Khuôn mặt ân sủng

“Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín”(Xh34,6).(Kinh thánh trọn bộ dịch)

Theo bản dịch của Tông huấn thì : “Một Thiên Chúa nhân từ và đầy lòng xót thương, chậm bất bình, giàu nhân nghĩa và thành tín”(số 1)

Giàu nhân nghĩa đây là giàu ân nghĩa hay giàu ân sủng. Ta sẽ dùng từ giàu ân sủng. Vì trong tiếng Nhật người ta dùng từ 恵み(megumi).

  1. Định nghĩa: Ân sủng là gì? (Tự điển công Giáo tr.9-10)

Ân là ơn; Sủng là ưu ái. Ân sủng là ân huệ, sự ưu ái do bề trên ban cho.

Ân sủng trước hết là chính Thiên Chúa với sự hiện diện đầy yêu thương của Ngài.

Kế đến ân sủng là ân huệ Thiên Chúa ban một cách tự do và vô điều kiện, giúp con người tham dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi và có khả năng hành động vì tình yêu dành cho Ngài. (x.GLCG 1996-1998)

Qua bí tích thánh tẩy, nhờ ân sủng của Chúa Ky-tô, tín hữu trở thành nghĩa tử của Chúa Cha và nhận sự sống của Chúa Thánh Thần(x.GLCG 1997).

Ân sủng của Thiên chúa vẫn luôn tôn trọng và mời gọi con người tự do đáp lại; đón nhận tình yêu của Ngài và trung thành với tình yêu đó.(x.GLCG 2001-2002)

  1. Thiên Chúa giàu ân sủng
  2. Thiên Chúa chính là ÂN SỦNG.

Thiên Chúa là hiện thân của ân sủng. Ân sủng chính là sự hiện diện của Thiên Chúa với lòng yêu thương của Ngài. Ở đâu có Thiên Chúa ở đó có ân sủng.

Lời chào của Thiên sứ Gabriel nói với Đức Ma-ri-a : “Kính chào Bà đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà”(Lc1,28). Có nghĩa là có Thiên Chúa thì có ân sủng.

  1. Thiên Chúa là chủ nhân của Ân sủng.

Mọi ân sủng đều được ban từ Thiên Chúa. Ngoài Ngài ra không có ai sở hữu ân sủng để từ đó ban cho người khác. Có thể nói Thiên Chúa nắm độc quyền về ân sủng.

Do đó Người ban ân sủng là Thiên Chúa, Đức Giê-su và Chúa Thánh Thần; còn Đức Mẹ và các thánh chỉ là những người cầu bầu cho ta trước tòa Chúa để Chúa ban ân sủng cho ta mà thôi, chứ bản thân các Ngài không có ân sủng mà ban đâu. Các Vị có chức thánh cũng vậy, các Ngài chỉ là dụng cụ của Chúa dùng để qua thừa tác vụ thánh, họ đem ân sủng của Chúa đến cho người khác.

Ân sủng là ân huệ, một sự trợ giúp nhưng không mà Thiên Chúa ban để chúng ta đáp lại tiếng mời gọi của Ngài, để ta trở nên con cái, nên nghĩa tử; để ta được tham dự vào bản tính Thiên Chúa và sự sống đời đời.(x.GLCG 1996).

Như thế ân sủng chính là ân huệ Chúa ban cho ta và giúp đỡ ta. Vì con người chúng ta hèn mọn và yếu đuối. Đức Giê-su đã nói : “Không có Ta, các con không làm gì được”(x.Ga 15,5). Không có ơn Chúa ta cũng không thể làm được gì xét về mặt tự nhiên cũng như về siêu nhiên.

Xét về mặt tự nhiên, Chúa mà không cho ta sống, ví dụ Chúa cất hết không khí; Chúa cất ánh sáng mặt trời; tim ta không đập nữa thì ta làm gì được đây. Nói đâu cho xa, một cơn gió độc, một cơn gió thoảng cũng làm ta ho hen, ăn không ngon, ngủ không yên và tay chân cũng chẳng nhấc nổi.

Xét về mặt siêu nhiên thì khỏi nói, không có ơn Chúa ta không làm gì đẹp lòng Chúa, không làm gì tốt lành và thánh thiện cả đời này lẫn đời sau.

Như nhờ ân sủng của bí tích rửa tội mà ta từ một con người bình thường và tầm thường trở, nên con cái Chúa; được Chúa nhận làm con cùng với Con Một Ngài là Đức Giê-su Ky-tô. Nhờ ân sủng Chúa ban mà tham dự vào bản tính Thiên Chúa:“Thiên Chúa làm người để con người làm Thiên Chúa”, có nghĩa là ta được tham dự vào bản tính của Thiên Chúa. Con người của ta đã được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa rồi, biết suy nghĩ, biết yêu rồi; thế vẫn chưa đủ, Chúa còn muốn cho con người chúng ta tham dự vào bản tính của Chúa và cả sự sống đời đời của Chúa nữa cơ. Mà ta gọi là sự sống Thần Linh, sự sống siêu nhiên hay sự sống đời đời. Chỉ có con người mới được Chúa ưu ái ban cho như vậy, còn động vật và thực vật thì không.

