: “Unlimited Love: Altruism, Compassion, and Service”.

Chúa Giêsu biểu lộ tình thương lớn lao của Người cho con người bằng 10 cách thức khác nhau. Các Tin Mừng cho chúng ta thấy lòng thương cảm sâu xa của Người đối với đau khổ, việc Người hiện diện và lắng nghe chăm chú người khác, và việc Người giúp đỡ cho mọi người chung quanh. Chúng ta hãy khám phá các cách thức Chúa Giêsu biểu lộ Agape – từ ngữ Hy Lạp có nghĩa là tình yêu vô điều kiện, tình yêu tự hiến – và chúng ta có thể học hỏi gì nơi Người.

  1. Lòng thương cảm

Trong các Tin Mừng, Chúa Giêsu được mô tả như một người chữa lành, đáp ứng mọi nhu cầu của con người trong đau khổ, cả trong ngày Sabbath, và chính vì điều này mà người bị chính quyền thời đó chỉ trích kịch liệt. Người đáp trả cho người khác, mà nếu không có sự can thiệp của Người, họ đã bị ném đá đến chết. Lòng thương cảm được diễn tả trọn vẹn trong dụ ngôn người Samarit nhân hậu, vì người này giúp đỡ trực tiếp và nhanh chóng cho người bị thương bên vệ đường. Không gì có thể làm Người hành động trái với lòng thương cảm cả – dù là đang bận rộn hết sức hoặc vì sự ô nhục xã hội, như trong trường hợp người phụ nữ Samari mà đa số người khác không muốn tiếp chuyện. Chúa Giêsu làm theo lòng thương cảm đòi hỏi, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào.

Lời nguyện: Lạy Chúa, xin cho chúng con biết thật sự thương cảm những người đau khổ.

  1. Chăm chú lắng nghe

Khi tiếp xúc với người khác, Chúa Giêsu chăm chú lắng nghe, chứng tỏ sự ước muốn đáp trả trong thâm sâu những gì người kia nói với Người. Trong nhiều cuộc chữa lành, người ta thường kêu to xin Người cứu giúp. Chỉ bằng sự lắng nghe và sờ chạm nhẹ, Người trao cho họ niềm hy vọng và tin yêu trọn vẹn. Người cẩn thận lắng nghe kẻ thù nói và trả lời họ sau khi suy nghĩ kỹ. Người rất nhẫn nại với các môn đệ của mình, cả khi Người có lý do chính đáng để mất kiên nhẫn.

Lời nguyện: Lạy Chúa, xin cho chúng con khiêm nhượng để biết chăm chú lắng nghe người khác, vì họ rất đáng trân trọng.

  1. Biết cách đối đầu

Chúa Giêsu là bậc thầy về xử lý đối đầu. Người thực thi sự chống đối bất bạo động với sự dữ, và chính lời dạy và gương sáng của Người đã gây cảm hứng cho lãnh tụ Gandhi và nhiều nhà lãnh đạo các phong trào dân quyền. Chúa Giêsu yêu cầu Phêrô bỏ gươm xuống; Người nói ai dùng gươm sẽ chết vì gươm. Nhưng Người cũng đối đầu với các thầy tư tế giả hình và các người đổi tiền trong Đền thờ. Người liên tục thách thức người khác hãy suy nghĩ và hành động trong yêu thương, và điều này làm cho Người phải thường xuyên đối đầu khi Người nhìn thấy các thái độ và ứng xử hủy diệt chung quanh Người.

Lời nguyện: Lạy Chúa, xin cho chúng con nhiều can đảm để đối đầu với sự dữ bằng yêu thương chứ không bằng ác tâm.

  1. Lòng đại lượng

 Chúa Giêsu không chỉ giúp đỡ người khác. Người còn linh hứng cho người ta làm như vậy nữa, và khuyến khích giúp đỡ cách ứng xử. Người dành rất nhiều thì giờ để biến đổi các con người bình thường như Giacôbê và Phêrô, những người làm nghề đánh cá, trở thành các gương mẫu của tình yêu thương. Đời sống của Người có thể được hiểu tốt nhất như là ánh sáng thông chuyển sức mạnh tình thương qua các thời đại, từ thế hệ này đến thế hệ khác, trong Giáo Hội và ngoài Giáo Hội.

