KHUÔN MẶT NHÂN HẬU

KHUÔN MẶT NHÂN HẬU

I-Định nghĩa.

NHÂN là lòng yêu thương.

HẬU là sâu nặng.

Lòng nhân hậu là lòng yêu thương yêu sâu nặng. Chữ “Nhân” ở đây không phải là chữ “người”(人), mà là chữ “zin”(仁). Tiếng Nhật lòng nhân hậu là 慈しみ深い(itsukushimi fukai)。

Người có lòng nhân hậu là người luôn mong muốn và thực hiện những điều tốt, hoàn toàn vì ích lợi của người khác(Từ điển công giáo,tr 211).

Chúa nói: “Ta muốn lòng nhân chứ không muốn hy lễ”(x.Mt 9,13); nghĩa là Chúa muốn lòng yêu thương chứ không cần hy lễ. Lòng nhân ở đây không phải là “lòng người”. Nhưng là người thì phải có lòng nhân; có lòng thương. Không có lòng thương yêu không phải là con người.

II-Lòng nhân hậu của Thiên Chúa.

1.“Người làm cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người

tốt; cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương”.(x.Mt5,45)

Qua đó ta thấy lòng nhân hậu của Thiên Chúa Người mong muốn và hằng ban mọi điều tốt đẹp cho mọi người không phân biệt đối xử. Không phân biệt giầu nghèo; không phân biệt nam nữ; không phân biệt tốt xấu.

Mưa và ánh sáng mặt trời là điển hình, đó là những thứ cần thiết cho đời sống con người và ai là con người cũng đều được hưởng để sống.

Đối với đời tu thì không thể không nói đến ơn gọi. Về ơn gọi Thiên Chúa cũng ban cho người nào tùy ý Người, cũng không phân biệt giàu nghèo; không phân biệt giới tính; không phân biệt tốt xấu. Nhưng ta đừng tưởng ta được chọn là ta tốt hơn người khác. Chưa chắc.

Có người thắc mắc: Tại sao Chúa lại chọn một số các Linh mục và tu sĩ xấu xa như thế? Quả thật đã có những Linh mục và tu sĩ như vậy.

Câu trả lời là Linh mục hay tu sĩ cũng là người như mọi người thôi. Điều đó chỉ đúng có một nửa. Cái xấu xa đó không phải về phía Chúa mà là về phía con người đó. Chẳng có ai tốt lành để Chúa chọn cả, Chúa chọn vì lòng nhân hậu của Chúa thôi.

Còn ta, những người đã được chọn, được gọi trong đời sống tu trì, ta phải nên thánh, nên thiện, đó là bổn phận của ta. Ta có nên tốt lành; nên thánh nên thiện hay nên xấu xa là do ta chứ phải do Chúa. Không nên thánh, không nên thiện thì ta phải trả lẽ trước mặt Chúa về lòng nhân hậu mà Ngài đã dành cho ta.

*Noi gương Chúa, ta cũng phải có lòng nhân hậu với người khác; có cái gì hay, cái gì tốt, ta có thể chia sẻ cho mọi người không phân biệt đối xử.

  1. Dụ ngôn người Cha nhân hậu hay người con hoàng đàng(Lc15,11-32).

Người Cha nhân hậu đối với người con hoang đàng và có người con hoang đàng nên mới thấy được người cha nhân hậu. Người cha nhân hậu là Thiên Chúa tha thứ và không nhớ đến lỗi lầm của người con hoang đàng là con người chúng ta. Lý do: “Đã chết này sống lại; đã mất nay lại tìm thấy”.

Người con đi hoang là người có tội, có lỗi như người đã chết, đã mất. Một khi trở về; một khi biết sám hối, biết ăn năn, biết nhận lỗi thì được tha thứ. Khi đó như được “sống lại”, như được “tìm thấy”. Vì thế mà phải vui mừng, phải làm bê béo để ăn mừng. Vì sự vui mừng đó mà không còn nhớ đến những lỗi lầm nữa.

Chúa đã tha thứ và không còn nhớ đến; không còn để lòng, để bụng “các tội lỗi của ta Người đã quăng xuống đáy biển”. Điều đó cho thấy Thiên Chúa là Đấng nhân hậu, từ bi.

Còn con người của ta thì sao? Có khi không chịu tha; có khi tha mà vẫn nhớ, vẫn để bụng. Không, noi gương Chúa ta hãy tha thứ cho người khác khi họ biết lỗi, nhận lỗi và xin lỗi; bao nhiêu lần cũng phải tha.

III-Đức Giê-su, khuôn mặt nhân hậu của Chúa Cha.

Đức Giê-su đã tha thứ cho người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình; đã tha thứ cho Ma-ri-a Mác-đa-la; cho Phê-rô; cho người trộm lành và nhất là trên Thập giá, Người đã xin : Lạy Cha xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm(x.Lc23,34).

Noi gương Đức Giê-su ta cũng phải nói : Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết ……lỗi, không biết xin lỗi. Nghĩa là ta tha thứ cho người khác trước khi họ xin. Tha thứ như thế để tâm hồn ta thanh thản, để khi họ mở lời là ta có thể tha ngay. Làm như thế là rất có lợi cho ta. Chúa cũng sẽ tha thứ cho ta trước ta xưng tội, trước khi ta xin lỗi Chúa đấy.