Ân sủng là quà tặng nhưng không Thiên Chúa ban. Nói đến quà tặng thì phải nói đến sự tự do nhận hay không nhận. Thiên Chúa ban cho con người có sự tự do, nên con người có thể từ chối hay lãnh nhân ân sủng của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn sẵn sàng ban nhưng có nhận được hay không thì do con người chúng ta quyết định. Chúa luôn tôn trọng sự tự do của con người, Ngài chỉ kêu mời, ai muốn thì nhận ai không muốn thì thôi.

Ân sủng Chúa ban là để công chính hóa ta và thánh hóa ta. Liên kết chúng ta vào công trình cứu độ của Người; cho ta khả năng cộng tác vào công cuộc cứu độ tha nhân và làm phát triển Thân Thể Chúa Ky-tô là Giáo Hội(x.GLCG 2003).

Ơn công chính hóa là làm cho ta nên công chính; ơn thánh hóa là làm cho ta nên thánh, nên thiện, đó là đối với bản thân ta. Còn đối với việc cộng tác vào công cuộc cứu độ tha nhân thì có ơn đặc sủng, như ơn gọi hôn nhân và gia đình; ơn gọi tu sĩ, linh mục. “Đặc sủng là phải nêu lên các chức phận được ban để người ta thi hành các bổn phận của đời sống ky-tô hữu và các thừa tác vụ trong lòng Giáo Hội”(x.GLCG 2004)

 

III.               Đức Giê-su, hiện thân ân sủng của Thiên Chúa.

 

  1. Đức Giê-su cũng chính là ân sủng vĩ đại nhất mà Thiên Chúa ban cho con người: “Đức Giê-su là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật”(x.Ga1,14) và “Từ nguồn sung mãn của Người mà chúng ta nhận được hết ơn này đến ơn khác(x.Ga1,17).

 

  1. Ân sủng của Đức Giê-su:

Ân sủng của Đức Giê-su là ân huệ nhưng không, qua đó Thiên Chúa ban cho ta sự sống của Người nhờ Thánh Thần. Thiên Chúa ban sự sống đó vào linh hồn để chữa trị tội lỗi và thánh hóa chúng ta(x.GLCG 1999).

Cuộc khổ nạn của Đức Giê-su là nguồn ơn công chính hóa cho mọi người(x.GLCG 2020).

Ơn công chính hóa bao gồm ơn tha thứ tội lỗi, thánh hóa và canh tân con người nội tâm chúng ta(x.GLCG 2019).

 

Qua cuộc khổ nạn của Đức Giê-su, chúng ta được thứ tha mọi tội lỗi “Tội con đã được tha”(x.Mt9,2); qua bí tích Rửa tội ta được tha tội Tổ tông; qua bí tích Thêm sức ta lành nhận ơn Chúa Thánh Thần và qua bí tích Giải tội ta được tha các tội riêng.

Quả thật nhờ ơn Chúa mà ta dần dần được canh tân, dần dần nên thánh, nên thiện

Các ân sủng của Thiên Chúa ban đều qua Đức Giê-su Ky-tô; qua công trình cứu độ của Ngài.

  1. Kết luận.

Sống ơn sủng của năm thánh là chạy đến lòng thương xót Chúa với lòng xác tín rằng sự tha thứ của Chúa trải rộng trên toàn bộ cuộc đời của người ky-tô hữu. Đón nhận ân sủng là trải nghiệm sự thánh thiện của Giáo Hội, là người ban cho tất cả mọi người những thành quả trong ơn cứu chuộc của Chúa Ky-tô, để tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa có thể vươn tới khắp mọi nơi. Chúa ta hãy sống sốt sắng Năm thánh này trong khi cầu xin Chúa Cha tha thứ cho tội lỗi của chúng ta và tắm gội chúng ta trong lòng thương xót “đại xá” của Ngài(Trích Tông huấn số 22).

Lm Bosco Dương Trung Tín

VÕ SĨ (Samurai) TAKAYAMA UKON (II)

VÕ SĨ (Samurai) TAKAYAMA UKON (II)

ukon

 Ngày 21 tháng 1 năm 2016, Đức giáo hoàng Phanxico đã chính thức công bố và ký sắc lệnh phong chân phước cho Võ sĩ Giusto Takayama Ukon. Lễ phong chân phước sẽ được tổ chức ngày 7 tháng 2 năm 2017 tại Osaka nơi võ sĩ Ukon sinh trưởng. Ukon sinh năm 1552 và từ trần ngày 3 tháng 2 năm 1615 trong lúc sống lưu vong tại Phi, nhưng quá trình phong chân phước cho ngài giống như một vị tử đạo.