Lời nguyện: Lạy Chúa, xin giúp chúng con sốt sắng giúp đỡ người khổ cực, và trở thành gương sống đại lượng đối với tha nhân.

  1. Mừng hội với người khác

Trong Tân Ước có nhiều đọan nói về việc Chúa Giêsu mừng hội với người khác. Người tham dự tiệc cưới ở Cana, Người thường bị chỉ trích vì uống rượu với các môn đệ, và Người làm phép lạ hóa bánh nuôi năm ngàn người dân. Chúa Giêsu nói Người đến trần gian để cho chúng ta được sống, “và sống đồi dào” ( 1Ga 10, 10 ).

Lời nguyện: Lạy Chúa, xin cho chúng con nhìn thấy mọi người là quà tặng của Chúa, vì họ kêu mời chúng con biết sống tạ ơn và mừng hội vui với nhau.

  1. Có óc hài hước

Có rất nhiều đọan văn mô tả Chúa Giêsu hài hước rất hay. Nhà thần học Anh C.K. Chesterton, trong tác phẩm Orthodoxy ( Chính thống ), kết luận rằng việc cười đùa là “một nhân đức ẩn giấu của Chúa Giêsu”. C.S. Lewis viết rằng “vui cười là công việc nghiêm chỉnh của Thiên Đàng”. Nhà thần học phái Quaker Elton Trueblood, vị tuyên úy của các Đại Học Harvard và Stanford, viết cuốn “Sự hài hước của Đức Kitô” ( The Humor of Christ ) năm 1964 để “thách thức hình ảnh quy ước về một Đức Kitô không hề cười vui”.

Lời nguyện: Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tính hài hước và niềm vui cười mạnh mẽ, để chúng con khỏi mọi lo âu xao xuyến trong đời.

  1. Tính sáng tạo

Các dụ ngôn của Chúa là những sáng tác rất xuất sắc. Ba câu chuyện lớn về tình yêu thương là các dụ ngôn: người Samari nhân hậu, người con hoang đàng và bà góa nghèo. Dụ ngôn thứ nhất mô tả sức mạnh của đáp trả cảm thương, vốn vang dội qua bao thế hệ; dụ ngôn thứ hai kể lại tình thương vô điều kiện của người cha, kể cả sau khi ông bị người con lăng nhục một cách có thể tưởng tượng được; và dụ ngôn thứ ba cho thấy ý nghĩa cao quí khi người không có gì lại cố gắng đóng góp một phần nhỏ của mình. Chúa Giêsu yêu thương con người qua việc kể nhiều câu chuyện tự phát như vậy, bởi vì Người là người tài giỏi văn chương. Người cũng là người có óc sáng tạo trong việc giải quyết các tranh chấp luân lý, và đưa ra các kết luận khôn ngoan khác nào vua Salômon xưa kia. Người có một tinh thần sáng tạo thật tự do và siêu việt.

Lời nguyện: Lạy Chúa, xin cho chúng con biết dùng tính sáng tạo của mình vào các mục đích tốt lành nhất.

  1. Lòng tôn trọng

Chúa Giêsu có lòng tôn trọng lớn lao đối với thiên nhiên và dùng nhiều thì giờ ngồi giữa thiên nhiên yên tĩnh hoặc bên bờ biển. Người luôn tỏ ra tôn trọng gia đình, và đời sống gia đình hàng ngày. Trong khi không có lãnh đạo tôn giáo nào ban tặng quyền bình đẳng cho trẻ em, Chúa Giêsu hoan nghênh chào đón các em và lấy đời sống các em làm gương mẫu cho cách sống của những ai muốn vào Nước Trời. Người tôn trọng phụ nữ, trong khi vào thời ấy tiếng nói của phụ nữ không được ai lắng nghe. Người tôn trọng những người bị áp bức, người mù, người phong. Lòng tôn trọng của Người với sự sống thật là phổ quát.

Lời nguyện: Lạy Chúa, xin ban cho chúng con lòng tôn trọng sâu xa, để giải thoát chúng con khỏi sự ước ao điều khiển người khác theo ý mình.