Tâm hồn ta rộng mở để đón nhận ơn tha thứ của Chúa. Vì đằng nào ta cũng phải tha; ta tha trước đi có phải là khôn, là lời lắm không. Người ta nói “đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn” mà. Việc tha thứ trước còn khôn hơn biết bao.

Tha thứ là một biểu lộ của lòng nhân hậu, từ bi. Đối xử tốt không phân biệt ai cũng là một biểu lộ của lòng nhân hậu, từ bi. Đó là đối với người khác. Còn đối với chính mình thì sao?

IV-Nhân hậu với chính mình.

  1. Với thân xác.

Những gì là tốt lành cho thân xác mình thì mình làm, “có ai ghét thân xác mình bao giờ”. Thương thân xác ta, thì ta phải để ý tới việc ăn uống, ngủ nghỉ và làm việc. Ăn uống phải điều độ; ngủ nghỉ và làm việc phải có giờ có giấc, để ta có một thân xác khỏe mạnh.

  1. Với tinh thần.

Ta đừng chiều theo thân xác của mình, đừng để nó lười biếng, phải siêng năng học hỏi; phải rèn luyện sự kiên trì, nhẫn nại, khiêm cung, hiền hòa, từ bi, hỉ xả, để ta có một tinh thần cởi mở, sảng khoái, phấn khởi, yêu đời và an bình.

  1. Với Đời tu.

Ta sống đời tu sao cho có một đời sống nội tâm sâu sắc và phong phú. Muốn vậy ta phải đọc và suy gẫm Lời Chúa mỗi ngày; đọc kinh cho sốt sắng; cầu nguyện cho chuyên cần. Dành thì giờ để suy niệm và đọc sách thiêng liêng.

Có làm việc thì ta cũng phải để ý đừng ham làm việc Chúa mà quyên cả Chúa, vì có khi ta làm việc mà chẳng nhớ đến Chúa gì cả. Ta phải làm việc bổn phận của ta trong Chúa, với Chúa và vì Chúa. Khi làm việc gì ta cũng tự hỏi ta làm gì đây, ta làm cho ai đây. Điều đó giúp ta ý thức việc mình làm. Nếu ta làm mà không ý thức, không biết mình làm vì cái gì thì giống như rô-bốt và máy cassette thôi.

Không, ta phải làm với lòng từ bi, nhân hậu đối với mọi người, con vật, cây cối và cả với con người của ta; đời sống của ta, sức khỏe của ta và cả hầu bao của ta nữa. Mục đích là để sống ơn gọi của ta và mục đích cuối cùng là để ta nên thánh và nên thiện.

Ta có lòng nhân từ đối với ta là để ta có một con người toàn vẹn, khỏe cả xác lẫn hồn. Có sức khỏe tốt thì ta mới làm việc, mới sống đựơc, mới tu được; sống vui, sống khỏe; ăn cảm thấy ngon, ngủ cảm thấy đã; làm việc cảm thấy phấn khởi ta sẽ yêu đời, yêu Chúa và yêu người.

  1. Với hôn nhân

Ta phải có lòng nhân từ với hôn nhân của ta. Ta phải làm sao cho hôn nhân của ta là một hôn nhân hạnh phúc. Ta cần phải xây dựng sự hạnh phúc đó vì hạnh phúc gia đình không từ trên trời rơi xuống hay cứ chịu phép bí tích hôn nhân là có, mà do cả hai vợ chồng cùng nhau xây dựng. Đã yêu thương và đã cưới nhau rồi thì ta phải làm hết sức mình để xây dựng một gia đình hạnh phúc; xây dựng gia đình thành một tổ ấm. Bởi đó ta có nghĩ gì, có làm gì thì cũng vì hạnh phúc gia đình của ta cũng như vì “người kia” mà thôi. Cần có sự trao đổi để có một sự hòa hợp trong ý hướng và trong công việc, tạo nên sự thống nhất; tìm ra cái nào hay nhất, tốt nhất cho gia đình chứ không cho sự ích kỷ, độc đoán hay là hơn thua. Vợ chồng mà hơn thua nhau sao. Ông bà ta không nói thế này sao: “Đồng vợ đồng chồng, tát bể đông cũng cạn” mà. Cũng cần có sự hy sinh, mỗi người cùng nhường nhịn nhau một chút, biết tha thứ và chịu đựng.

Lấy nhau là cam kết sống chung cho đến “đầu bạc răng long”, cho đến chết, nên ta phải có lòng nhân từ để làm cho hôn nhân của mình sống, sống mãi và sống hạnh phúc. Càng sống với nhau ta càng hiểu biết nhau hơn; càng trở nên đáng yêu, đáng thương hơn để cho người kia yêu, người kia thương, chắn chắn ta sẽ có một hôn nhân hạnh phúc.

  1. Với Linh hồn.

Ta phải có lòng nhân từ với linh hồn ta khi trong Năm Thánh biết lãnh nhận nhiều ơn toàn xá, để sau này nó khỏi vào luyện ngục.

V-Kết luận.

Thiên Chúa là Đấng nhân hậu và từ bi hằng yêu thương và ban mọi ơn lành cho ta. Nghĩ đến thôi là ta cũng vui rồi, nhưng ta không dừng lại ở đó mà ta còn noi gương Chúa để sống nhân hậu và từ bi như Ngài. Khi đó thực sự ta có một niềm vui, niềm vui nội tâm; một sự thanh thản trong tâm hồn và luôn bình an và chắc chắn ta sẽ sống trong hạnh phúc và nên thánh, nên thiện. Ta sẽ có một khuôn mặt nhân hậu, từ bi như Chúa; có lòng nhân hậu và từ bi như Chúa.