Tanaka Ukon chọn ai? Lãnh tướng Araki Murashige (1535-1586) hay tướng quân Oda Nobunaga(1534-1582)

Võ sĩ Ukon dưới quyền lãnh tướng Murashige, còn Murashige là thuộc hạ tướng quân Nobunaga. Có nghĩa là Ukon dưới quyền 2 tướng quân, mà Nobunaga là người trực tiếp ban một phần lãnh thổ cho Ukon cai trị.

Nobunaga là người ăn nói cục cằn thô lỗ, nhưng dám nói dám làm. Còn Murashige thì luôn rập rình thời cơ để cướp quyền cai trị thiên hạ của Nobunaga.

Năm 21 tuổi, Ukon được chọn làm lãnh chúa thành Takatsuki. Năm 1587, đột nhiên Murashige bắt giữ con trai và em gái Ukon làm con tin rồi áp lực Ukon phải hợp tác với ông để lật đổ Nobunaga. Đây là sự đau khổ và thách đố vượt qua trí tưởng tượng của Ukon. Vì Ukon không phải là võ sĩ tham quyền hay danh vọng, nhưng ông là mẫu người liêm chính luôn trung thành với kẻ trên mình.

Nếu Ukon trung thành với Nobunaga thì Murashige sẽ xử trảm con trai và em gái ông. Đàng khác Nobunaga dọa sẽ đốt nhà thờ, giết các giáo sĩ và giáo dân như Nobunaga đã khai hỏa chùa ở Hiezan (1571) và tàn sát hơn 10 ngàn người phật tử cùng thầy tu chống lại ông, nếu Ukon hợp tác với Murashige để lật đổ ông.

Trên búa dưới đe, Ukon không thể trả lời chống hay hợp tác, chọn bên này bỏ bên kia. Vì chọn đàng nào Ukon cũng phải nhận lấy hậu vô lường trước mắt. Nếu ông chọn Murashige thì cứu được con và em, nhưng hàng ngàn giáo dân và linh mục phải chết. Ngược lại ông chọn trung thành với Nobunaga thì con trai và em gái ông sẽ trở thành miếng mồi ngon cho Murashige. Trong lúc cả ba bên dàn trận nghêng quân, bên nào cũng nóng long chờ đợi câu trả lời “sinh” “tử” từ Ukon. Lúc bấy giờ Ukon đau khổ não nề, ông ẩn mình cầu nguyện để quyết định của mình không làm tổn hại đến nhiều sinh mạng và nhất là đi ngược lại lương tâm của ông.

Sau những ngày tĩnh tâm Ukon được Chúa thánh thần soi sáng, ông trở nên thanh thản và sự bình tràn ngập nội tâm ông. Ukon phân biện rằng: bề trên của tôi không phải là Nobunaga, cũng không phải là Murashige, nhưng Thiên Chúa vũ trụ mới là bề trên của tôi. Rồi ông chọn cái “từ bỏ” và Thánh kinh được thực hiện: “cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa” (Mt 22,21).

Ông xuống tóc, như người tu hành; cởi y phục võ sĩ, khoát áo trắng đơn sơ như người hành khất và trao hết lại mọi của cải thế gian và quyền bính ông nhận được từ Nobunaga và rời Thành Takatsuki. Nobunaga không còn lý do để đốt phá nhà thờ và giết hại các tu sĩ cùng giáo dân. Murashige cũng không có lý bắt giữ con tin nữa vì Ukon đã từ bỏ quyền lực thế gian.

Lối sống “từ bỏ” của Ukon đã cứu được mạng sống con trai và em gái ông, cùng các giáo sĩ và giáo dân cũng như quân lính của ông.

Thời chiến quốc người đời chọn quyền lực, danh vọng và của cải, nhưng Ukon chọn con đường ít ai hiểu tới, đó là “từ bỏ”. Ông không tích trữ của cải dưới đất vì ông biết sẽ bị rỉ sét, bọ nhấm hay sẽ bị cướp đi. Ông tích trữ của cải trên trời để cho lời Chúa Giesu được ứng nghiệm. “Các ngươi chớ tích trữ cho mình kho tàng dưới đất, nơi mối mọt nhấm nát được, nơi trộm cắp đào khoét phỗng mất được. Nhưng hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời, nơi mối mọt không nhấm nát, nơi trộm cắp không đào khoét, phỗng mất được.” (Mt 6,19-20)

Nam Du ký

(Còn tiếp)