  1. Lòng trung thành

Chúa Giêsu vẫn trung thành với Phêrô sau khi Phêrô chối Chúa. Thậm chí cả khi bị từ bỏ, Người vẫn trung thành, như trong việc Người than khóc cho thành Giêrusalem ( Mt 23, 37 ). Người trung thành với ý Chúa Cha, khi trước lúc chết, Người đã cầu nguyện: “Lạy Cha, xin cất chén này khỏi con, nhưng đừng theo ý Con, một theo ý Cha mà thôi”. Đối với những người tàn tật, bệnh họan, bị loại trừ, Người vẫn trung thành với họ dù cho những người khác chối bỏ họ.

Lời nguyện: Lạy Chúa, xin Chúa giúp chúng con biết trung thành với những người khác, bởi vì họ cũng bất toàn như chúng con.

  1. Lòng tha thứ

Chúa Giêsu Nazareth mang sự tha thứ đến thế giới phương Tây. Kinh Lạy Cha của Kitô giáo nói: “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Chúa Giêsu xin những người chuẩn bị ném đá hãy tha thứ cho người phụ nữ phạm tội ngọai tình. Người luôn dạy sự kiên trì chịu đựng, và khuyên chúng ta đừng xét đoán người khác, bởi vì tất cả chúng ta đều có lỗi. Khi sắp chết trên thập giá, Người còn nói lời sau cùng: “Xin Cha tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.

Lời nguyện: Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết tha thứ và làm cho lời tạ lỗi của chúng con trở nên có ý nghĩa.