 VI-Câu hỏi suy gẫm.

  1. Ta nghĩ gì về ơn gọi (Đời tu hay đời hôn nhân) mà Chúa nhân từ đã ban cho ta?
  2. Ta có thể tha thứ cho người ta khi họ không biết xin lỗi không?
  3. Bây giờ ta còn giận hờn, không tha thứ cho ai không?
  4. Ta có lòng nhân hậu, từ bi với chính mình không hay ta chiều chuộng nó? Cụ thể về thân xác, linh hồn và ơn gọi: đời tu hay hôn nhân?

    VII-Điều dốc lòng

  1. Lạy Chúa , xin tha thứ cho họ vì họ không biết …..xin lỗi.
  2. Có lòng nhân hậu chứ không chiều chuộng.

Lm. Bosco Dương Trung Tín

TÔNG HUẤN MỚI CỦA ĐỨC THÁNH CHA: “AMORIS LAETITIA”

Tông Huấn mới của ĐTC Phanxicô đã được công bố trong cuộc họp báo sáng 8-4-2016, tại Phòng báo chí Tòa Thánh. Văn phòng Tổng thư ký Thượng HĐGM cũng cho phổ biến một bản tóm lược văn kiện dài 268 trang này, như dưới đây

Tông Huấn hậu Thượng HĐGM mang tựa đề “Amoris laetitia” (Niềm vui Yêu thương) mang chữ ký ngày 19-3, lễ trọng kính Thánh Giuse, một ngày không phải là tình cờ. Văn kiện này đúc kết thành quả của hai Thượng HĐGM về gia đình do ĐTC Phanxicô triệu tập trong năm 2014 và 2015, những bản tường trình đúc kết của hai công nghị này được trích dẫn nhiều, cùng với các văn kiện và giáo huấn của các vị Giáo Hoàng tiền nhiệm, và nhiều bài giáo lý của chính ĐGH Phanxicô về gia đình. Nhưng như đã xảy ra với các văn kiện khác của Huấn Quyền, ĐGH cũng dùng những đóng góp của các HĐGM trên thế giới (như Kenya, Australia, Argentina..) và những trích dẫn của các nhân vật quan trọng như Martin Luther King, hoặc Erich Fromm. Đặc biệt một trích dẫn từ cuốn phim “Bữa ăn của Babette” mà ĐGH còn nhớ để giải thích ý niệm nhưng không.

Tiền đề

Tông huấn gây ấn tượng vì chiều dài và sự phân chia, gồm 9 chương với 325 đoạn. Văn kiện mở đầu với 7 đoạn dẫn nhập nêu bật sự ý thức về đề tài phức tạp, đòi phải đào sâu. Văn kiện khẳng định rằng những phát biểu của các nghị phụ tại Thượng HĐGM là một khối quí giá (AL 4) cần được bảo tồn. Theo chiều hướng đó, ĐGH viết “Không phải tất cả những tranh luận đạo lý, luân lý hoặc mục vụ đều phải được giải quyết với sự can thiệp của huấn quyền”. Vì thế, đối với một số vấn đề, “tại mỗi nước hoặc miền có thể tìm kiếm những giải pháp hợp với văn hóa hơn, chú ý đến những truyền thống và những thách đố địa phương”. Thực vậy, “các nền văn hóa rất khác nhau và mỗi nguyên tắc chung (…) cần được hội nhập vào văn hóa địa phương, nếu muốn được tuân giữ và áp dụng” (AL 3). Nguyên tắc hội nhập văn hóa này thực là quan trọng cả trong cách thức đặt và hiểu các vấn đề, vượt lên trên những vấn đề tín lý đã được Huấn Quyền của Giáo Hội định tín, đến độ không thể “hoàn cầu hóa chúng”.

Nhưng nhất là ĐGH khẳng định ngay và rõ ràng rằng cần ra khỏi sự đối nghịch vô bổ giữa một bên là lo lắng vì thay đổi, và bên kia là sự áp dụng đơn thuần các qui luật trừu tượng. Ngài viết:

Các cuộc thảo luận nơi các cơ quan truyền thông hoặc trong các sách báo và thậm chí giữa các thừa tác viên của Giáo Hội đi từ một ước muốn vô độ thay đổi mọi sự mà không có suy tư đầy đủ hoặc nền tảng, tới thái độ chủ trương giải quyết mọi sự bằng cách áp dụng các quy luật tổng quát hoặc rút ra những kết luận thái quá từ một số suy tư thần học.” (AL 2).

Chương I: “Dưới ánh sáng Lời Chúa

Sau khi đặt những tiền đề trên đây, ĐGH trình bày suy tư của ngài từ Kinh Thánh với chương đầu tiên, được khai triển như một suy tư về Thánh Vịnh 128, có đặc tính phụng vụ hôn lễ Do thái cũng như của Kitô giáo. Kinh Thánh “nói đến những gia đình, các thế hệ, các chuyện yêu thương và khủng hoảng gia đình’ (Al 8), và từ dữ kiện ấy, người ta có thể suy tư gia đình không phải như một lý tưởng trừu tượng, nhưng như “một nghĩa vụ ‘thủ công’ (AL 16) được diễn tả một cách dịu dàng (AL 28) nhưng ta cũng gặp thấy tội lỗi ngay từ đầu, khi tương quan tình thương biến thành sự thống trị (Xc AL 19)”. Khi ấy, Lời Chúa “không tỏ ra là một hệ luận của những luận đề trừu tượng, nhưng như một người bạn đồng hành đối với các gia đình đang gặp khủng hoảng hoặc trải qua đau khổ nào đó, và chỉ cho họ mục tiêu của hành trình” (AL 22).

Chương II: “Những thực tại và các thách đố của gia đình

Từ lãnh vực Kinh Thánh, tiến qua chương II, ĐGH cứu xét tình trạng hiện nay của các gia đình, chân đạp đất (AL 6), kín múc rộng rãi từ các bản tường trình chung kết của hai Thượng HĐGM và đương đầu với nhiều thách đố, từ hiện tượng di dân, cho đến ý thức hệ phủ nhận sự khác biệt phái tính, gọi là lý thuyết gender; từ nền văn hóa tạm bợ cho đến não trạng bài trừ sinh sản và ảnh hưởng của các kỹ thuật sinh học trong lãnh vực truyền sinh; từ tình trạng thiếu nhà ở và công ăn việc làm cho đến nạn dâm ô và lạm dụng trẻ em; từ sự chú ý đến những người khuyết tật, đến sự tôn trọng người già; từ sự phá hủy gia đình bằng luật pháp, cho đến nạn bạo hành phụ nữ. ĐGH nhấn mạnh sự cụ thể, là một con số cơ bản của Tông Huấn. Và chính sự cụ thể và thực tiễn tạo nên sự khác biệt cơ bản giữa “những lý thuyết” giải thích thực tại và các “ý thức hệ”.

Trích dẫn Tông Huấn Familiaris consortio, ĐGH Phanxicô khẳng định rằng một điều lành mạnh là để ý đến thực tại cụ thể, vì “những yêu cầu và tiếng gọi của Chúa Thánh Linh cũng vang dội cả trong những biến cố lịch sử”, qua đó, “Giáo Hội có thể được hướng dẫn để hiểu biết sâu xa hơn về mầu nhiệm khôn lường hôn nhân và gia đình” (AL 31). Nếu không lắng nghe thực tại thì không thể hiểu những đòi hỏi của hiện tại cũng như những tiếng gọi của Thánh Linh. ĐGH nhận xét rằng cá nhân chủ nghĩa thái quá làm cho con người ngày nay khó hiến thân cho tha nhân một cách quảng đại (XC AL 33). Đây là hình chụp thật đúng về tình trạng: “Người ta sợ cô đơn, muốn một không gian được bảo vệ và chung thủy, nhưng đồng thời người ta cũng gia tăng lo sợ bị kẹt trong một tương quan, khiến cho sự thỏa mãn những khát vọng cá nhân của họ bị đình trệ” (AL 34).

Sự khiêm tốn của óc thực tế giúp ta không trình bày “một lý tưởng thần học quá trừu tượng về hôn nhân, như thể hôn nhân được kiến tạo một cách giả tạo, xa rời tình trạng cụ thể và những khả thể thực sự của các gia đình như trong thực tế” (AL 36). Thái độ duy lý tưởng làm ta không cứu xét hôn nhân như thực chất của nó, nghĩa là “một tiến trình năng động tăng trưởng và thành đạt”. Vì thế cũng chẳng cần tin rằng các gia đình chỉ được nâng đỡ “bằng cách nhấn mạnh đến các vấn đề đạo lý, đạo đức sinh học và luân lý, không cổ võ họ cởi mở đối với ơn thánh” (AL 37). Khi mời gọi tất cả hãy tự phê bình về lối trình bày không thích hợp về thực tại hôn nhân và gia đình, ĐGH nhấn mạnh rằng cần dành chỗ cho việc huấn luyện lương tâm các tín hữu: “Chúng ta được kêu gọi huấn luyện lương tâm, và đừng chủ trương thay thế lương tâm” (AL 37). Chúa Giêsu đã đề nghị một lý tưởng yêu sách nhưng “Ngài không bao giờ đánh mất sự gần gũi cảm thương với những người yếu đuối như người phụ nữ xứ Samaria hoặc người phụ nữ ngoại tình” (AL 38).

Chương III: “Cái nhìn hướng về Chúa Giêsu: ơn gọi của gia đình

Chương III được dành cho một số yếu tố nòng cốt trong giáo huấn của Giáo Hội về hôn nhân và gia đình. Sự hiện diện của chương này thật là quan trọng vì trình bày một cách cô đọng trong 30 đoạn ơn gọi của gia đình theo Tin Mừng, như đã được Giáo Hội quan niệm trong thời gian, nhất là về đề tài bất khả phân ly, tính chất bí tích của hôn phối, sự truyền sinh và giáo dục con cái. Hiến chế Gaudium et Spes Vui Mừng và Hy Vọng, của Công đồng chung Vatican II, thông điệp Humanae vitae, Sự sống con người, của Đức Phaolô VI, Tông huấn Familiaris consortio về gia đình của Đức Gioan Phaolô II, được trưng dẫn nhiều trong chương này.