Bản dịch của NGUYỄN TRỌNG ĐA

CỘNG ĐOÀN – GIA ĐÌNH

CỘNG ĐOÀN – GIA ĐÌNH

 Chiều tháng 7 trên đất nước Nhật không khí thật oi ả. Tôi đi dạo dưới những tán lá cây mát rượi, làn gió nhẹ mang theo không khí trong lành của rừng khe khẽ trườn qua từng ngọn thông đung đưa nhịp nhàng. Tôi nhẩm lời một bài hát “ …Trời đất bao la dành hết cho ta đâu có tình cờ, nào ai có biết …” Tôi mới chỉ là một người đang tìm hiểu ơn gọi trong một đan viện. Tôi yêu mến đời sống cầu nguyện, thích những giây phút thinh lặng trước Thánh Thể Chúa. Thinh lặng giữa trời đất để cảm nghiệm tình yêu Chúa ban cho tôi, một kiếp người tội lỗi. Mới đến Nhật được 8 tháng, tôi đang dần trải nghiệm và làm quen với cuộc sống của đan viện. Đang từ một cuộc sống xô bồ, náo nhiệt, ồn ào, với những trải nghiệm về cơm áo, gạo tiền, và cả những màu sắc thăng trầm của cuộc sống. Bỏ mọi thứ nhộn nhịp cuốn hút con người ấy, tôi bước vào cuộc sống tĩnh lặng trong đan viện, làm quen với cuộc sống cộng đoàn. Trong suy nghĩ của tôi mọi sự còn đơn giản và nhẹ nhàng lắm. Làn gió mát hòa quyện trong không gian tĩnh mịch của buổi chiều nhẹ nhè lướt qua, khiến cho tôi nhớ gia đình man mác, nhớ những gì đã qua. Nhớ môi trường làm việc, nhớ bạn bè, nhớ những buổi sáng thứ 7 cùng bạn bè tán gẫu bên ly cà phê trên đất Tây nguyên, nhớ những ngày chúa nhật sinh hoạt Thiếu Nhi Thánh Thể. Tôi là một công chức nhà nước, tham gia mọi sinh hoạt của thanh niên, có khi tham gia huấn luyện trong các trại sinh hoạt hè của thanh thiếu nhi đạo, đời. Cuộc sống làm việc của tôi xoay vòng theo các hoạt động của cơ quan, của giáo xứ, ngoài buổi sáng thứ 7. Cuộc sống cách đây 8 tháng của tôi là thế, bây giờ tôi đang đứng ở trong không gian của đan viện, không gian tĩnh lặng, chỉ nghe tiếng gió thổi trên những ngọn thông rì rào, tiếng cành tre va chạm lóc cóc như một khúc giao hưởng chiều hè. Tôi nghĩ có khi nào cuộc sống hiện tại là làn gió mát, nhưng nếu cứ đi cứ đi tôi sẽ dần gặp hơi nóng của mặt trời đỏ rực đằng kia. Không, theo Chúa tôi phải để tâm tôi tĩnh và trí tôi an hòa như khúc giao hưởng đất trời tạo nên kia. Trước khi đến đây, tôi đã được nghe, được đọc nhiều về đời sống cộng đoàn. Tôi suy nghĩ về đời sống cộng đoàn. Tôi nhớ lần đầu thưa với cha xứ ở quê tôi, khi tôi mới được 15 tuổi rằng tôi muốn đi tu. Cha nhìn tôi và nói: “con biết không, đi tu rất tốt, nhưng con còn nhỏ lắm, chưa thể sống tốt đời sống cộng đoàn được. Nó rất khó con ạ, không dễ sống đâu.” Lúc đó, tôi cũng không để ý điều cha nói lắm, vì tôi nghĩ cha già rồi nên lo xa đó mà. Với tôi lúc đó và bây giờ gấp đôi số tuổi rồi, nhưng tôi vẫn nghĩ cộng đoàn như một gia đình thiêng liêng cho những ai bỏ gia đình, anh chị em dấn thân trong đời tận hiến. Ngay từ khởi đầu chuẩn bị cho việc rao giảng Tin Mừng, Chúa Giê su đã huấn luyện các Tông đồ. Để chuẩn bị cho các ông, Người đã dạy họ có một nếp sống, và sống cộng đoàn, sống với Chúa (x. Mt 10, 1-4). Hình ảnh kiểu mẫu cho đời sống cộng đoàn các tín hữu sau này. Trước khi xa lìa các môn đệ trong bữa Tiệc ly, Chúa cũng chối lại cho các môn đệ một điều: “anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em.” Như thế tôi nghĩ đời sống cộng đoàn còn hơn một gia đình. Bởi lẽ, gia đình mỗi người chỉ sống một thời gian thôi, còn cả cuộc đời còn lại là sống với cộng đoàn, với người cùng lý tưởng. Ngoài đời người ta có câu “bán anh em xa mua láng giềng gần,” còn gì cao quý hơn là bỏ mọi sự, kể cả gia đình, người thân yêu để đến sống chung, thực thi một ý hướng. Khi đó “chín bỏ làm mười”, đồng lòng, hợp ý vì Đấng ai cũng gọi là Cha trên trời. Tôi thiết nghĩ cuộc sống lữ hành, chóng qua dưới trần gian này, không cần là người sống đời sống cộng đoàn dòng tu, mà cũng có thể cùng nhau chung sức bước vào quê hương đích thực trên trời. Tôi nhớ khi tôi còn đi làm, ở môi trường công sở, tuy tôi là một người xa lạ đến công tác lâu dài ở địa phương, nhưng tình người, tình bạn bè giúp tôi vượt qua cảnh xa nhà, vượt qua những khó khăn khi mới lập nghiệp. Thực sự như một gia đình. Ngoài tám tiếng làm việc chung, vào những sinh hoạt vui chơi, không lúc nào chúng tôi không có nhau. Cơ quan của tôi có 13 người nữ, cả già lẫn trẻ, nhưng khi bất kỳ ai có chuyện gì thì họ đều có thể bỏ cả việc nhà mà trợ giúp. Những lúc tôi không có chỗ ở, không có cơm ăn, không có phương tiện đi lại, họ sẵn sàng tạo điều kiện cho tôi. Với đường công danh, địa vị những người bạn của tôi họ cũng không vì thế mà mất đi tự trọng của mình. Có chăng là số rất ít. Đời sống bên ngoài xã hội là thế, họ không có niềm tin, nhưng sống thẳng thắn chân thành ở một môi trường làm việc tạo nên một gia đình lớn nơi công sở. Như vậy, tôi nghĩ với những người cùng chung niềm tin còn làm được những điều hơn thế nữa. Khi có hai tiếng “chị” “em” xưng hô trong cộng đoàn cũng rất ý nghĩa rồi; có với nhau tình yêu thương “chị ngã em nâng”. Tôi xúc động khi được cùng ngồi chung một bàn, ở chung một nhà, cùng một lý tưởng với những người tôi chưa từng quen biết, chưa từng gặp mặt, cũng không phải họ hàng máu mủ. Bởi thế, cộng đoàn trong tôi luôn thân thương như một gia đình. Ở cộng đoàn đâu có chuyện o bế người này, người kia để làm lớn; hay cố gắng làm gì để tỏ rằng mình có năng lực để được để ý…Những tư tưởng ấy, ở bên ngoài xã hội có những kẻ thích thành “Sao”, muốn dùng mọi phương cách để tiến thân. Tôi nghĩ những kẻ ấy trí óc không có mà mưu mô tính kế lại không ít! Khi bước vào mùa chay đầu tiên trong đan viện, tôi được trải nghiệm một tuần tĩnh tâm của cộng đoàn. Chúng tôi được một cha khách đến giúp giảng tĩnh tâm. Với tâm tình đơn sơ, tận tụy của người mục tử, cha đã giúp tôi có thêm vững tin để nói rằng cộng đoàn luôn là một gia đình. Khi chưa đến cộng đoàn, chúng tôi là những người cùng niềm tin nhưng chưa biết nhau, mỗi người ở một nơi khác biệt; nhưng khi đến cộng đoàn Đan viện, chúng tôi được sống chung, mỗi ngày được ăn và uống Mình Máu Thánh Chúa, thì tôi dần dần được biến đổi trở nên cùng nhóm máu với Chúa, được Chúa thanh tẩy trở nên giống như Chúa. Chúng tôi không còn là: tôi nhóm máu A, chị nhóm máu B, hay chị kia nhóm máu O…nữa mà chúng tôi có chung một nhóm máu. Mọi thứ riêng bây giờ là chung, là một trong tình yêu Chúa. Tình chị em trong cộng đoàn, không có sự lựa chọn người hợp ý để sống, nhưng là ơn đặc biệt Chúa ban; là “hữu duyên thiên ý năng tương ngộ”. Cha cũng chia sẻ thêm rằng người Nhật trước khi kết hôn, người ta có để ý đến nhóm máu, xem có hợp nhau không để đời sống gia đình hòa hợp hơn. Ở cộng đoàn chúng tôi còn hơn thế nữa, được chính Máu Thánh Chúa biến đổi, chính Bửu Huyết Thánh Chúa kết nối trở nên một trong Chúa, giống Chúa cả về nhóm máu. Trước kia mỗi người một tính, một ý, nhưng ở cộng đoàn không còn tính tôi nó thế, không còn tôi thích thế nữa và mọi ý riêng khác mà là ý Chúa thôi. Cộng đoàn nơi mỗi người đến đã được Chúa hứa “chẳng hề có ai bỏ nhà, bỏ anh em, cha mẹ hay con cái vì nước Thiên Chúa mà lại không được gấp bội ở đời này và sự sống vĩnh cửu đời sau” (x. Lc 18, 29-30). Quả thật đã được rất nhiều so với những gì tôi đã có.