Cái nhìn bao quát, và cũng bao gồm cả “những tình trạng bất toàn”. Thực vậy, chúng ta đọc thấy: “Phân định về sự hiện diện những mầm mống của Lời” trong các nền văn hóa khác (Xc Ad Gentes, 11) có thể được áp dụng cho cả những thực tại hôn nhân và gia đình. Ngoài hôn nhân tự nhiên đích thực, còn có những yếu tố tích cực trong những hình thức hôn phối thuộc các truyền thống tôn giáo khác, tuy không thiếu những bóng đen (AL 77). Suy tư cũng bao gồm các “gia đình bị thương tổn”. Đứng trước những gia đình này, ĐTC trích dẫn bản tường trình chung kết Thượng HĐGM năm 2015, nói rằng “Cần luôn luôn nhắc nhớ một nguyên tắc tổng quát: ”Các vị mục tử hãy biết rằng, vì lòng yêu mến sự thật, mình có nghĩa vụ phải phân định kỹ lưỡng các hoàn cảnh’ (Familiaris consortio, 84). Cấp độ trách nhiệm không đồng đều trong mọi trường hợp, và có thể có những yếu tố hạn chế khả năng quyết định. Vì thế, trong khi cần trình bày đạo lý một cách rõ ràng, cần tránh những phán đoán không để ý đến sự phức tạp của các hoàn cảnh, và cần chú ý đến cách thức con người đang sống và đau khổ vì tình trạng của họ” (AL 79)

Chương IV: “Tình yêu trong hôn nhân

Chương IV bàn về tình yêu trong hôn nhân và trình bày nó từ bài ca tình yêu của thánh Phaolô trong thư thứ I gửi tín hữu Corinto, đoạn 13, 4-7. Chương này là một bài chú giải thực sự quan tâm, chính xác, được gợi hứng và có đặc tính thơ phú về đoạn thư của thánh Phaolô. Chúng ta có thể nói đây là một sưu tập những mảnh trong diễn văn bình thường, quan tâm mô tả tình yêu của con người trong những hạn từ tuyệt đối cụ thể. Ta có ấn tượng mạnh vì khả năng cứu xét tâm lý nội tâm trong bài chú giải này. Sự sâu xa về tâm lý đi vào thế giới cảm xúc của các đôi vợ chồng – tích cực hoặc tiêu cực – và trong chiều kích lạc thú của tình yêu. Đây là một đóng góp hết sức phong phú và quí giá đối với đời sống của đôi vợ chồng theo tinh thần Kitô, cho đến nay, ít có được trong các văn kiện trước đây của các vị Giáo Hoàng.

Theo thể thức của mình, chương này là một tiểu luận trong một khảo luận rộng lớn hơn, đầy ý thức sự đặc tính thường nhật của tình yêu là kẻ thù của mọi thái độ duy lý tưởng. ĐGH viết: “Ta không được ném trên hai người vốn có những giới hạn, gánh nặng kinh khủng về nghĩa vụ họ phải diễn tả một cách hoàn hảo sự kết hiệp giữa Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài, vì hôn nhân như dấu chỉ bao hàm một “tiến trình năng động, từ từ tiến bước với sự hội nhập tiệm tiến các hồng ân của Thiên Chúa” (AL 122). Nhưng đàng khác, ĐGH nhấn mạnh đặc biệt và quyết liệt về sự kiện “trong chính bản chất của tình yêu vợ chồng có sự cởi mở đối với sự chung cục” (AL 123), chính trong sự liên kết vui mừng và cơ cực, căng thẳng và nghỉ ngơi, đau khổ và giải thoát, thỏa mãn và tìm kiếm, khó chịu và khoái lạc” (AL 126) mà có hôn nhân.

Chương này kết luận với một suy tư rất quan trọng về “sự biến đổi của tình yêu” vì “sự kéo dài cuộc sống làm cho xảy ra điều không có trong các thời đại khác: tương quan thân mật và sự thuộc về nhau phải được bảo tồn trong 4, 5 hoặc 60 năm, và điều này bao hàm sự cần thiết phải tái chọn lựa nhau nhiều lần(AL 163). Khía cạnh thể lý thay đổi và sự thu hút của tình yêu không giảm sút, nhưng thay đổi: ước muốn tình dục với thời gian có thể biến thành ước muốn thân mật và “đồng lõa”. “Chúng ta không thể hứa với nhau có cùng những tâm tình suốt đời. Nhưng chắc chắn chúng ta có thể có một dự án chung bền vững, dấn thân yêu nhau và sống kết hiệp cho đến khi sự chết tách rời chúng ta, và luôn sống một sự thân mật phong phú” (AL 163).

Chương V: “Tình yêu trở nên phong phú

Chương này qui trọng tâm vào sự phong phú và sinh sản con cái trong tình yêu. Chương bàn theo thể thức linh đạo và tâm lý sâu xa về việc đón nhận một sự sống mới, về sự chờ đợi thai nghén, tình yêu của người mẹ và người cha. Nhưng cũng nói về sự phong phú nới rộng, nhận con nuôi, đón nhận sự đóng góp của các gia đình để thăng tiến “một nền văn hóa gặp gỡ”, nền văn hóa sự sống trong gia đình theo nghĩa rộng, với sự hiện diện của các chú bác, cô dì, anh em họ, thân nhân họ hàng, bạn hữu. Tông huấn “Niềm Vui Yêu Thương” không cứu xét gia đình chỉ có 1 người cha hoặc 1 người mẹ, vì ý thức rõ về gia đình như một mạng các quan hệ rộng rãi. Chính đặc tính thần bí của bí tích hôn phối có một đặc tính xã hội sâu xa (Xc AL 186). Và bên trong chiều kích xã hội ấ, ĐGH đặc biệt nhấn mạnh vai trò đặc thù của tương quan giữa người trẻ và người già, cũng như tương quan giữa anh chị em như một sự thực tập để tăng trưởng trong quan hệ với tha nhân.

Chương VI: Một số viễn tượng mục vụ

Trong chương VI, ĐGH đề cập đến một số con đường mục vụ hướng dẫn việc xây dựng gia đình vững chắc và phong phú theo kế hoạch của Thiên Chúa, trong phần này, Tông Huấn tham chiếu rộng gãi các tường trình chung kết của hai Thượng HĐGM và các bài huấn giáo của ĐGH Phanxicô và Gioan Phaolô II. Ngài tái khẳng định rằng gia đình là chủ thể chứ không phải chỉ là đối tượng cần được rao giảng Tin Mừng. ĐGH nêu rõ rằng ”Các thừa tác viên thánh chức thường thiếu sự huấn luyện thích hợp để đối phó với những vấn đề phức tạp hiện nay của các gia đình” (AL 202). Một đàng, cần phải cải tiến việc huấn luyện tâm lý tình cảm cho các chủng sinh và để gia đình họ can dự nhiều hơn vào việc huấn luyện về thừa tác vụ (Xc AL 203). đàng khác, “một điều cũng có thể hữu ích là kinh nghiệm về truyền thống lâu dài của Đông Phương về các LM có gia đình” (AL 202).

Rồi ĐGH đề cập đến vấn đề hướng dẫn những người đính hôn trong hành trình chuẩn bị kết hôn, tháp tùng các đôi vợ chồng trong những năm đầu trong đời sống hôn nhận (kể cả đề tài sinh sản trách nhiệm), nhưng cả một số hoàn cảnh phức tạp, và đặc biệt là trong các cuộc khủng hoảng, với ý thức rằng “mỗi cuộc khủng hoảng che đậy một tin mừng cần biết lắng nghe, cải tiến thính giác của trái tim” (AL 232). Phần này phân tích một số nguyên nhân gây ra khủng hoảng, trong đó có sự trưởng thành chậm về tình cảm (Xc AL 239).

Ngoài ra, chương này cũng nói về sự tháp tùng những người bị bỏ rơi, ly thân hoặc ly dị, và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải tổ mới đây về các thủ tục nhìn nhận hôn phối vô hiệu. ĐGH nhấn mạnh sự đau khổ của các con cái trong những tình trạng xung đột và kết luận rằng: “Ly dị là một điều bất hạnh, và con số các vụ ly dị gia tăng là điều rất đáng lo âu. Vì thế, chắc chắn nghĩa vụ mục vụ quan trọng nhất của chúng ta đối với các gia đình là củng cố tình yêu và giúp chữa lành các vết thương, làm sao để chúng ta có thể phòng ngừa sự lan tràn thảm trạng này trong thời đại chúng ta” (AL 246).

Tiếp đến, ĐTC bàn đến những tình trạng hôn phối hỗn hợp và hôn phối khác đạo, tình trạng các gia đình có các con cái có xu hướng đồng tính luyến ái, ngài tái khẳng định sự tôn trọng đối với họ và phủ nhận mọi thứ kỳ thị bất công và mọi hình thức gây hấn hoặc bạo hành. Về phương diện mục vụ, điều quí giá là phần chót của chương này: “khi tử thần đưa nọc độc của nó vào”, về đề tài mất những người yêu thương và tình trạng góa bụa.

Chương VII: Củng cố việc giáo dục con cái

Chương 7 hoàn toàn dành cho việc giáo dục con cái: việc giáo dục con cái về luân lý, giá trị của hình phạt như một kích thích, sự thực tế kiên nhẫn, giáo dục về tính dục, thông truyền đức tin, và tổng quát hơn là đời sống gia đình như một bối cảnh giáo dục. Thật là hay sự khôn ngoan thực tiễn được diễn tả trong mỗi đoạn, nhất là quan tâm đến tính chất tiệm tiến và những bước tiến nhỏ ”có thể được hiểu, chấp nhận và đánh giá cao” (AL 271).

Có một đoạn đặc biệt ý nghĩa và có tính chất sư phạm cơ bản trong đó ĐGH Phanxicô khẳng định rõ ràng rằng “Thái độ bị ám ảnh không có tính chất giáo dục và không thể có một sự kiểm soát tất cả những hoàn cảnh trong đó một người con có thể trải qua (…). Nếu một người làm cha mẹ bị ám ảnh muốn biết con mình đang ở đâu và kiểm soát mọi sự di chuyển của con, thì chỉ tìm cách thống trị không gian của đứa con mà thôi. Làm như thế họ không giáo dục con, không làm cho nó vững mạnh, không chuẩn bị con đương đầu với những thách đố. Điều quan trọng chính yếu là tạo nên nơi con cái, một cách yêu thương, những tiến trình trưởng thành tự do, chuẩn bị, tăng trưởng toàn diện, vun trồng sự tự lập đích thực” (AL 260)

Phần nói về sự giáo dục tính dục cũng rất quan trọng, mang tựa đề rất rõ ràng: “Đồng ý về việc giáo dục tính dục”. Đây là điều cần thiết và ta tự hỏi xem “các cơ sở giáo dục của chúng ta có đảm nhận thách đố ấy hay không (..) trong một thời đại mà người ta có xu hướng tầm thường hóa và làm cho tính dục trở nên nghèo nàn”. Việc giáo dục tính dục cần được thực hiện “trong khuôn khổ một nền giáo dục về tình yêu, hiến thân cho nhau” (AL 280). ĐGH cảnh giác đối với những thành ngữ như “tính dục an toànvì nó biểu lộ một thái độ tiêu cực đối với mục đích tự nhiên của tính dục là sinh sản, như thể sự kiện đứa con là một kẻ thù cần phải được bảo vệ để chống lại. Làm như thế người ta cổ võ sự gây hấn tự yêu thương mình thay vì một thái độ tiếp đón” (AL 283).