Mặt trời khuất sau hàng thông bao quanh đan viện, bóng tối dần chiếm hữu thay cho ánh sáng ban ngày theo quy luật tự nhiên. Tôi thấy ớn lạnh vì một làn gió mang theo hơi ẩm của rừng ngang qua. Giật mình vì tiếng chuông chuẩn bị giờ kinh chiều đã điểm. Tôi tạ ơn Chúa vì được đứng trước sự bao la hùng vĩ của vũ trụ mà Chúa đã tặng ban cho tôi và nhân loại. Ước mong sao đời sống cộng đoàn mãi là niềm vui cho những người sống đời thánh hiến, đặc biệt trong các đan viện. Ước chi lời bài hát “đâu có tình yêu thương ở đấy có Đức Chúa trời, đâu có lòng bác ái, thì Chúa chúc lành không ngơi…đâu ý hợp tâm đầu ở đó chứa chan niềm vui…” luôn lắng đọng và ở lại với mỗi người, để đời sống cộng đoàn là gia đình cho những tâm hồn khao khát đời sống thánh hiến, sống trong tình Chúa và tình người luôn dạt dào mến yêu nhau.

Đây chỉ là những dòng suy tư còn non nớt của con, một người mới chân ướt chân ráo vào đời sống cộng đoàn. Con xin được sự góp ý, hướng dẫn của các bậc thầy trong đời sống cộng đoàn, của quí Soeur, quí Thầy, quý Cha. Để mỗi ngày sống là niềm vui của con trong Đan viện nhỏ bé này.

 

 

                                                                                                                    Maria Lâm Thanh