Chương VIII: “Tháp tùng, phân định và hội nhập sự yếu đuối

Chương này là một lời mời gọi có lòng thương xót và phân định mục vụ trước những tình trạng không hoàn toàn đáp ứng điều mà Chúa đề nghị. Ở đây, ĐGH dùng 3 động từ rất quan trọng, đó là “tháp tùng, phân định và hội nhập” là những điều cơ bản trong việc đối phó với những tình trạng yếu đuối, phức tạp hoặc không hợp lệ. Vì thế, ĐGH trình bày sự tiệm tiến cần thiết trong mục vụ, tầm quan trọng của sự phân định, các qui luật và hoàn cảnh giảm khinh trong việc phân định mục vụ, và sau cùng là điều mà ngài định nghĩa là “tiêu chuẩn thương xót mục vụ”.

Chương 8 rất tế nhị. Để đọc chương này, ta phải nhớ rằng “nhiều khi công việc của Giáo Hội giống như công việc của một bệnh viện dã chiến” (AL 291). Ở đây, ĐGH đón nhận thành quả suy tư của Thượng HĐGM về các đề tài tranh luận khác nhau. Ngài tái khẳng định ý nghĩa của hôn nhân Kitô giáo và thêm rằng “những hình thức kết hợp khác hoàn toàn trái ngược với lý tưởng hôn nhân Kitô giáo, trong khi một số hình thức khác thể hiện lý tưởng ấy ít là một cách phần nào hoặc tương tự”. Vì thế, Giáo Hội “không quên đề cao giá trị của những yếu tố xây dựng trong những tình trạng chưa đáp ứng giáo huấn của Giáo Hội hoặc không đáp ứng nữa giáo huấn của Hội Thánh về hôn nhân” (AL 292).

Về sự phân định đối với những tình cảnh bất hợp lệ, ĐGH nhận xét rằng “Cần tránh những phán đoán không để ý đến sự phức tạp của những hoàn cảnh khác nhau, và cần phải chú ý đến cách thức những người sống và chịu đau khổ vì hoàn cảnh của họ” (AL 296). Và ngài viết tiếp: “Vấn đề ở đây, là hội nhập tất cả mọi người, phải giúp mỗi người tìm ra cách thức riêng của họ để tham gia cộng đoàn Giáo Hội, để họ cảm thấy mình là đối tượng của một lòng thương xót không do công trạng, vô điều kiện và nhưng không” (AL 297). Và “Những người ly dị đang sống một cuộc kết hiệp mới, chẳng hạn, họ có thể ở trong những tình trạng rất khác nhau, và không thể xếp loại hoặc khép họ trong những lời khẳng định quá cứng nhắc mà không để chỗ cho một sự phân định thích hợp về con người và về mục vụ” (AL 298).

Theo đường hướng đó, đón nhận những nhận xét của nhiều nghị phụ, ĐGH khẳng định rằng “những tín hữu đã chịu phép rửa mà ly dị và tái hôn dân sự phải được hội nhập hơn vào các cộng đoàn Kitô trong những cách thức khác nhau có thể, tránh mọi hình thức gây gương mù gương xấu”. Sự tham gia của họ có thể được biểu lộ trong nhiều dịch vụ của Giáo Hội (..). Họ không nên cảm thấy mình bị tuyệt thông, nhưng có thể sống và trưởng thành như các phần tử sinh động của Giáo Hội (…). Sự hội nhập này cũng là điều cần thiết để chăm sóc và giáo dục con cái theo tinh thần Kitô giáo” (AL 299).

Tổng quát hơn, ĐGH đưa ra lời khẳng định rất quan trọng để hiểu hướng đi và ý nghĩa của Tông Huấn: “Nếu để ý đến vô số những hoàn cảnh cụ thể khác nhau (…) thì có thể hiểu rằng không nên mong đợi từ Thượng HĐGM hoặc từ Tông huấn này một qui luật tổng quát mới thuộc loại giáo luật, có thể áp dụng cho mọi trường hợp. Chỉ có thể có một sự khuyến khích mới hãy phân định bản thân và mục vụ theo tinh thần trách nhiệm về những hoàn cảnh đặc biệt không giống nhau trong mọi trường hợp”, những hậu quả hoặc những công hiệu của một qui luật không nhất thiết phải luôn luôn như nhau” (AL 300). ĐGH khai triển một cách sâu rộng những đòi hỏi và đặc tính của hành trình tháp tùng và phân định trong sự đối thoại sâu rộng giữa các tín hữu và các vị mục tử. Với mục đích đó, ngài nhắc nhở suy tư của Giáo Hội về “những ảnh hưởng và hoàn cảnh giảm khinh” về sự qui trách và trách nhiệm những hành động, và dựa vào thánh Tôma Aquino, ngài dừng lại về tương quan giữa “các qui luật và sự phân định” để khẳng định rằng: “Đúng là các qui luật tổng quát trình bày một điều thiện hảo mà ta không bao giờ được phép không để ý hoăc coi nhẹ, trong cách diễn tả các qui luật tổng quát ấy, không thể tuyệt đối bao gồm mọi hoàn cảnh đặc thù. Đồng thời, cần nói rằng chính vì lý do đó, điều thuộc về sự phân định thực hành đứng trước một hoàn cảnh đặc thù không thể đưa lên hàng một qui luật” (AL 304).

Trong phần chót của chương 8, “tiêu chuẩn lòng thương xót mục vụ”, về sự mơ hồ, ĐGH mạnh mẽ khẳng định rằng “Hiểu những hoàn cảnh ngoại lệ không bao giờ bao hàm việc che dấu ánh sáng lý tưởng trọn vẹn nhất và cũng không đề nghị ít hơn điều mà Chúa Giêsu cống hiến cho con người. Ngày nay điều quan trọng hơn một nền mục vụ về những thất bại, là cố gắng mục vụ để củng cố hôn nhân, cũng như phòng ngừa những tan vỡ” (AL 307). Nhưng ý nghĩa tổng quát của chương 8 và tinh thần mà ĐGH Phanxicô muốn đề ra cho việc mục vụ của Giáo Hội, còn có thể tóm tắt rõ ràng trong những lời cuối: “Tôi mời gọi các tín hữu đang sống trong những hoàn cảnh phức tạp hãy tín thác đến nói chuyện với các vị mục tử của mình hoặc với những giáo dân đang sống tận tụy với Chúa. Họ sẽ không luôn luôn tìm thấy nơi những vị ấy một sự khẳng định cách lý tưởng và những ước muốn của mình, nhưng chắc chắn họ sẽ nhận được một ánh sáng giúp họ hiểu rõ hơn điều đang xảy ra và họ có thể khám phá một hành trình trưởng thành bản thân. Và tôi mời các vị mục tử hãy thân ái lắng nghe trong sự thanh thản, với ước muốn chân thành đi vào thảm kịch của con người và hiểu quan điểm của họ, để giúp họ sống tốt đẹp hơn và nhìn nhận chỗ đứng của họ trong Giáo Hội” (AL 312). Về tiêu chuẩn lòng thương xót mục vụ, ĐGH Phanxicô mạnh mẽ khẳng định rằng: “nhiều khi chúng ta bị mất mát và phải hy sinh nhiều, khi dành chỗ trong mục vụ cho tình yêu thương vô điều kiện của Thiên Chúa. Chúng ta đặt bao nhiêu điều kiện cho lòng từ bi khiến cho nó không còn ý nghĩa cụ thể và ý nghĩa đích thực nữa, và đây là cách thức tệ nhất làm tan loãn Tin Mừng” (AL 311).

Chương IX: Linh đạo hôn nhân và gia đình

Chương 9 bàn về linh đạo hôn nhân và gia đình, “được hình thành bằng hàng ngàn cử chỉ thực tế và cụ thể” (AL 315). ĐGH khẳng định rõ ràng rằng “những người có những ước muốn linh đạo sâu xa không được cảm thấy gia đình làm cho họ xa rời sự tăng trương trong đời sống Tinh Thần, nhưng gia đình là một con đường Chúa dùng để đưa họ đến tột đỉnh sự kết hiệp thần bí” (AL 316). Tất cả, “những lúc vui mừng, an nghỉ hoặc lễ hội, và cả tính dục, được cảm nghiệm như một sự tham gia sự sống sung mãn của sự phục sinh của Chúa” (AL 317). Vì thế, Tông huấn nói về kinh nguyện dưới ánh sáng Phục Sinh, linh đạo tình yêu loại trừ người thứ ba, và tự do trong thách đố và khát vọng sống với nhau cho đến “đầu bạc răng long”, phản ánh lòng trung tín của Thiên Chúa (Xc AL 319).

Và sau cùng, linh đạo “chăm sóc, an ủi và khích lệ”. Trọn cuộc sống gia đình là một đồng cỏ từ bi. ĐTC viết: “Mỗi người, kỹ lưỡng vẽ và viết lên trong cuộc sống của người khác (AL 322). Thật là một “kinh nghiệm thiêng liêng sâu xa khi chiêm ngắm mỗi người yêu quí với đôi mắt của Thiên Chúa và nhận ra Chúa Kitô nơi người ấy” (AL 323)

Trong đoạn kết luận, ĐTC quả quyết: “Không có gia đình nào là một thực tại hoàn hảo và được kết thành một lần cho tất cả, nhưng đòi một sự tiến triển từ từ khả năng yêu thương của mình (…). Tất cả chúng ta được kêu gọi luôn cố gắng đi xa hơn chính mình, những giới hạn của mình và mỗi gia đình phải sống trong sự khích lệ liên tục như thế. Các gia đình chúng ta hãy tiến bước, chúng ta hãy tiếp tục bước đi! (…). Chúng ta đừng đánh mất hy vọng vì những giới hạn của mình, nhưng cũng đừng từ bỏ không tìm kiếm tình yêu và sự hiệp thông sung mãn đã được hứa cho chúng ta” (AL 325).

Tông Huấn kết thúc với một kinh nguyện dâng lên Thánh Gia Thất (AL 325).

(Vatican 08/04/2016)

  1. Trần Đức Anh OP chuyển ý